Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hướng nghiệp cho học sinh trong lớp chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.77 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
1. Cơ sở lí luận.
2. Thực trạng.
3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết.
3.1. Giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa của việc lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp.
3.2. Giúp cá nhân có hiểu biết về thế giới nghề nghiệp, thông
tin về thị trường lao động tại địa phương cũng như cả nước.
3.3. Giúp các em tìm hiểu năng lực, khả năng của bản thân,
rồi đưa ra quyết định lựa chon được nghề phù hợp.
3.4. Giúp học sinh hiểu “Không ai thành công mà không
học, Đại học không phải là con đường duy nhất thành công”.
3.5. Nâng cao chất lượng thật sự môn giáo dục hướng nghiệp
ở trường phổ thông.
3.6. Nhà trường Kết hợp với các doanh nghiêp, trường nghề
tổ chức dạy nghề miễn phí cho các em.
3.7. Cần phối kết hợp tốt giữa gia đình - nhà trường - xã hội
III. Kết luận, kiến nghị.
1. Kết luận.
2. Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo.
Danh mục các đề tài SKKN đã được hội đồng đánh giá xếp
loại cấp Sở GD&ĐT và các cấp cao hơn xếp loại từ C trở
lên.



Trang
2
3
4
4
4
4
4
4
6
6
7
9
12

13
15
15
16
16
17
18
19

1


I. MỞ ĐẦU
Gặp lại em cậu học trò năm xưa mà trong lần làm hồ sơ thi đại học đã nói

với tôi “ Em thích khoa công nghệ thông tin đại học Bưu chính nhưng bố em lại
bảo thi Kinh tế cô ạ vì nhà em đã có chỗ xin việc rồi”. Lúc đó tôi chỉ nói mọi
việc do em và gia đình quyết định vì nó liên quan đến cuộc sống và tương lai
sau này của em. Tôi không tìm hiểu xem liệu em thi Kinh tế có hợp với tính
cách và năng lực của em không?. Em học chừng hai năm thì em làm hồ sơ thi lại
trường Bưu Chính viễn thông. Và bây giờ em đã là một kỹ thuật viên IT cho một
công ty phần mềm có tiếng. Em hồ hởi “Lựa chọn lại nghề là quyết định đúng
cô ạ. Em thích công việc của mình lắm”. Có lẽ ngày đó, nếu tôi tìm hiểu niềm
đam mê của em sẽ định hướng ngay từ đầu thì chắc em không phải muộn mất
hai năm để quyết định lại con đường đi cho mình.
Rồi vô tình tôi gặp lại cô học trò giỏi văn năm nào (Em từng đạt giải 3 môn
văn cấp tỉnh), giờ đã là bà mẹ hai con lam lũ với đồng ruộng. Em từng nói với
tôi ước mơ trở thành luật sư để bảo vệ công bằng cho xã hội nhưng ước mơ đã
gác lại khi mẹ em bảo đầy người học luật ra đang thất nghiêp. Chính điều đó đã
khiến em dao động và an phận đi làm công nhân may gần nhà rồi lấy chồng.
Công việc may tăng ca vất vả không có thời gian chăm sóc con cái nên em phải
ở nhà làm ruộng. Không phải bố mẹ em không có điều kiện cho em học mà là
cái nhìn học xong thất nghiệp đã ăn vào tư tưởng em và gia đình em mà tôi đáng
ra phải kéo nó ra mới phải, đáng ra tôi khuyên em nen học một nghề nào đó hợp
với em nhưng tôi đã không làm. Hai em chỉ là một trong số ít những trường hợp
lúc mới làm chủ nhiệm kinh nghiệm chưa có nhiều để có thể hướng dẫn các em
cẩn thận trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Lúc đó tôi luôn sợ mình tư vấn cho
các em chọn trường này, trường kia sau này các em có vấn đề gì lại trách thầy cô
nên không phải riêng tôi mà hầu hết giáo viên chủ nhiệm đều như vậy khi hướng
nghiệp cho các em đều nói chung không cụ thể vì sợ trách nhiệm.
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội khoảng 60% sinh
viên ra trường làm trái ngành và tính đến năm 2017 có hơn 200.000 cử nhân thất
nghiệp. Trong số các cử nhân ra trường, một phần nào đó không làm đúng ngành
nghề thì nhiều người nghĩ cũng bình thường. Nhưng nếu con số đó là hàng trăm
nghìn người lại là điều đáng phải suy nghĩ.

Nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất vẫn xuất phát từ chính các em
học sinh, gia đình và trường học trước khi các em vào Đại học. Ở Việt Nam,
việc chọn ngành nghề phụ thuộc nhiều vào các vị phụ huynh hoặc xu hướng
nghề nghiệp “hót”, cơ hội tiếp xúc và hiểu rõ về các công việc trong xã hội với
các em hầu như là con số không. Chính vì vậy, trước khi nộp hồ sơ Đại học,
nhiều em vẫn chưa thể xác định được sở thích nghề nghiệp của bản thân để có
lựa chọn thích hợp cho tương lai, có khi nhắm mắt đưa chân để đỗ vào một
trường nào cho có cái mác “Đại học”. Điều này dẫn tới hậu quả là sau khi vào
học, tiếp xúc với các môn chuyên ngành “khó” lại không thực sự hứng thú với
ngành học đó làm các bạn sinh viên thụ động, chán nản, lười học lười áp dụng
vào cuộc sống.
2


1. Lí do chọn đề tài.
“Em ước mơ sau này trở thành bác sĩ?”, “Em muốn làm cô giáo”, “Em
thích làm công an…” là những câu nói cửa miệng của rất nhiều thế hệ học sinh
khi được hỏi lớn lên em thích học gì, làm nghề gì. Tuy nhiên, khi cổng trường
Đại học mở ra thì nhiều em tỏ ra hoang mang không biết mình sẽ chọn nghề gì,
học trường nào trước vô vàn lựa chọn.
Lựa chọn một nghề nghiệp phù hợp cho mỗi người là một việc thật sự khó
khăn, và càng khó khăn hơn đối với đối tượng là học sinh lớp 12. Mặc dù các
em đã được học nhiều giờ hướng nghiệp trong suốt quá trình học, được sự hỗ trợ
nhiệt tình của nhà trường, của các trường cao đẳng đại học... trong công tác
hướng nghiệp trước mỗi mùa tuyển sinh nhưng để có được quyết định thi vào
trường cao đẳng, đại học hay chỉ học nghề ? Phải thi đại học theo ước mơ, sở
thích, khả năng học lực bản thân hay theo gia đình, phong trào?, hay đi học cao
đẳng , hay đi làm công nhân...thì học sinh cần phải được tư vấn nhiều hơn nữa
để có thể hiểu rõ về khả năng, sở thích bản thân phù hợp với nghề mình chọn,
phù hợp với nhu cầu việc làm của xã hội.


Các em băn khoăn trước ngã rẽ cuộc đời.
Với vai trò là một giáo viên bộ môn cũng là một giáo viên chủ nhiệm và
hơn nữa là người gần gữi với các em và hiểu các em nhất và cũng từng trải qua
thời điểm khó khăn khi đưa ra quyết định đến tương lai sự nghiệp lâu dài của
mình, tôi rất cảm thông cho những khó khăn của các em trong việc đưa ra quyết
định quan trọng có liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội. Tôi mong muốn
làm được điều gì đó nhằm hỗ trợ tốt nhất cho các em học sinh trong quá trình
“chọn nghề” nên đã viết và thực hiện chuyên đề “Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động hướng nghiệp cho học sinh trong lớp chủ nhiệm”.
3


2. Mục đích nghiên cứu.
Qua chuyên đề này, tôi mong rằng các em học sinh lớp 10, lớp 11 cũng như
lớp 12 sẽ biết thêm nhiều thông tin cần thiết trong quá trình định hướng cho
mình trong việc lựa chọn một trường học, một nghề học thực sự phù hợp với
năng lực, sở thích bản thân, với hoàn cảnh gia đình và với nhu cầu xã hội sau
khi hoàn thành chương trình học Trung học phổ thông.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Là học sinh lớp10, lớp11 và đặc biêt là học sinh 12 theo học chương trình
THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Dùng phương đánh giá, phân tích, xử lý thông qua trắc nghiệm khách quan
để đánh giá năng lực của các em.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận.
Đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hướng nghiệp cho
học sinh trong lớp chủ nhiệm’’ mong muốn tìm ra những biện pháp giúp học
sinh lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân, học sinh THPT. Các yếu tố chi

phối đến việc lựa chọn. Từ đó, khái quát và tìm hiểu xu thế chung của giới trẻ
trong việc lựa chọn ngành nghề của họ. Bên cạnh đó, đề tài còn mong muốn tìm
hiểu nhận thức của học sinh về nghề nghiệp mà mình lựa chọn và muốn có được
trong tương lai, nguyên nhân dẫn tới sự nhận thức đó. Từ đó, có thể đưa ra cho
học sinh THPT những biện pháp có khả năng hữu ích, giúp các em định hướng
cho bản thân trong việc lựa chọn những việc làm nghề nghiệp thích hợp.
2. Thực trạng vấn đề
Trường THPT Trần Phú hàng năm có hơn 300 học sinh rời ghế nhà trường.
Vấn đề nghề nghiệp và việc làm đang tạo nên mối quan tâm cấp bách và trực
tiếp nhất của các em. Vấn đề này, trước đây công tác hướng nghiệp cho học sinh
đã được Bộ GD và ĐT triển khai vào các nhà trường nhà trường nhiều năm qua
nhưng hiệu quả mang lại vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Bởi nhận thức của
của học sinh về nghề nghiệp, nhất là học sinh nông thôn và cả phụ huynh (chủ
yếu là làm ruộng) còn hạn chế, trong khi giáo viên được giao nhiệm vụ này
không coi trọng hoặc không có nhiều kiến thức về hướng nghiệp. Vì vậy việc
giáo dục hướng nghiệp chưa mang lại hiệu quả cao. Khi chọn nghề, chọn trường
các em thường chọn theo cảm tính, chọn những trường “Hót” cho oai như Y,
Dược, Bách Khoa, Ngoại Thương.....mà chẳng biết trường đó đào tạo gì, liệu
mình có đam mê không mà các em thường quan tâm “Ngành đó sau này dễ
kiếm việc làm, ngành này lương cao, ngành đó gia đình mình có cơ, ngành này
hiện nay đang hót nhiều bạn bè thi nên thi luôn cho vui…”.
Cách đây mấy năm thì hàng loạt học sinh đổ xô học kinh tế, nhất là tài
chính ngân hàng, kế toán... để bây giờ hoạt vạn cử nhân thất nghiệp hoặc đi làm
trái nghề, trong khi đó các nghành bên lâm nghiệp, ngư nghiệp, nông nghiệp thì
lại thiếu nguồn nhân lực giỏi. Thực tế tôi nhận thấy, rất nhiều phụ huynh nuôi
con cái ăn học với hi vọng thi đậu vào một trường dành tiếng để sau này có một
4


nghề “Danh giá”, vì tương lai các con là đúng rồi nhưng còn phải để gia đình có

dịp để “nở mày, nở mặt” với thiên hạ nữa chứ. Ôi cái tâm lý chung của các bậc
phụ huynh “Thương con”: “Chúng mày phải đỗ để tao ngẩng mặt với họ hàng,
xã hội chứ...thằng A con B nhà nghèo thế mà vẫn đỗ còn loại mày chỉ ăn với
học...”
Chính cái người đi học cũng thế: cái tội lớn nhất của nó là tội sĩ diện. Trong
đầu chỉ nghĩ đến phải vào Đại học lớn cho oai chứ cũng có biết vào đấy sau này
mục đích làm gì đâu. Thật nực cười khi ai cũng coi trọng ngành này hơn ngành
kia, Đại học thì hơn Cao đẳng và hơn học nghề. Học thì phải trường tốp đầu thì
mới oai không biết lực học của mình ra sao. Người nào học Cao Đẳng, Học
Nghề thì y rằng bị coi thường là dốt. Thử hỏi, học là để phục vụ mục đích sau ra
trường hay để oai?.

Các em lựa chọn con đường đi cho đúng
Nhận định cổ hủ và sai lầm kéo tiếp sai lầm. Cả xã hội đâm đầu vào học đại
học và làm công việc văn phòng, nghiên cứu phân tích thì ai làm công việc sản
xuất - thừa thầy thiếu thợ, bảo sao lại thất nghiệp hàng loạt. Ngày xưa tôi cũng
từng có niềm tin cổ hủ rằng “Muốn làm gì thì làm, cũng phải có bằng đại học”
Đại học chính là niềm mơ ước, đại học là đích đến chứ không phải mấy cao
đẳng trung cấp thấp kém. Nhưng thực tế đã đã trả lời tôi rằng không phải như
vây, và không phải cứ ai học trường danh tiếng là sẽ thành công trên đường đời.
Tôi có cô bạn thích nghề Kế toán thi Học viện Tài Chính - Kế Toán nhưng
không đậu mà chỉ đậu khoa Kế toán của Đại học Công đoàn. Gia đình không
cho học và bản thân tôi cũng khuyên không nên học vì nghĩ trường đó không có
tiếng sau này khó xin việc. Cô thuyết phục gia đình cho nhập học vì cô nghĩ đó
là khoa cô thích, cô vui vẻ học tiếp và trao dồi thêm ngoại ngữ, tin học. Và hiện
giờ cô thành công nhất trong lớp trong khi các bạn đỗ trường tốp thì vẫn làm
công chức bình thường. Và hầu hết bạn bè tôi thành đạt không phải đều xuất
5



phát học từ trường đại học nổi tiếng. Vì thực trạng trên tôi đưa ra một số biện
pháp cần thiêt để thực hiện để các em lựa chọn nghề nghiệp cho mình phù hợp.
3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hướng nghiệp của lớp chủ
nhiệm.
3.1. Giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa của việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp.
Chọn nghề đối với mỗi cá nhân trước ngưỡng cửa vào đời có một ý nghĩa
rất quan trọng, nó không đơn thuần là chọn một công việc cụ thể nào đó, mà còn
là sự lựa chọn một cách sống, một con đường sống mai sau nữa. Nó không chỉ
có ý nghĩa cá nhân mà còn có ý nghĩa xã hội. Riêng đối với học sinh phổ thông
trung học vào năm cuối cấp, việc lựa chọn nghề nghiệp khi tốt nghiệp ra trường
là mối quan tâm sâu sắc, chi phối mọi suy nghĩ, tình cảm, hoạt động của các em.
Không chỉ đến bây giờ chọn nghề mới trở thành vấn đề “ Nóng hổi” với mỗi
thanh niên mà Các Mác (1818- 1883) năm 17 tuổi đã nhận thức rõ tầm quan
trọng của việc lựa chọn nghề mà ông đã viết trong luận văn tốt nghiệp cấp 3
“Cân nhắc cẩn thận vấn đề này, đó là trách nhiệm đầu tiên của một thanh niên
bước vào đời mà không muốn coi những việc quan trọng nhất của mình là ngẫu
nhiên”. Còn E.A. Klimốp cho rằng: “Lựa chọn nghề nghiệp là ngày sinh nhật
thứ 2 của con người, vị trí của nó trong xã hội, sự thoả mãn trong công tác, tình
hình sức khoẻ và thể chất cũng như tinh thần, niềm vui và hạnh phúc đều phụ
thuộc vào sự lựa chọn con đường đúng đắn đến mức nào”.

Các em bàn bạc trao đổi lựa chọn nghề nghiệp
Những sai lầm thường gặp khi chọn nghề:
Trong thực tế, không phải bao giờ học sinh cũng có thể giải quyết một cách
chính xác vấn đề chọn nghề của mình. Theo E.A.Klimốp, có hai loại nguyên
nhân dẫn đến sự chọn nghề không chính xác, thứ nhất là có thái độ không đúng
trong việc chọn nghề và thứ hai là thiếu tri thức về các nghề:
6



- Cho rằng nghề thợ kém hơn nghề kỹ sư, giáo viên tiểu học kém hơn giảng
viên đại học về giá trị và địa vị xã hội… do đó dẫn đến chỉ thích lựa chọn những
nghề có sự chuẩn bị ở bậc đại học mà không quan tâm tới những nghề lao động
khác được chuẩn bị ở các cấp học thấp hơn như học nghề, trung cấp, cao đẳng…
- Những thành kiến đối với một số nghề trong xã hội. Ở đây người chọn
nghề không quan tâm đến giá trị đóng góp của nghề đối với xã hội. Chẳng hạn
cho rằng những nghề lao đông tay chân là thấp hèn so với các nghề lao động trí
óc.
- Chọn nghề do dựa dẫm vào ý kiến của người khác, không độc lập trong
chọn nghề. Vì vậy, có một số học sinh vì nghe theo bố mẹ, bạn bè dẫn đến lựa
chọn những nghề mà mình không yêu thích hoặc không có khả năng. Cách chọn
nghề này đã dẫn đến nhiều trường hợp chán nghề, đổi nghề hoặc bỏ hẳn nghề.
- Chọn nghề do bị hấp dẫn bởi bề ngoài của nghề mà không hiểu hết nội
dung lao động của nghề đó. Ví dụ học sinh thích được đi đây đi đó nên chọn
nghề lái xe. Khi vào nghề, thấy công việc nhàm chán, nhiều khi chỉ chạy mãi
một tuyến đường, cường độ lao động vất vả và căng thẳng thường xuyên, do đó
dẫn đến chán nghề và rồi là bỏ nghề.
- Cho rằng có thành tích cao một môn học văn hoá nào đó là làm được
nghề cần đến tri thức của môn đó. Ví dụ, có người học giỏi môn văn thì nghĩ
rằng mình có khả năng viết báo. Đúng là nghề này cần đến người viết văn hay
với cách diễn đạt mạch lạc, lôgic. Song, nếu không nhanh nhẹn và tháo vát, đôi
khi cả dũng cảm… thì không thể theo đuổi nghề báo để mà thành đạt được. Sai
lầm ở đây là do không thấy rằng năng lực đối với môn học chỉ là điều kiện cần
chứ chưa là điều kiện đủ để theo đuổi nghề mình thích.
- Không đánh giá đúng năng lực lao động của bản thân nên lúng túng khi
chọn nghề. Do đó, có hai tình trạng thường gặp: hoặc đánh giá quá cao bản thân,
hoặc đánh giá không đúng mức, không tự tin vào bản thân. Cả hai trường hợp đều
dẫn đến hậu quả không tốt. Một là khi đánh giá quá cao bản thân, trước khi vào
nghề thì chủ quan, khi vấp phải thực tế thì thất vọng. Hai là khi đánh giá quá thấp
năng lực, chúng ta sẽ không dám chọn những nghề mà đáng ra là nên chọn.

- Không hiểu biết về những năng lực, các đặc điểm thể chất, sức khoẻ bản
thân, lại không có đầy đủ thông tin về những chống chỉ định y học. Điều này
cũng rất dễ gây nên những tác hại lớn, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng không
chỉ đối với cá nhân mà còn đối cả những đồng nghiệp khác. Ví dụ, người có khí
chất nóng nảy lại chọn nghề dạy trẻ, người bị hen lại có ý định chọn nghề giáo
viên, người bị mù mầu, mắt kém lại định hướng chọn nghề lái xe…
3.2. Giúp cá nhân có hiểu biết về thế giới nghề nghiệp, thông tin về thị
trường lao động tại địa phương cũng như cả nước.
Giáo viên điêu tra xem sở thích và năng lực của học sinh xem các em thuộc
định nhóm nghề nào trong các nhóm sau
* Người thuộc có khả năng về kỹ thuật, công nghệ, hệ thống; ưa thích làm
việc với đồ vật, máy móc, động thực vật; thích làm các công việc ngoài trời.
Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm những nghề về kiến trúc, an toàn
7


lao động, nghề mộc, xây dựng, thủy sản, kỹ thuật, máy tàu thủy, lái xe, huấn
luyện viên, nông - lâm nghiệp (quản lý trang trại, nhân giống cá, lâm nghiệp...),
cơ khí (chế tạo máy, bảo trì và sửa chữa thiết bị, luyện kim, cơ khí ứng dụng, tự
động...), điện - điện tử, địa lý - địa chất (đo đạc, vẽ bản đồ địa chính), dầu khí,
hải dương học, quản lý công nghiệp...
* Người có khả năng về quan sát, khám phá, phân tích đánh giá và giải
quyết các vấn đề. Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: Các ngành thuộc
lĩnh vực khoa học tự nhiên (toán, lý, hóa, sinh, địa lý, địa chất, thống kê...); khoa
học xã hội (nhân học, tâm lý, địa lý...); y - dược (bác sĩ gây mê, hồi sức, bác sĩ
phẫu thuật, nha sĩ...); khoa học công nghệ (công nghệ thông tin, môi trường,
điện, vật lý kỹ thuật, xây dựng...); nông lâm (nông học, thú y...).
* Người có khả năng về nghệ thuật, khả năng về trực giác, khả năng tưởng
tượng cao, thích làm việc trong các môi trường mang tính ngẫu hứng, không
khuôn mẫu. Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: Các ngành về văn

chương; báo chí (bình luận viên, dẫn chương trình...); điện ảnh, sân khấu, mỹ
thuật, ca nhạc, múa, kiến trúc, thời trang, hội họa, giáo viên dạy sử, bảo tàng,
bảo tồn...
* Người có khả năng về ngôn ngữ, giảng giải, thích làm những việc như
giảng giải, cung cấp thông tin, sự chăm sóc, giúp đỡ, hoặc huấn luyện cho người
khác. Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: sư phạm; giảng viên; huấn
luyện viên điền kinh; tư vấn - hướng nghiệp; công tác xã hội, sức khỏe cộng
đồng, thuyền trưởng, thư viện, bác sĩ chuyên khoa, thẩm định giá, nghiên cứu
quy hoạch đô thị, kinh tế gia đình, tuyển dụng nhân sự, cảnh sát, xã hội học, bà
đỡ, chuyên gia về X-quang, chuyên gia dinh dưỡng...
* Người có khả năng về kinh doanh, mạnh bạo, dám nghĩ dám làm, có thể
gây ảnh hưởng, thuyết phục người khác, có khả năng quản lý. Ngành nghề phù
hợp với nhóm này bao gồm: Các ngành về quản trị kinh doanh (quản lý khách
sạn, quản trị nhân sự...), thương mại, marketing, kế toán – tài chính, luật sư,
dịch vụ khách hàng, tiếp viên hàng không, thông dịch viên, pha chế rượu, kỹ sư
công nghiệp (ngành kỹ thuật hệ thống công nghiệp), bác sĩ cấp cứu, quy hoạch
đô thị, bếp trưởng (nấu ăn), báo chí (phóng viên, biên tập viên...)...
* Người có khả năng về số học, thích thực hiện những công việc chi tiết,
thích làm việc với những số liệu, theo chỉ dẫn của người khác hoặc các công
việc văn phòng. Ngành nghề phù hợp với nhóm này bao gồm: Các ngành nghề
về hành chính, thống kê, thanh tra ngành, người giữ trẻ, điện thoại viên...
Những ngành nghề mà tôi nêu ra đều rất cần thiết cho xã hội ngày nay, nhất
là những khu công nghiệp hay các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm, cần ổn định
về chất lượng trang thiết bị để có thể yên tâm sản xuất. Với niềm say mê, cầu
tiến trong công việc, các em hoàn toàn có thể trở thành một kỹ sư, một nhân
viên giỏi và hữu ích cho công ty, cũng như cho xã hội.

8



Giáo viên chủ nhiệm định hướng để biết tìm hiểu từng nhóm ngành. Bên
cạnh đó giáo viên cũng phải đưa ra số liệu thị trường những ngành nào đang còn
thiếu, nhóm nghành nào xã hội đang cần, đang thừa để học sinh lựa chọn.
3.3. Giúp các em tìm hiểu năng lực, khả năng của bản thân, rồi đưa
ra quyết định lựa chon được nghề phù hợp.
- GVCN cho học sinh trả lời phiếu thăm dò về tính cách, nghề yêu thích,
hoàn cảnh.
- GVCN tổng hợp phiếu thăm dò, so sánh kết quả học tập của học sinh ở
các môn mà các em dự định chọn làm môn thi cao đẳng, đại học. Phân tích để
học sinh tự đánh giá tốt hơn về năng lực bản thân, hoàn cảnh kinh tế gia đình.
- GVCN giúp học sinh rà soát năng lực học tập của bản thân một lần nữa
vào cuối học kì I để chuẩn bị cho cuối tháng 3 các em lựa chọn.
* Chú ý các nguyên tắc cơ bản khi chon nghề:
Có 3 nguyên tắc chọn nghề cần được tuân thủ:
- Nguyên tắc thứ nhấ: Không chọn những nghề mà bản thân không yêu
thích. Giáo viên cùng các bậc cha mẹ hết sức tôn trọng nguyên tắc này. Phải có
lời khuyên khi thấy học sinh chọn nghề theo sự rủ rê của bạn bè, theo sự ép buộc
của người khác hoặc khi học sinh chưa biết gì về nghề đó. Nếu không thích công
việc của của nghề thì rất dễ bỏ nghề và khó có thể hình thành được lý tưởng
nghề nghiệp.
- Nguyên tắc thứ hai: Không chọn những nghề mà bản thân không đủ điều
kiện tâm lý thể chất hay xã hội để đáp ứng yêu cầu của nghề. Chạy theo những
nghề mà không đáp ứng được những đòi hỏi của nghề đề ra thì nhiều khi (không
phải mọi trường hợp) sẽ thất vọng, sẽ rất tốn kém thời gian và sức lực cho việc
theo đuổi. Ví dụ như người mù màu, mắt kém không nên chọn nghề lái xe,
người có tính nóng nảy,không kiên nhẫn không nên chọn nghề dạy trẻ......
- Nguyên tắc thứ ba: Không chọn những nghề nằm ngoài kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng (nếu người chọn nghề muốn ở lại địa
phương để sinh sống) và của đất nước nói chung. Đây là yếu tố khách quan phải
tính đến, nếu không, khi học nghề xong sẽ rất khó xin được việc làm. Trong trường

hợp chọn được một nghề nào đó mà nó đang cần được thay thế bằng nghề khác thì
không nên theo đuổi làm gì. Cần nhớ rằng sắp tới, khá nhiều nghề cũ sẽ mất đi,
nhiều nghề mới sẽ xuất hiện. Đó là quy luật không thể tránh được.
Ba câu hỏi đặt ra trước khi chọn nghề
Tốt nghiệp THPT, học sinh sẽ đứng trước cân nhắc: Sẽ chọn nghề gì trong
cuộc sống tương lai? Cần trả lời 3 câu hỏi:
*“Em đam mê gì và thích nghề gì?”
Muốn làm nghề gì trước hết bản thân phải thích nó, tức là hứng thú với
công việc trong nghề, nếu không thích thì đừng chọn. Chúng ta không thể thay
đổi nghề dễ như thay đổi cái áo được. Hơn nữa, ta không dễ gì đến với nghề
khác theo sở thích của bản thân mình ngay sau khi ta chán cái nghề đã chọn…
Ắt hẳn bạn đã từng nghe câu “Bạn chỉ có thể làm tốt những gì bạn thích”.
ĐÚNG! Khi làm công việc ta thích, chúng sẽ làm nó rất nhiều, vì ta sẽ tự làm
9


việc chăm chỉ, ta sẽ tự thúc đẩy bản thân, ta sẽ kiên trì và tập trung. Yên tâm đi,
hạnh phúc, giàu có và thành công sẽ đến với chúng ta.
Không chỉ Steve Jobs mà tất cả những người thành công, lỗi lạc trên thế
giới đều thực hiện đam mê của mình mỗi ngày - một cầu thủ chuyên nghiệp, một
nhà kinh doanh huyền thoại, một nhà chính trị tài ba, một thiên tài âm nhạc… dù
là trong lĩnh vực nào đi nữa, tất cả họ đều có một điểm chung: Sống với đam
mê.
Bill Gates – Tỷ phú số một thế giới theo đuổi đam mê phần mềm máy tính
và trở thành người đàn ông giàu nhất thế giới. Cristiano Ronaldo – huyền thoại
bóng đá thế giới theo đuổi niềm đam mê bóng đá vừa mới đây vừa đạt 2 cúp vô
địch châu Âu. J. K. Rowling tác giả của Harry Potter đam mê việc viết sách…
Đại tá Harland Sander người sáng lập KFC đam mê việc nấu nướng, Richard
Branson đam mê kinh doanh - theo ông kinh doanh như một cuộc chơi. Jack
Welch - cựu CEO của tập đoàn General Electric – CEO vĩ đại nhất thế kỉ 20 khi

được hỏi “Ông có thích công việc của mình không?”. Ông nói “Không, tôi
không thích công viêc này. Tôi yêu nó!”

Thành công luôn gắn liền với đam mê
Trong đó, quan trọng là đừng nhầm lẫn giữa đam mê với những thú vui cá
nhân. Đầu tiên, các em phải gạt bỏ những sở thích liên quan đến sinh lý như
thích ăn ngon, thích ngủ, thích xem phim hay chọn trường này vì có nhiều bạn
gái xinh, chọn ngành công nghệ thông tin vì thích chơi điện tử… Thực tế, khi
đảm nhiệm công việc, mọi người sẽ phải gạt bỏ những cảm xúc cá nhân mà phải
hướng tới giá trị công việc, đem lại lợi ích cho bản thân, xã hội. Những công
việc được lựa chọn phải xuất phát từ những đam mê thực sự, đem lại giá trị cho
cộng đồng thì khi theo đuổi các em mới thấy được ý nghĩa của công việc, cảm
thấy được niềm vui, sự hào hứng để bản thân luôn nỗ lực, theo đuổi.
10


* “Em đã biết điểm mạnh của bản thân ?”
Đây là một phần vô cùng quan trọng, hãy chú ý nhé! Học sinh phải biết
mình có những tiềm năng, điểm mạnh gì? Hay chính là sở trường năng lực của
các em. Hãy hỏi bạn bè, những người xung quanh xem thấy em làm xuất sắc
những điều gì? Thấy mình có năng khiếu gì đặc biệt? Để các em muốn biết
chính xác nhất tiềm năng điểm mạnh của bản thân thì tôi lập phiếu thăm dò
+ Ba điều đặc biệt em thấy ở bản thân em là gì?
+ Ba điều mà người khác ngưỡng mộ em là gì?
+ Lúc nhỏ em thường được khen là có những năng khiếu gì?
+ Năng khiếu đó giúp em những gì?
Biết được điểm mạnh, tiềm năng sẵn có là rất quan trọng vì mỗi con người
sinh ra đều mang trong mình một sứ mệnh và để thực hiện sứ mệnh đó chúng ta
được ban những tiềm năng thật đặc biệt. Tiềm năng phải được đặt đúng chỗ nếu
không sẽ bị mai một và biến mất. Cũng giống như việc chúng ta nhốt hổ ở trong

sở thú vậy, rõ ràng hổ có móng vuốt để săn mồi, chân có đệm êm và có tốc độ
chạy nhanh. Hổ vốn phải thuộc về rừng xanh, đó mới là vị trí chính xác mà nó
cần được đặt vào. Ở sở thú nó không phải săn mồi và cũng chẳng cần hoạt động
nhiều thế thì móng vuốt, lông dày, mắt tinh thì cũng chẳng để làm gì cả. Giống
như con người chúng ta vậy, tiềm năng cần được đặt đúng vị trí để phát huy hết
khả năng.
Cần lưu ý học sinh nhớ rằng, có nghề mình thích nhưng không làm được,
có nghề mình không thích nhưng nó lại đang kêu gọi tuổi trẻ tham gia. Trong
trường hợp này, ta nên vì lý tưởng phục vụ con người, phục vụ đất nước mà
phấn đấu, mà rèn luyện năng lực, lấy việc mang lại lợi ích cho nhân dân, cho đất
nước làm niềm vui.
* Thị trường đang cần điều gì?
Câu hỏi này liên quan tới những điều vừa nói ở trên. Những nghề không có
nhu cầu nhân lực, không nằm trong kế hoạch phát triển thì dù có thích hoặc có
năng lực tương ứng thì ta cũng không nên lựa chọn. Vì thế, để trả lời câu hỏi
này, chúng ta phải căn cứ vào những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, vào hướng phát triển kinh tế trong kế hoạch nhà nước, vào kế hoạch sản
xuất và hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của địa phương
mình. Nhận thức sâu sắc nội dung câu hỏi này, chúng ta có thể điều chỉnh, phát
triển hứng thú và năng lực của mỗi cá nhân.
Khi học sinh tìm được câu trả lời cho 3 câu hỏi trên vậy là các em đã hoàn
thành một nửa công việc rồi. Tiếp theo, bảo học sinh hãy tìm điểm chung của
những câu trả lời đó. Đây chính là : Công thức để chọn nghành nghề phù hợp.
Sau khi chọn nghề phù hợp thì giáo viên tiếp tục chọn khối thi và chọn
trường cho các em. Học sinh có năng lực về môn nào thì các em nên tập trung
cho khối đó. Có nhiều khối để cá em lựa chon như khối A, A1, D, C....
Có quá nhiều học sinh hỏi tôi rằng: “Em được từng này điểm thì
nên vào trường nào đây?” Tôi luôn trả lời rằng: “Chọn ngành nghề
trước chọn trường em ạ!” Chọn ngành nghề mới là điều
11



quan trọng, không thể phủ nhận trường cao hơn sẽ giúp bạn có
một môi trường chuyên nghiệp để rèn luyện hơn. Nhưng nếu vì oai
chọn trường to hơn với một ngành thấp điểm mà các em không
đam mê thì cẩn thận cuộc sống lại bế tắc trong cái vòng luẩn quẩn:
Chán việc. Vậy thì các em học sinh đừng chọn tương lai bằng cách
chọn tên mà xem lực học chọn nghề đó ở trường nào là hợp. Chúng ta
không lạ chuyên khi trên tivi nói có học sinh 27 điểm vẫn trượt Đai học là
chuyện bình thường.
Ví dụ: Nếu học sinh thích ngành công nghệ điện tử:
- Nếu học của em giỏi thì có thể đăng ký thi vào khoa Điện - Điện tử của
trường Đại học Bách Khoa.
- Nếu học lực của học sinh ở mức khá, có thể đăng ký thi vào khoa Điện Điện tử của trường Đại học Nông Lâm.
- Nếu học lực trung bình, có thể đăng ký thi vào khoa Công nghệ kỹ thuật
điện tử của trường Cao đẳng công nghệ Hà Nội (sau đó em đó có thể học liên
thông lên Đại học).
Nếu học sinh thích ngành công nghệ thông tin
- Nêú học lực giỏi thì đăng ký thi Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách
khoa, Bưu chính
- Học lực khá thì đăng ký khoa này của Học Viện kỹ thuật mật mã, Đại học
Công Nghiệp….
- Học lực trung bình thì đăng ký Cao đẳng Công Nghiêp,Cao Đẳng Bách
Khoa.
Việc đăng ký này giáo viện dựa vào điểm chuẩn vào các ngành, các trường
mấy năm gần đây làm cơ sở và cũng dựa vào điểm thi thử Đại học của các em.
Chúng ta lưu ý không phải em nào học giỏi là các em đăng ký trường cao điểm
mà chúng ta phải đăng ký cả trường ở mức khá nữa để nếu em có trượt nguyện
vọng 1 thì cũng đậu nguyện vọng 2.
Bên cạnh đó việc chọn trường cũng phải phụ thuộc vào điều kiện hoàn

cảnh kinh tế gia đình học sinh. Gia đình em nào điều kiên khó khăn thì nên chọn
trường công lập hoặc gần nhà, nhất là tại địa phương có nhiều chương trình đào
tạo nghề, chứ không nhất thiết cứ phải học Hà nội. Gia đình em nào có điều kiện
có thể học dân lập, trường quốc tế hoặc chương trình liên kết vì hiện nay có
nhiều trường này có chất lượng đào tạo rất tốt như FPT, RMIT, ĐH công nghệ
TP Hồ Chí Minh…đã được các công ty tuyển nhân lực đánh giá cao.
Để nhấn mạnh vai trò của sự phù hợp nghề cho học sinh yên tâm thì tôi nhắc lại
lời giáo sư Tạ Quang Bửu đã nói “Có những nghề phù hợp với sở trường và
năng lực , nhưng chưa thể là nghề “kiếm cơm”. Tuy vậy đến một giai đoạn chín
muồi , khi đã thực sự vững tay nghề thì sẽ bước vào thời “Nhất nghệ tinh, nhất
thân vinh”.”
3.4 Giúp học sinh hiểu “Không ai thành công mà không học, Đại học
không phải là con đường duy nhất thành công”.
Thật sai lầm khi nhiều học sinh khi đặt ra ước mơ là “Phải thi đậu đại học
mới có thể thành công” nhưng chúng ta đừng vì thế mà nghĩ rằng học đại học
12


chả có ích lợi gì. Đừng ảo tưởng bỏ học giữa chừng là bạn có thể trở thành Bill
Gates hay Steve Jobs với những tên tuổi lừng lẫy như Microsoft hay Apple.
Chúng ta phải hiểu rằng: Không ai thành công mà không học gì cả! Bill
Gates từng nói: “Tôi bỏ đại học chứ không bỏ học”. Từ học ở đây mang nghĩa
rộng, chúng ta học ở trường cũng là học, chúng ta bươn chải cuộc sống, qua bao
khó khăn thử thách cũng là học. Chúng ta đi học kinh nghiệm của những người
thành công trực tiếp hay gián tiếp qua sách vở họ để lại cũng là học. Chúng ta
trải qua nhiều thất bại trên đường đời cũng là học. Điều sai lầm ở đây là hầu hết
mọi người nghĩ rằng chỉ có trường lớp mới dạy học. Như Mark Twain - một nhà
văn, tiểu thuyết gia nổi tiếng người Mỹ từng nói: “Đừng để trường lớp cản trở
con đường giáo dục của bạn” Người thành công qua trường lớp cũng học ở
trường đời, người thành công không qua trường lớp cũng học ở trường đời. Đây

mới là ngôi trường lớn nhất mà ai cũng phải tốt nghiệp.
Tôi gặp nhiều người thành công không có bằng đại học, tôi cũng gặp rất
nhiều người có bằng đại học và suốt ngày cầm lấy cái bằng tự cho rằng mình
giỏi và biết tất cả mọi thứ trên đời trong khi chỉ sống dựa vào đồng lương ba cọc
ba đồng và gặp nhiều vấn đề rắc rối trong cuộc sống liên quan đến tiền bạc.
Vì vậy đại học không phải là con đường duy nhất thành công , chúng ta cũng có
thể học cao đẳng, trung cấp, trường nghề....miễn là thành công trong cuộc sống.
3.5. Nâng cao chất lượng thật sự môn giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ
thông.
Ngạy từ khi vào nhập học lớp 10 nhà trường đã tổ chức tư vấn hướng
nghiệp cho các em để các em đăng ký khối học để xếp lớp phù hợp với nhu cầu
học sinh.

Nhà trường tổ chức buổi hướng nghiệp khối 12
13


Hoạt động hướng nghiệp là bắt buộc trong năm học được lồng ghép trong
hoạt động ngoài giờ lên lớp, trong các buổi sinh hoạt cuối tuần, trong các buổi
sinh hoạt ngoại khóa nhất là học sinh khối 12. Xây dựng giáo trình gắn liền với
thực tế, sinh động và hấp dẫn hơn; bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chuyên trách
của bộ môn, đội ngũ giáo viên này kết hợp với giáo viên chủ nhiệm có thể tổ
chức tư vấn trực tiếp cho các từ cuối năm học lớp 11, để giúp học sinh có những
nhận định sớm nhất về sở thích, năng lực bản thân nhằm tránh cho học sinh sự
bối rối, do dự trong việc chọn khối thi và ngành sẽ dự thi đại học, cao đẳng.
Đoàn trường có thể cung cấp đầy đủ hơn các thông tin về tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh.
Hoạt động hướng nghiệp nhà trường được triển khai bằng 4 con đường
cơ bản sau:
+ Hướng nghiệp thông qua giảng dạy các môn văn hoá:

Các môn học cơ bản trong nhà trường phổ thông chứa đựng hệ thống tri
thức, kỹ năng, thái độ mà loài người đã đúc kết, lựa chọn qua các thế hệ. Hệ
thống các môn học này có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển toàn
diện của con người, đặt nền móng cho sự hiểu biết các quy luật của sự phát triển
tự nhiên - xã hội và tư duy, đồng thời cung cấp cơ sở cho việc giáo dục kỹ thuật
tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống và lao động nghề nghiệp.
Hệ thống tri thức và kỹ năng mà học sinh tiếp thu thông qua các môn học
văn hoá là nền tảng cơ sở để học sinh tiếp thu các kiến thức nghề nghiệp chuyên
biệt sau này, vì vậy, nếu biết khai thác thì bất cứ môn học văn hoá nào cũng đều
có tác dụng giáo dục lao động hướng nghiệp cho học sinh.
+ Hướng nghiệp thông qua giáo dục công nghệ và lao động:
Với các môn văn hoá được giảng dạy trong nhà trường sẽ giúp học sinh có
được hệ thống tri thức, kỹ năng cơ bản nhưng những tri thức này ít được áp
dụng trong cuộc sống nên chưa tạo được niềm tin cũng như định hướng nghề
nghiệp một cách sâu sắc cho các em học sinh. Vì thế phải cần thiết phối hợp
những tri thức cơ bản này với các hoạt động giáo dục công nghệ và lao động
nghề nghiệp.
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất là một trong những phương thức
quan trọng nhất để giáo dục lao động, kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp. Nó sẽ
tạo điều kiện để phát triển tối đa năng lực của con người, phát triển khả năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, biết định hướng trong hệ thống sản xuất xã
hội, hình thành tinh thần sẵn sàng lao động và làm cơ sở cho việc lựa chọn
ngành, nghề sau này. Quá trình lao động nếu được tổ chức tốt, gắn bó với các
ngành, nghề cần phát triển ở địa phương, thì sẽ có tác dụng hướng nghiệp thực
sự.
+ Hướng nghiệp thông qua chương trình “Hoạt động giáo dục
hướng nghiệp:
Trong nhà trường THPT, hướng nghiệp cho học sinh được tiến hành bằng
nhiều cách, nhưng đây là con đường chính và có tầm quan trọng đặc biệt trong
việc định hướng, giúp đỡ cho học sinh có được năng lực lựa chọn nghề phù hợp.

14


3.6. Nhà trường Kết hợp với các doanh nghiêp, trường nghề tổ chức dạy
nghề miễn phí cho các em.
Lợi thế của trường Trần Phú là có trường trung cấp nghề gần ngay bên
cạnh. Nhà trường kết hợp trường mở các lớp dạy nghề miễn phí cho các em có
nhu cầu các nghề: May, Nấu ăn, nghề Điên, Nghề hàn ...các em vừa được học
văn hóa, vừa học nghề. Lúc các em tốt nghiệp cấp 3 cũng là lúc các em có luôn
chứng chỉ nghề đáp ứng một phần nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp trên
địa bàn huyện cũng như các huyện và tỉnh ngoài.

Học sinh Trường THPT Trần Phú học nghề điện
tại Trường Trung cấp Nghề Nga Sơn
Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm không ngừng học hỏi, cập nhật thông tin
về nhu cầu việc làm, về thông tin các ngành nghề luôn biến động theo nhu cầu
thị trường.
Không phải ai cũng có vốn hiểu biết về lĩnh vực này, mà trên mạng thì tin
tức nhiều khi không chính xác, nói chung chung vì vậy giáo viên phải cập nhật
tin tức liên tục trên ti vi, đài báo có uy tín.
3.7. Cần phối kết hợp tốt giữa gia đình - nhà trường - xã hội
Nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong công tác hướng nghiệp thì giáo
viên chủ nhiệm phối hợp tổ chức cho học sinh có những buổi tham quan thực tế
ở các nhà máy, xí nghiệp, ...Buổi tham quan này cũng là dịp để các em tìm hiểu
các nghành nghề trong xã hội, biết ý nghĩ giá trị của sức lao động để các em trân
quý những gì mình đang có, đang hưởng để các em vươn tới những giá trị tốt
đẹp về nghề nghiệp trong xã hội.
Ví dụ tôi tổ chức cho đi tham quan doanh nghiệp sản xuất gỗ trên địa
phương, các em rất thích thú với quy trình tiện gỗ để tạo ra bộ bàn ghế từ khúc
gỗ thô bình thường, đó cũng là cách tiếp cận nghề nghiệp khi em nào có ý định

thi vào khoa biến gỗ của đại học Lâm nghiệp
1
5


Hoặc tổ chức cho học sinh có những buổi sinh hoạt ngoại khóa, chuyên đề
nhằm tìm hiều nhiều hơn và kĩ hơn về các ngành nghề trong xã hội và ở địa
phương.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Bằng những kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình chủ nhiệm, tôi viết
sáng kiến kinh nghiệm này giúp học sinh định hướng lựa chọn nghề nghiệp đúng
đắn góp một phần nhỏ bé giải quyết nhu cầu việc làm cho xã hội. Tôi đã thực hiện
trên 2 khóa chủ nhiệm, 2 khóa này lực học chủ yếu là khá và trung bình.
Học cao
Khóa học
Học đai học Cao Đẳng đẳng- trung Học nghề
cấp nghề
tự do
Lớp 12D
(2011 - 2014)
15
9
14
5
(Có 43 học sinh)
Lớp 12B
(2014 - 2017)
16
7

17
4
(44 học sinh )
Kết quả đạt được:
+ 100% học sinh hưởng ứng tham gia công tác hướng nghiệp của nhà
trường cũng như của lớp .
+ Hầu hết học sinh chọn đúng nghành nghề mình yêu thích phù hợp, khóa
2011- 2014 chỉ có 2 học sinh chọn nghề gia đình đã định sẵn. Hiện tại các em
học nghề và cao đẳng đã ra trường hầu hết có việc làm có thu nhập ổn định , làm
việc đúng sở thích các em. Còn các em học đại học thì trong quá trình học đều
tích cực tham gia các phong trào đoàn thể, bồi dưỡng kiến thức thực tế ,đi làm
thêm có thu nhập, các em rất năng động trong lĩnh vực mình học. Các em đều
trả lời tự tin với tôi “Chỉ sợ mình không có năng lực chứ chúng em không sợ
không có việc làm”.
Điều đặc biệt trong lớp có một em đi học nghề làm cửa nhôm kính và một
em học nghề sửa chữa ôtô thì hiện tại các em đã có cửa hàng và gara ôtô làm ăn
rất phát đạt.
+ Khóa 2014 - 2017 có 2 em chọn nghề theo yêu cầu gia đình. Có 2 em đi
xuất khẩu lao động theo nghề mình thích. Số còn lại lựa chọn nghành nghề thích
hợp vào các trường Đại học .
Còn lại các em khá hài lòng về lĩnh vực mình chọn. Không có em nào
chuyển nghề. Xu thế các em hay lựa chọn trường nghề ở địa phương, các trường
nghề Thanh Hóa và Ninh Bình, Nam Định... nhiều hơn.Các em học khá giỏi thì
học Đại Học phù hợp với năng lực, khả năng tài chính của gia đình, một số hoàn
cảnh khó khăn thì lựa chọn các lớp đào tạo nghề ngắn hạn ở địa phương đáp ứng
nguồn nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp tại địa phương cũng như các
huyện lân cận. Không có em nào làm trái ngành.
16



2. Kiến nghị
Sáng kiến kinh nghiệm này trong phạm vi nghiên cứu của một cá nhân vì
thế chắc chắn còn thiếu sót vì phạm vi tôi nghiên cứu là học sinh trường THPT
Trần Phú- chưa có nhiều đối tượng học giỏi nên có thể sự lựa chọn nghề có thể
khác đôi chút so với các trường khác.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm này được
toàn diện và đầy đủ hơn trên phương diện chủ nhiệm nhằm góp phần tích cực
vào việc hướng nghiệp- chọn nghề nói riêng của học sinh cũng như đào tạo nhân
lực cho xã hội nói chung.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Mai Thị Ngoan

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục hướng nghiệp - Phạm Tất Dong - Nhà xuất bản Giáo Dục 2005
2. Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2014 - 2015
- Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa
3. Tài liệu tập huấn tư vấn hướng nghiệp – 2016 của BGD &ĐT
4. “ Những suy tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề nghiệp”Luận văn THPT 1835của Các Mac
5. Website www.tuvanhuongnghiep.vn của Trung tâm TVHN Sao Viêt
6. Mạng khám phá bản thân của hội khoa học Tâm lý- giáo dục Việt Nam.

( www.tuvanvala.com )

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD & ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ
C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Ngoan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THPT Trần Phú
TT

Tên đề tài SKKN

1

Phương pháp phụ đạo học sinh
yếu kém môn toán ở các
trường bán công.
Rèn luện kỹ năng tự học cho
học sinh THPT trong dạy học
hình học lớp 11.
Tạo hứng thú học môn giải
tích ở trường THPT theo
hướng tăng cường liên hệ với
thực tiễn.
Một số biện pháp giúp học
sinh hứng thú đến trường .


2
3

4

Cấp đánh giá
xếp loại
Sở GD&ĐT

Kết quả
đánh giá
xếp loại
Xếp loại C

Năm học
đánh giá
xếp loại
2008-2009

Sở GD&ĐT

Xếp loại C

2010-2011

Sở GD&ĐT

Xếp loại C

2012-2013


Sở GD&ĐT

Xếp loại C

2014-2015

19



×