Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN kinh nghiệm làm chủ nhiệm lớp có học sinh chưa ngoan ở trường THCS hà ngọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.51 KB, 20 trang )

STT
1.
Mục lục SKKN
2.
1. Mở đầu

Mục lục của SKKN
Nội dung

Trang
1, 2
3

3.

1.1. Lí do chọn đề tài

3

4.

1.2. Mục đích nghiên cứu.

5

5.

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

5


6.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

5

7.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.

5

8.

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

5

9.

2.1.1. Đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi học sinh THCS.

5

10.

2.1.2. Ảnh hưởng của tấm gương, nhân cách của người thầy đối với
sự hình thành nhân cách học trò.

6


11.

2.1.3. “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” trong giáo
dục hiện nay. Kỉ luật, kỉ cương của các thầy cô và nhà trường đối
với học sinh.

7

12.

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

7

13.

2.2.1. Thực trạng chung.

7

14.

2.2.2. Thực trạng với học sinh.

8

15.

2.2.3. Thực trạng đối với giáo viên.


8

16.

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

9

17.

2.3.1. Giải pháp 1. Xây dựng và đặt niềm tin, tạo mối quan hệ tốt
với từng học sinh

9

18.

19.

20.
21.

2.3.2 Giải pháp 2. Trách phạt và kỉ luật học trò vi phạm thì người
giáo viên chủ nhiệm cần phải đặt trách nhiệm cá nhân của mình
vào trong đó.

10

2.3.3 Giải pháp 3.

Khen và động viên học sinh kịp thời trước tập thể, hạn chế chê học
trò và tuyệt đối không chì chiết hay so sánh học sinh với một đối
tượng nào đó.
2.3.4. Giải pháp 4.
Giáo viên phải biết chấp nhận và có lòng yêu thương học sinh.
2.3.5 Giải pháp 5. Sử dụng sức mạnh của ánh mắt và ngôn ngữ
trong sáng của tiếng Việt để tạo ra sức mạnh về hình ảnh và cái uy
của người thầy trong tâm trí học trò.

12

13
14

1


22. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

16

23. 3. Kết luận, kiến nghị.

17

24. 3.1. Kết luận.

17


25. 3.2. Kiến nghị.

18

26. 4. Tài liệu tham khảo

20

27. 5. Phụ lục

20

1. Mở đầu.

2


1.1 Lí do chọn đề tài.
Trong quãng đời đi học của mỗi con người, hình ảnh người thầy, người cô
chủ nhiệm được lưu trong tâm trí học trò ở một vị trí trang trọng nhất. Mỗi
chúng ta khi nhớ về thời đi học là có bao nhiêu kí ức đẹp, trong đó có thầy cô
chủ nhiệm. Kí ức đó có thể là sự khâm phục về chuyên môn, lòng thành kính
biết ơn nhưng cũng có thể là một sự không hài lòng hoặc không vui. Vậy sao
hôm nay chúng ta đang là những nhà giáo dục lại không gieo vào tâm hồn mỗi
học sinh những hình ảnh tốt. Những mầm chồi của sự hi vọng, trên từng mảnh
đất có thể màu mỡ hoặc khô cằn kia, điều mà tất cả mong hướng đến là sự phát
triển hoàn thiện về nhân cách và đạo đức của mỗi học sinh.
Môi trường giáo dục hiện nay có nhiều tác động đa chiều đến học sinh.
Tác động tốt cũng có, tác động xấu lại càng nhiều. Tác động tốt là văn hóa được
mở mang các kiến thức về khoa học, công nghệ, tin tức về xã hội được cập nhật

và phổ biến rộng rãi qua truyền thông, truyền hình. Điều kiện kinh tế các gia
đình có khá giả hơn, giúp các em có được sự chăm lo đầy đủ về vật chất lẫn tinh
thần, xã hội ngày càng quan tâm và chăm lo nhiều cho giáo dục. Còn tác động
xấu cũng chính là mặt trái của những cái tốt kia, nếu không được quản lí sát sao,
hướng dẫn hợp lí, định hướng kịp thời, chỉ dẫn cụ thể cho các em, thì hậu quả
thật khó lường. Ngày nay ở một bộ phận gia đình khá giả đã trang bị điện thoại
di động, máy tính bảng cho con với lời giải thích là “để gia đình dễ quản lí
cháu” hoặc là: “ cháu nó cứ đòi thầy cô ạ”. Với sự bùng nổ của công nghệ thông
tin và mạng xã hội, trò chơi điện tử như hiện nay thì khá nhiều học sinh của
chúng ta đã dành không ít thời gian cho mạng xã hội và trò chơi điện tử (Game
online). Điều đó làm các em sao nhãng việc học hành, lời ăn tiếng nói với người
hơn tuổi, với thầy cô đôi khi là không bình thường. Các em thường khó bảo hay
quậy phá trong các giờ học hoặc hay nghỉ học. Chất lượng giáo dục và học tập
vì thế mà đi xuống. Qua quan sát và ghi chép của tôi, thì có đến hơn 80 % các
em diện học sinh học lực yếu đều có liên quan đến đạo đức. Các đối tượng học
sinh này tạm gọi là “ học sinh chưa ngoan”, 20% còn lại là những học sinh
ngoan nhưng chưa có cố gắng trong học tập hoặc hoặc khả năng bản thân có
hạn. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại trà thì cần có cách tác động vào
nhóm học sinh này. Làm sao để các em biết nghe lời khuyên bảo của thầy cô,
biết trân trọng tình cảm của bạn bè, gia đình và thầy cô hơn. Được như vậy các
em sẽ tiến bộ, sẽ học tốt hơn để mỗi giờ lên lớp của thầy cô sẽ ý nghĩa, nhẹ
nhàng và vui vẻ hơn.
Nhưng giáo dục các học sinh chưa ngoan kia bằng cách nào. Ngày xưa
các cụ đồ nho ngồi trên ghế cao dạy các trò, một tay cầm quyển sách thì tay kia
cầm cái roi, trò nào viết xấu, nói sai, quậy phá thì thầy cứ đè mông mà vụt, các
trò ngày xưa vì thế mà ít dám hư, ra đường thấy thầy từ xa đã phải chuẩn bị nép
vào lề đường mà cúi chào. Thời sau những năm 60-80 của thế kỉ XX qua các
câu chuyện mà tôi được kể lại thì các thầy vẫn còn cái uy với học trò lắm, trò

3



làm sai viết xấu thì có mà sưng tay. Vì thế mà các bác các ông ngày xưa chỉ học
hết cấp 1, hoặc cấp 2 thôi nhưng chữ viết đâu ra đấy.
Còn ngày nay khi đối mặt với các học sinh chưa ngoan các thầy cô hành
động như thế nào đây, roi vọt như ngày xưa là vi phạm đạo đức nhà giáo, còn
quát mắng lại càng không được và còn ảnh hưởng đến hình ảnh người thầy. Vậy
thầy cô chủ nhiệm có cách xử lí nào để giải quyết được hai việc. Một là các em
sẽ ngoan dần lên và hai là sẽ tiến bộ được trong học tập. Đây là hai vấn đề phụ
thuộc tương hỗ lẫn nhau. Phần nhiều tôi thấy các thầy cô sẽ làm như sau: Khi
lớp có học sinh bị nhắc nhở, bị ghi sổ đầu bài, học sinh đánh nhau hoặc vi phạm
nội quy bị nhà trường kỉ luật,… người giáo viên chủ nhiệm thường yêu cầu học
sinh viết bản tường trình và bản kiểm điểm, rồi kiểm điểm hoặc trách phạt trước
tập thể lớp, phản ánh và trao đổi với phụ huynh học sinh,…Tất cả những cách đó
vẫn được nhiều giáo viên chủ nhiệm áp dụng trong thực tế tại các trường hiện
nay. Làm những cách đó rồi mà học sinh không có tiến bộ gì thì phần nhiều là
giáo viên sẽ chọn cách im lặng, bỏ mặc học sinh đó. Vậy người giáo viên chủ
nhiệm cần có cách tiếp cận, ứng xử và giáo dục các em “học sinh chưa ngoan”,
và “cứng đầu” này như thế nào đây để giúp các em tiến bộ?.
Có một tỉ lệ không nhỏ các thanh thiếu niên vi phạm pháp luật hoặc phạm
tội gần đây, đều có liên quan đến các học sinh em học sinh chưa ngoan khi còn
ngồi trên ghế nhà trường. Vậy muốn giảm tỉ lệ phạm tội ở lứa tuổi thanh thiếu
niên trong xã hội thì nhiệm vụ cần làm ngay là giảm ngay số lượng các em học
sinh chưa ngoan khi còn đang tham gia các hoạt động học tập trong nhà trường
vì đây là cơ hội giáo dục học sinh đó ở lúc dễ dàng nhất. Chưa có một sự thống
kê hay báo cáo chính thức nào của mỗi nhà trường, về số lượng và sự tồn tại có
thực của những học sinh chưa ngoan trong trường phổ thông nói chung và cấp
THCS nói riêng. Nhưng lảng tránh nói về điều này hoặc nói không có là không
đúng và không có tác dụng giải quyết vấn đề.
Qua các xem xét tìm hiểu của cá nhân và tìm hiểu qua đồng nghiệp cũng

như các văn bản chỉ đạo điều hành hướng dẫn các hoạt động giáo dục trong năm
học của các cấp quản lí. Tôi không thấy đề cập đến vấn đề giáo dục, giúp đỡ học
sinh chưa ngoan hay các kinh nghiệm khi lên lớp hoặc làm chủ nhiệm lớp có đối
tượng học sinh này. Đây là một lỗ hổng rất đáng được quan tâm vì xã hội ngày
càng phức tạp. Tỉ lệ tội phạm vị thành niên ngày càng tăng trong những năm
qua, các tệ nạn xã hội đang tấn công vào người trẻ trong đó có những học sinh
lứa tuổi THCS như ma túy đá, nghiện game, trộm cắp, hiếp dâm (vụ 5 học sinh
lớp 9 trường THCS Loóng Luông huyện Vân Hồ tỉnh Sơn La hiếp cô giáo
N.T.H đêm ngày 24/12/2015 là một ví dụ), cướp giật và có cả giết người (vụ án
do một học sinh lớp 9 trường THCS Hà Thái – Hà Trung xảy ra trong năm 2015
là một ví dụ).
Với tất cả lí do trên tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm “ Kinh nghiệm
làm chủ nhiệm lớp và ứng xử với học sinh chưa ngoan ở trường THCS Hà
Ngọc” mà thực chất đây là những trải nghiệm đã có với bản thân sau 15 năm
4


đứng lớp và cũng là 15 năm được phân công làm giáo viên chủ nhiệm. Nội dung
này được tôi đúc rút cô đọng, ghi chép và đối chiếu với các đồng nghiệp ở từng
thời kì. Đây cũng là cơ hội để tôi được nói lên suy nghĩ của mình và đi tìm một
sự đồng cảm ở nơi các đồng nghiệp, qua đó thể hiện mong muốn được làm tốt
hơn công tác giáo dục nhân cách, đạo đức và con người học sinh trong nhà
trường hiện nay.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu, hoàn thiện đề tài rồi áp dụng đề tài này là để giảm số lượng
và tỉ lệ học sinh chưa ngoan ở trong trường THCS Hà Ngọc nói riêng. Qua đó
tôi cũng muốn trao đổi kinh nghiệm làm chủ nhiệm lớp với các đồng chí trong
cùng trường. Góp phần làm giàu thêm các tài liệu về kinh nghiệm làm chủ
nhiệm lớp có các học sinh cá biệt, chưa ngoan. Làm tốt công tác chủ nhiệm và
nâng cao chất lượng đạo đức cho học sinh là góp một phần nhỏ trong việc định

hướng nhân cách và qua đó giảm tỉ lệ học sinh, thanh thiếu niên vi phạm pháp
luật, phạm tội trong nhà trường và ngoài xã hội
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh và những chưa ngoan của THCS Hà Ngọc khóa học 2011-2015
Tâm lí lứa tuổi đặc trưng của học sinh THCS.
Nhân cách và sự ảnh hưởng nhân cách người thầy đến học trò
Tổng kết các kinh nghiệm và cách ứng xử với học sinh chưa ngoan đạt
hiệu quả cao.
Một vài tình huống mà tôi đã trải nghiệm với học sinh qua các thời kì ở
các trường khác nhau đã trải qua và gần nhất là học sinh các khóa lớp 9 (năm
học 2011-2012) và các lớp 6, 7, 8, 9 (khóa học 2011-2015).
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Tôi đã sử dụng các phương pháp: Đọc và tìm hiểu qua tài liệu, sách báo.
Qua các module của chương trình bồi dưỡng thường xuyên trong năm học khi
xây dựng cơ sở lí thuyết
Tôi đã sử dụng các phương pháp: Nói chuyện, quan sát, lắng nghe, tìm
hiểu đối tượng học sinh qua bạn bè, hàng xóm, người thân, bố mẹ, khi khảo sát
thực tế, thu thập thông tin, có sử dụng phương pháp thống kê khi sử lí số liệu thu
thập được.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi học sinh THCS.
Do đặc thù của sự phát triển tâm sinh lí lứa tuổi mà ở nhóm học sinh THCS
là giai đoạn quan trọng nhất. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng
trong thời kì phát triển của trẻ em vì nó là thời kì chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi
trưởng thành và được phản ánh bằng các tên gọi khác nhau như: “ Thời kì quá độ”,
“Tuổi khó bảo”, “Tuổi khủng hoảng”, “Tuổi bất trị”,… Hầu hết
5



mọi thầy cô chủ nhiệm đều biết đến điều này nhưng cách tiếp cận và ứng xử với
nó thì không nhiều thầy cô thành công như mong đợi. Ở những thầy cô thất bại
trong công tác quản lí và giúp đỡ học sinh thì có mẫu số chung là ít chịu đổi mới
công tác chủ nhiệm, còn dập khuôn giáo điều, luôn cho mình cái quyền được
đúng, ít lắng nghe và tìm hiểu nguyện vọng của học sinh, không đặt mình vào vị
trí của các em và nhớ về tuổi đi học của mình để hiểu được các em hơn. Hầu hết
các thầy cô chỉ đưa ra yêu cầu dạng mệnh lệnh hoặc bắt một đứa trẻ phải mang
một tính cách của người lớn, vì khi thấy các em sai đã vội vàng kết luận và trách
phạt mà không cho các em cơ hội được nói, được sửa sai, điều này chẳng khác
gì bắt người lớn chúng ta phải mang tính cách của một đứa trẻ.
Theo PGS.TS. Võ Thị Minh Chí Viện Nghiên cứu Sư phạm – ĐHSPHN:
“Những nét tính cách tăng đậm là hiện tượng thường gặp ở trẻ THCS; đây là các
phương án cực hạn của chuẩn bình thường và khi đó các nét của tính cách được
tăng cường có phần tăng đậm thái quá. Rơi vào hiện trạng này, ở trẻ thiếu niên
xuất hiện tính nhậy cảm tăng cường với một số các tác động gây chấn thương tâm
lý xác định, trong khi lại ổn định với các tác động khác. Tính cách phát triển mạnh
theo nhiều kiểu khác nhau, mỗi kiểu trong đó đều để lại dấu vết về điểm yếu của
mình và đó cũng là dấu hiệu để phân biệt các dạng phát triển tính cách tăng đậm.
Sự phát triển tính cách tăng đậm thường bộc phát ở tuổi thiếu niên, vào giai đoạn
hình thành tính cách và theo bám tương đối chặt chẽ với các giai đoạn phát triển
tiếp theo của trẻ. Các nghiên cứu về sự phát triển tính cách tăng đậm đầu tiên là
của K.Lêôngarđô, A.E.Litrcô, A.A.Alêcxanđrôv và các tác giả khác. Tần suất hiện
diện của các nét tính cách này cũng khác nhau ở thiếu niên: từ 42% đến 62% học
sinh trong các nhà trường phổ thông bình thường; 66% trong số trẻ có hành vi
lệch chuẩn, và 87% - trẻ phạm pháp. Tính cách phát triển tăng đậm không phải là
bệnh lý, mà là các phương án phát triển bình thường nhưng rất dễ dẫn đến các
hành vi lệch chuẩn và lâu dài, nếu không được chỉnh trị hoặc uốn nắn sẽ dẫn đến
các bệnh thái nhân cách (và lúc đó đòi hỏi phải có sự tham gia, can thiệp của các
nhà tâm thần học)” (Trích tài liệu của PGS.TS. Võ Thị Minh Chí Viện Nghiên cứu
Sư phạm – ĐHSPHN).

2.1.2. Ảnh hưởng của tấm gương, nhân cách của người thầy đối với sự hình
thành nhân cách học trò.
Trong các hoạt động giáo dục và giúp đỡ học sinh chưa ngoan thì người
thầy phải là nhà thực hành trong các hoạt động thực tiễn, tuyệt đối tránh tình
trạng nói không đi đôi với làm, nói suông. Ví dụ như có hiện tượng là nhà
trường có nội quy là giáo viên không được sử dụng điện thoại khi lên lớp, học
sinh không được sử dụng điện thoại khi đến trường vậy mà giáo viên vẫn có
người sử dụng khi lên lớp, hỏi vậy thì sao nói được học sinh. Khi trách phạt
bằng giao việc cho học sinh nhưng không kiểm tra cẩn thận, không chỉ ra được
học sinh làm tốt, học sinh chưa hoàn thành. Phạt học sinh vi phạm cần tránh
hình thức phạt bằng tiền như một số lớp, trường đang làm hiện nay. Chỉ có lao
động và thông qua lao động thì con người ta nói chung và những học sinh chưa
6


ngoan của chúng ta nói riêng mới thấm nhuần được tinh thần của giáo dục - giáo
dưỡng. Một người thầy khôn khéo sẽ chọn thời điểm có thể lao động cùng học
sinh(chịu phạt cùng học sinh) để qua đó nắm bắt tâm tư tình cảm, tạo dựng các
mối liên hệ tin tưởng lẫn nhau giữa thầy và trò. Khi giáo viên đã được học trò
tin tưởng rồi tin yêu thì công việc chủ nhiệm sẽ nhẹ nhàng đi nhiều.
Theo nhà giáo dục K.Dushinsk từng viết: “Không còn nghi ngờ gì, kỷ
cương trong nhà trường có vai trò to lớn, nhưng điều chủ yếu, quyết định vẫn là
ở nhân cách của người giáo viên trực tiếp làm việc với học sinh. Nhân cách của
nhà giáo dục có sức mạnh to lớn đối với học sinh đến mức không thể thay thế
bằng sách giáo khoa, những lời khuyên bảo về đạo đức, hệ thống khen thưởng
và kỷ luật nào cả” (K.Dushinsk - nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam.)
2.1.3. “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” trong giáo dục hiện
nay. Kỉ luật, kỉ cương của các thầy cô và nhà trường đối với học sinh.
Để làm được tốt công tác chủ nhiệm lớp trong tình hình hiện nay người
giáo viên càng cần lắm một tình thương nhiều hơn với học trò. Cần thương học

sinh như con mình, coi các em và bản thân mình là một khối thống nhất không
thể tách rời, như một gia đình thứ 2 vậy. Mỗi việc làm, mỗi hành động, mỗi lời
nói của giáo viên đều tác động đến học sinh, các em cũng đã biết nhận xét đánh
giá, so sánh khá sâu sắc về mỗi việc giáo viên đã làm, mặc dù chẳng bao giờ
chúng ta nghe được điều đó.
Vậy nên mỗi giáo viên hãy chọn cách sao cho các em được nhận những
điều tốt đẹp nhất. “Roi vọt” ở đây cần được hiểu là sự nghiêm khắc, chuẩn mực
của người giáo viên, sự công bằng và minh bạch trong các quyết định, không
bao che lỗi lầm của học sinh. Giáo viên cần tạo cơ hội để học sinh sửa sai, uốn
nắn và động viên kịp thời, biết dùng lời khen khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ
nhất.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng chung.
Công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS hiện nay thường được giao cho
một giáo viên quản lí, với số tiết giảm trừ là 4 tiết/tuần, công việc chủ nhiệm lớp
thường mất nhiều thời gian của giáo viên. Ngoài những buổi sinh hoạt 15 phút
đầu mỗi buổi học, người giáo viên chủ nhiệm còn phải hoàn thành các hồ sơ của
lớp chủ nhiệm, trực tiếp giải quyết những vấn đề xảy ra với lớp chủ nhiệm, tiếp
phụ huynh học sinh, làm việc với ban đại diện cha mẹ của lớp,…
Một gia đình hai vợ chồng dạy dỗ hai đứa con nhiều khi còn vất vả, ở đây
một giáo viên phải giáo dục, quản lí 25, 30 thậm chí đến 40 học sinh. Từng ấy
học sinh là từng ấy hoàn cảnh, điều kiện sống, từng ấy cách giáo dục con cái
khác nhau của mỗi gia đình. Tập hợp các em lại trong một tập thể lớp, hướng
dẫn, giáo dục các em để cùng nhau nhìn về một hướng, cùng đoàn kết – yêu
thương, học tập và tiến bộ. Công việc như vậy để làm tốt thì thật sự là không dễ
dàng, nhẹ nhàng với người giáo viên chủ nhiệm. Nếu giáo viên chủ nhiệm
7


không biết tự làm mới công việc chủ nhiệm thì quản lí lớp sẽ rất vất vả. Nếu lớp

còn có vài học sinh chưa ngoan, hay vi phạm kỉ luật thì thực sự là mệt mỏi vô
cùng.
2.2.2. Thực trạng với học sinh.
Giúp đỡ, giáo dục và quản lí học sinh hiện nay đang là vấn đề có nhiều
khó khăn với công tác chủ nhiệm ở trường phổ thông nói chung và trường
THCS nói riêng. Kinh tế xã hội nước ta hiện nay có nhiều chuyển biến tích cực,
đời sống nhân dân được nâng cao. Các hoạt động văn hóa giải trí, truyền thông
ngày càng nở rộ. Mặt trái là học sinh ngày nay quan tâm nhiều đến trò chơi điện
tử, mạng xã hội, điện thoại di động. Chuyện say mê đèn sách ngày càng ít dần đi
với một bộ phận học sinh. Hằng ngày, hằng giờ mối quan tâm của một số không
nhỏ học sinh THCS là lên Facebook đăng ảnh, bình luận, nhắn tin. Một số em
còn dùng cách nói trên mạng vào ngôn ngữ đời sống thực, ít quan tâm đến bạn
bè thầy cô và những người xung quanh vì quá chú tâm vào cuộc sống ảo. Có
nhiều em học sinh nam thì ham vào chơi điện tử. Ban đầu các em chỉ chơi tranh
thủ sau mỗi buổi đi học về, sau thì bỏ cả học để chơi. Vì vậy tính cách các em
này trở nên khó bảo, khó gần, dễ nổi nóng với bạn bè và có khi cả với thầy cô. Ở
địa phận xã Hà Ngọc hiện nay có một số không nhỏ các em lứa tuổi THCS đã
phải đối mặt với những khó khăn không phù hợp với lứa tuổi và sức khỏe của
mình. Ví dụ như: Bố (mẹ) đi làm công ti, sáng đi chiều tối mới về, cả một ngày
các em phải tự lo cho mình, một số có thể được ở với ông (bà) thì các em được
“tự do - tự tại” quá sớm nên đã có em có hành vi, thái độ chưa ngoan, hay bị
nhắc nhở về ý thức kỉ luật và nề nếp của lớp của trường. Vậy những khó khăn
này sẽ được tiếp cận và giải quyết như thế nào. Các em học sinh chưa ngoan thì
cần được giúp đỡ càng sớm càng tốt.
2.2.3. Thực trạng đối với giáo viên.
Như đã trình bày ở phần thực trạng chung, phải nói thật rằng công tác chủ
nhiệm lớp càng ngày càng khó cùng với ngày càng thêm việc, vậy nên phần
nhiều giáo viên gặp khó khi làm công việc kiêm nhiệm này. Muốn làm tốt công
tác chủ nhiệm lớp có học sinh chưa ngoan cần một tấm lòng, một tình yêu
thương với học trò, nhiều sự thấu hiểu học trò, tình thương và cảm thông thì

không có việc gì là khó. Ngoài ra các giáo viên đứng lớp cũng cần phải “đều
tay”, thống nhất, tránh tình trạng giờ thầy A thì học sinh học đâu ra đấy. Giờ cô
B thì lại ồn như cái chợ do cô B non tay trong quản lí giờ dạy. Mỗi giáo viên khi
xử lí tình huống với học sinh chưa ngoan cần đặt mình vào hoàn cảnh của các
em. Để hiểu rồi mới cảm hóa giáo dục được các em .
Có một câu chuyện mà tôi còn nhớ: Đó là năm học 2007-2008 tôi đang
công tác tại trường THCS Hà Sơn và làm chủ nhiệm lớp 9D, hôm đó tôi đang
trống tiết và có nghe thấy tiếng quát của một cô chủ nhiệm trên tầng hai: “Bắc
quay lại ngay”! đó đang là đầu của tiết 2, tôi quay nhìn ra thì thấy một học sinh
đang dắt xe ra cổng, tôi đi ra và bảo em: “Bắc có chuyện gì vậy”?, đến gần tôi
nói: “Sao em về lúc này, có chuyện gì đã xảy ra với em, đã hơn 8 giờ mà em mới
8


đến trường chắc em đã gặp phải chuyện gì rồi, đúng không”? và Bắc có nói với
tôi rằng em bị ngã xe còn vết ở chân đây và đũng quần bị rách nên em phải quay
về nhà thay quần nhưng khi đến trường thì cô V đã không hỏi gì cả mà không
cho vào lớp.
Vậy đấy, học sinh Bắc đã cố gắng làm tốt việc của em ấy nên làm, là cố
gắng đến trường, còn giáo viên thì lại đối xử như vậy, hỏi làm sao các em lại trở
nên khó bảo, quậy phá và trở thành học sinh chưa ngoan. Nếu ta cứ cứng nhắc
về nội quy - kỉ luật, không tìm hiểu học trò thì tác hại sẽ như thế nào, trò sẽ coi
thường giáo viên rồi có thể ngầm chống đối,… khi đó công việc chủ nhiệm sẽ
khó khăn nhường nào. Em Bắc kia có thể ở nhà luôn do sợ bị khiển trách vì đi
muộn, nhưng không, em ấy đã vượt qua nỗi sợ đó vì muốn được đi học vậy mà
đến lớp thì cô lại không hiểu được những khó khăn mà em vừa trải qua, cô vô
tình hay cô không đủ thời gian để hỏi em dù chỉ một câu. Có thể là do áp lực của
công việc giảng dạy, nhiều giáo viên hiện nay ứng sử với những học sinh chưa
ngoan không được “khéo” cho lắm, các cách như: quát nạt, viết bản kiểm điểm,
đập thước xuống bàn, so sánh học sinh này với học sinh khác, mắng học sinh,….

Và cứ lặp lại như vậy mỗi khi lớp chủ nhiệm có vấn đề hoặc học sinh vi phạm kỉ
luật.
Qua câu chuyện này ta thấy có giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên đứng
lớp hiện nay có ít các cách sử lí hay khi gặp tình huống sư phạm. Do vậy, nên họ
thường đưa ra các quyết định cứng nhắc, ít tính thuyết phục. Không có tính cảm
hóa với học sinh chưa ngoan.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
Qua kinh nghiệm thực tế và những quan điểm đã được trình bày ở trên, tôi
xin đưa ra một vài giải pháp cá nhân hằng mong nhận được sự trao đổi, đóng
góp ý kiến của các đồng nghiệp cùng cơ quan và các cấp quản lí trong nghành
giáo dục.
2.3.1. Giải pháp 1. Xây dựng và đặt niềm tin, tạo mối quan hệ tốt với
từng học sinh
Tìm hiểu rõ đặc điểm cá nhân học sinh lớp chủ nhiệm thông qua bạn bè.
Bạn hãy nói chuyện tập thể hoặc nói chuyện riêng, kết hợp với đến chơi và thăm
gia đình một vài học sinh cần đặc biệt qua tâm. Đó là công việc mỗi giáo viên
chủ nhiệm cần phải làm nếu muốn làm tốt công việc chủ nhiệm lớp của mình.
Tại sao có những giáo viên họ làm công tác chủ nhiệm lớp rất nhẹ nhàng, không
bao giờ nghe thấy họ quát mắng hoặc la rầy học sinh, họ dễ dàng truyền đạt
những mong muốn hay ý kiến chỉ đạo đến học trò. Để có được điều đó bạn phải
tạo dựng được sự tin tưởng của học trò. Bạn là người mà không bao giờ đặt học
trò xuống dưới bản thân. Giáo viên phải đặt học trò và nhân cách của các em lên
trên bản ngã cá nhân mình, qua đó để hiểu các em nhiều hơn và cũng là để các
em hiểu thầy (cô) được đầy đủ hơn. Nên sử dụng các câu hỏi như: Tại sao em
hay đến trường muộn như vậy, tại sao em không nghe lời thầy (cô) em có lí do
9


gì không, tại sao em hay vi phạm nội quy của lớp của trường,… Để nghe được

các câu trả lời thành thật thì người giáo viên phải được học sinh tin tưởng. Có
một thực tế, trong nhiều tình huống học sinh vi phạm đang trình bày theo yêu
cầu của thầy (cô) đến phần giáo viên cho rằng em ấy không nói thật nữa thì lại
cho dừng kèm những câu nói như: Thôi thôi tôi hiểu rồi, thôi anh (chị) không
cần nói nữa, anh (chị) tưởng tôi không biết sao mà nói như vậy,…Như vậy giáo
viên đã tự để mất một cơ hội để hiểu học trò hơn. Có thể giáo viên biết là học
sinh đang nói sai nhưng hãy cố gắng để nghe hết câu chuyện. Sau đó nói với em
đó rằng từ nãy đến giờ thầy (cô) đang muốn nghe câu chuyện thật của em cơ,
câu chuyện đó khác câu chuyện em vừa kể.
Câu chuyện tôi kể ra sau đây xảy ra vào tháng 12 năm 2014. Năm học
2014-2015 tôi chủ nhiệm lớp 9A, có lớp trưởng là Mai Anh Đào. Qua phản ánh
của các học sinh thì bạn ấy thường xuyên không tham gia trực nhật với tổ vì hay
đi muộn. Tôi có nhắc là lớp trưởng nên gương mẫu em nhé, nhưng qua theo dõi
thì tình hình không có thay đổi gì. Tôi quyết định cho lớp nghỉ sớm một buổi
sinh hoạt lớp để nói chuyện riêng với em Đào. Tôi đã rất xúc động với những
khó khăn mà em đang phải gánh vác. Mỗi sáng phải lo cơm, cháo cho ông nội bị
tai biến và em còn nhỏ. Do bố mẹ em đều đi làm ca công nhân nhà máy thuốc lá.
Em nói: Em rất muốn đi sớm hơn nhưng vì nhiều việc nên em không thể kịp
được. Tôi đã nói câu chuyện của em Đào trước lớp và các bạn trong lớp đã im
lặng. Tôi hiểu các học sinh của tôi đã hiểu tôi và cảm thông với bạn Đào từ đây.
Kinh nghiệm được rút ra là: Để được học sinh tin tưởng, để có được
mối quan hệ tốt với học trò, để học trò biết lắng nghe bạn nói, hiểu những điều
bạn mong muốn và truyền đạt, thì lòng yêu thương học trò, tạo mọi cơ hội để
học trò được bộc lộ, biết lắng nghe học trò, biết đặt niềm tin ở học trò, là điều
kiện cần phải có của mỗi giáo viên chủ nhiệm. Trong mọi tình huống giáo viên
phải để học sinh được nói, được giải thích. Có thể học sinh không có thói quen
đó thì giáo viên phải tập bằng các câu hỏi nhỏ hơn. Giáo viên cần kiên nhẫn và
chú ý lắng nghe dù có thể học sinh đang nói dối, sự im lặng và chú ý của giáo
viên vào học sinh làm câu chuyện trở nên nghiêm túc và có sức răn đe với học
sinh hơn.

2.3.2 Giải pháp 2. Trách phạt và kỉ luật học trò vi phạm thì người giáo viên
chủ nhiệm cần phải đặt trách nhiệm cá nhân của mình vào trong đó.
Cái cần được hiểu và nói rõ trách nhiệm ở đây là một sự tự nguyện có chủ
định của người giáo viên, chứ không phải vì áp lực của một bên nào đó. Khi lớp
bạn có học sinh bị nhắc nhở, đánh nhau hoặc vi phạm nội quy bị lớp hoặc nhà
trường kỉ luật,… người giáo viên chủ nhiệm cần cư xử như thế nào với học sinh
đó, yêu cầu viết bản tường trình và kiểm điểm, trách phạt trước tập thể lớp, phản
ánh với phụ huynh học sinh, gặp phụ huynh… Tất cả những cách đó vẫn được
nhiều giáo viên chủ nhiệm áp dụng trong thực tế tại các trường hiện nay. Nó tạo
ra niềm tin với những giáo viên chủ nhiệm rằng mình đã làm đúng và đó là sự
lựa chọn khôn ngoan. Đúng, điều đó dễ dàng có kết quả với những học sinh
10


không có cá tính mạnh, những học sinh vi phạm lần đầu hoặc những học sinh có
nền nếp gia đình cơ bản. Còn với những học sinh có cá tính mạnh mẽ, cái tôi cá
nhân bộc lộ sớm nếu học sinh này vi phạm thì đây là những học sinh khó bảo,
“cứng đầu”. Giáo viên mà áp dụng những cách làm trên thì chắc chắn không
hiệu quả và là một thất bại được báo trước. Điều giáo viên cần làm lúc này là tạo
ra tình huống để người học sinh đó thấy rằng thầy (cô) của em cũng là một
người bạn, người sẵn sàng chia sẻ những gì mà em sẽ phải trải qua khi vi phạm
kỉ luật. Tình huống này chỉ giáo viên và học sinh đó biết để em ấy không phải
xấu hổ với bạn bè, đó cũng là cách chúng ta tôn trọng nhân cách học trò.
Một câu chuyện đã được tôi nhớ rõ là: Năm học 2011- 2012 tôi chuyển
công tác về trường THCS Hà Ngọc và được ban giám hiệu nhà trường giao cho
chủ nhiệm lớp 9A mà sau đó tôi biết rằng trong các năm lớp 6, 7, 8 đã có 3 giáo
viên làm chủ nhiệm lớp này, lớp có nhiều học sinh đặc biệt về nhân cách và hoàn
cảnh gia đình. Trong lớp tôi chú ý vào học sinh Lê Văn Anh, tìm hiểu tôi biết bố
em đi cải tạo vì buôn tiền giả và ma túy, mẹ đi làm công ti, em ấy thường xuyên
tự do tự tại một mình ở nhà. Hôm đầu tiên tôi gọi em lên bảng kiểm tra bài cũ,

em đứng dưới nói trống không: “Em mà cũng phải kiểm tra bài cũ à thầy” tôi
giật mình vì sự không nghiêm túc của em, nhưng tôi vẫn giữ vẻ bình thản và nói
nhỏ “Được kiểm tra là quyền lợi của mỗi học sinh, nó giúp các em có cơ hội
được thể hiện mình trước bạn bè, thầy cô, hôm nay thầy không kiểm tra em nữa
nhưng sẽ kiểm tra em vào giờ này tuần sau”. Đó chính là tạo cơ hội để học sinh
sửa sai và cho học sinh tự tìm thấy niềm vui trong học tập. Lần khác cũng học
sinh Lê Văn Anh này vi phạm kỉ luật và tôi nhận được yêu cầu từ ban giám hiệu
là lớp phải có hình thức kỉ luật học sinh này, đợi giờ ra chơi tôi gặp riêng em và
nói: “Sáng chủ nhật em gặp thầy ở trường một chút có được không, thầy trò ta
đi lao động”, em đã đồng ý và chủ nhật tôi đã chuẩn bị hai giẻ khô một ít cồn,
hai thầy trò đã tẩy toàn bộ các mặt bàn của lớp 9A do học sinh qua các thời kì
khác nhau đã viết bút xóa, bút bi, vẽ các hình ảnh và kí hiệu…, trong lúc làm em
rất tích cực, thoải mái nói chuyện và còn bảo tôi là: “Thầy cứ đi uống nước đi để
mình em làm cho”. Lúc đó tôi đã ước được thấy hình ảnh này của em trong
những giờ lên lớp. Còn tôi bảo: “Em đã sai và thầy cũng sai vì đã không giúp đỡ
được em, hôm nay cả hai thầy trò ta cùng chịu phạt”. Chuyện này chỉ có tôi, em
và ban giám hiệu được biết. Kết quả thì nhiều nhưng tôi thì được hai điều là:
Được học sinh tin tưởng còn ban giám hiệu và đồng nghiệp khen một câu “Sao
đồng chí làm chủ nhiệm lớp 9A năm nay nhẹ nhàng thế”.
Qua hai câu chuyện với em Bắc và em Anh ở trên mỗi giáo viên hãy tự rút
ra kinh nghiệm và cách ứng xử với học sinh cho riêng mình. Còn kết quả năm
2011-2012, lớp 9A của tôi được xếp lớp tiên tiến, chi đội vững mạnh, lớp đóng
góp sáu trên bảy học sinh nam trong đội bóng đá nam của trường vô địch cấp
huyện. Còn thành tích thi vào lớp 10 THPT năm đó lớp 9A cùng 9B của trường
đã được xếp thứ 3 toàn huyện về thành tích thi đỗ và điểm trung bình các môn
thi.
11


Kinh nghiệm được rút ra là: Khi giáo viên muốn xử phạt học sinh vi

phạm kỉ luật thì nên dùng hình thức lao động công ích. Giáo viên cần tạo ra tình
huống có sự tham gia của cả thầy và trò, việc này không nên công bố trước lớp.
Trong quá trình thầy trò cùng lao động và trò chuyện sẽ gắn kết được tình cảm
của thầy với trò và khi đó trò sẽ biết nghe lời thầy cô hơn. Mỗi người thầy,
người cô nên tạo ra cái uy với học trò, cái uy này khác với quyền lực. Cái uy của
thầy (cô) là sức mạnh, là quyền lực mà thầy (cô) có được do học sinh tự nguyện
trao cho bạn.
2.3.3 Giải pháp 3. Khen và động viên học sinh kịp thời trước tập thể, hạn
chế chê học trò và tuyệt đối không chì chiết hay so sánh học sinh với một
đối tượng nào đó.
Giáo viên chúng ta đã là người lớn vậy mà một lời khen đúng lúc, nhẹ
nhàng, hợp thời điểm, đúng thực tế bạn còn muốn nghe, huống chi là một đứa
trẻ với tuổi bắt đầu trưởng thành. Thực tế chỉ ra rằng một lời khen đúng thời
điểm, kịp thời với học sinh có tác dụng rất to lớn, nó thúc đẩy con người ta
muốn làm thêm nhiều việc tốt nữa để được nghi nhận và khẳng định giá trị bản
thân.
Nhưng thực tế có bao nhiêu giáo viên chủ nhiệm đã hành động theo cách
này. Khi một học sinh thực hiện tốt nội quy, hoàn thành tốt công việc được giao
thì bạn lại cho rằng đó là việc học sinh đó phải làm. Khi giáo viên phạt một học
sinh và khi em ấy hoàn thành thì bạn nghĩ rằng em ấy xứng đáng phải bị phạt
như vậy, thay vì một lời khen và động viên thì bạn nói với học sinh rằng nếu còn
tái phạm tôi sẽ phạt nặng hơn vì bạn nghĩ rằng như vậy sẽ đe dọa được học sinh
này. Bạn đã sai vì như vậy chỉ làm cho học sinh ấy chai sạn và bất hợp tác với
bạn trong những lần sau. Để tạo điều kiện cho các em chưa ngoan được thể hiện
mình và được khen bạn hãy giao những việc từ nhỏ nhất, để các em dần tham
gia vào các công việc của tập thể, qua đó nhằm hình thành tinh thần và trách
nhiệm với tập thể lớp và với thầy (cô) chủ nhiệm.
Trong dịp tết trồng cây và hoa đầu xuân Ất Mùi - 2015, mỗi lớp được
phân công trồng 5 cây bóng mát và 5 bụi hoa đồng tiền. Lớp tôi có em Hoàng
Văn Sâm trước đây cũng là một học sinh khó bảo, “cứng đầu”. Nhưng trong giờ

sinh hoạt lớp để giao việc em đã đứng ra nhận góp 3 bụi hoa đồng tiền cho tập
thể lớp. Kết quả 3 bụi hoa của em rất to nó có thể chia nhỏ ra thành nhiều bụi
như các bạn lớp khác đã góp. Tôi đã nói trước lớp 9A: “Nếu mỗi bạn nghĩ cho
tập thể một chút, bớt chút thời gian cá nhân của mình đi một chút, thì mọi công
việc của lớp sẽ suôn sẻ đi nhiều. Bạn Sâm tuần này làm thầy rất vui và hài lòng
vì tinh thần với tập thể, ngoài việc mang đủ số bụi hoa như đã hứa bạn ấy còn
chọn được những bụi rất to và đẹp. Thầy mong em Sâm và các bạn trong lớp
hãy ghi nhớ những việc mình đã làm, rồi hãy cố gắng làm tốt hơn ở những lần
sau”.
Trong các buổi lên lớp, các buổi sinh hoạt lớp, nói chuyện ngoài giờ, sinh
hoạt ngoại khóa, người giáo viên chủ nhiệm cần chú ý quan sát và cố gắng nhìn
12


ra được những mặt tích cực và hạn chế cần khắc phục của từng học sinh, sau đó
mỗi cuối tuần bạn phải tự tổng hợp và có đưa ra nhận xét sát đúng với từng vấn
đề và những học sinh mà bạn đang quan tâm. Điều này cũng không mất nhiều
thời gian như chúng ta vẫn nghĩ. Giáo viên cần phải khéo léo lồng ghép khen
trước và nếu cần chê thì phải chê sau.
Kinh nghiệm được rút ra là: Trong dạy học cũng như trong cuộc sống,
mỗi người, mỗi học sinh đều có điểm tốt, điểm xấu riêng. Chúng ta là những nhà
sư phạm thì cần tìm ra điểm tốt ở mỗi học sinh, tăng cường khen và động viên
kịp thời để các em phát huy điểm tốt đó. Đồng thời cũng chỉ ra cái chưa tốt và
hướng khắc phục - giúp đỡ để các em hoàn thiện. Mỗi khi người giáo viên đứng
trước học sinh thì cần tỏ thái độ nghiêm túc mà gần gũi, hòa đồng mà trang
trọng, tuyệt đối tránh hiện tượng quát mắng học trò và dùng những lời nói không
trong sáng hoặc so sánh học trò với những đối tượng hay con vật nào đó. Cũng
không thể dễ dãi với học sinh, tình thương và sự mong muốn học trò tiến bộ
không có chỗ cho sự dễ dãi hoặc như câu nói của ông cha thường nói là: “Cá mè
một lứa”. Nếu không bạn sẽ bị học trò chi phối. Đã bao nhiêu lần mà bạn nói

học sinh không nghe, bạn đưa ra yêu cầu mà học sinh không thực hiện,… bạn
cảm thấy bị bất lực với một hoặc vài học sinh nào đó. Khi đó sức mạnh, cái uy
cần có của một giáo viên chủ nhiệm của bạn đã bị mất và bạn không quản lí
được lớp chủ nhiệm theo cách tốt nhất.
2.3.4. Giải pháp 4. Giáo viên phải biết chấp nhận và có lòng yêu thương học
sinh.
Frank McCourt - một thầy giáo người Mỹ (người từng đoạt giải nhà giáo
của năm - 1967 đồng thời là chủ nhân của giải Publitzer năm 1996) trong hồi ức
đồng thời là tác phẩm văn học “Người thầy” đã kể: Trường hướng nghiệp nơi
thầy dạy được xem là “bãi rác” cho những học sinh không đủ trình độ vao
trường Trung học bình thường. Ngày nhận lớp cũng là ngày thầy đứng quan sát
chúng quậy phá, la ó... đủ kiểu. Cao điểm là lấy bánh mì ném nhau và một học
sinh lên tiếng: “Để xem tay thầy giáo mới này sẽ làm gì?”. Frank McCourt nói
ông cố nghĩ về những kiến thức được học ở Trường ĐH Sư phạm New York để
tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ có những triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức
và luân lý, mà không có cách giải quyết tình huống... “nem bánh mì”. Cuối
cùng, ông quyết định... ăn chiếc bánh mì. Ông viết: “Đó là hành xử đầu tiên của
tôi trong lớp. Cái miệng đầy bánh của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp. Chúng trố
mắt nhìn tôi đầy nét thán phục... Tôi nghĩ, tôi đã nắm được chúng trong tay...”.
Kinh nghiệm được rút ra là: Đôi khi chúng ta phải hi sinh cái tôi cá
nhân của mình, chấp nhận thực tế bằng lòng yêu thương chứ không phải bằng sự
chán trường. Bạn có thể mệt mỏi nhưng không được bi quan, ca thán hay bỏ
cuộc. Bởi nếu bạn thành công thì ý nghĩa giáo dục, thành quả bạn thu được là rất
to lớn. Người học sinh mà bạn cảm hóa bằng tình thương sẽ không quên được
bạn trong hành trang vào đời của em ấy.

13


2.3.5 Giải pháp 5. Sử dụng sức mạnh của ánh mắt và ngôn ngữ trong sáng

của tiếng Việt để tạo ra sức mạnh về hình ảnh và cái uy của người thầy
trong tâm trí học trò.
Sử dụng sức mạnh của ánh mắt - “ cửa sổ tâm hồn ”. Có thể ít giáo viên
nói chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng để ý đến điều này. Đôi mắt là “cửa
sổ của tâm hồn” nó có sức mạnh bằng cả ngàn lời nói. Người giáo viên nên tập
sao cho học sinh của bạn hiểu những mong muốn của bạn qua ánh mắt, muốn
vậy bạn cần nói rõ điều này cho học sinh của bạn được biết. Tôi thường xuyên
nói với học sinh của mình rằng hãy nhìn vào ánh mắt của thầy để hiểu điều thầy
đang mong muốn. Bạn cần tập sao cho phát huy hết sức mạnh của nó, dùng đôi
mắt và ánh mắt bạn nhìn học sinh để điều khiển và truyền tải thông tin mà bạn
muốn học sinh thể hiện. Khi người giáo viên làm tốt được điều này thì bạn sẽ
nhẹ nhàng đi rất nhiều trong công tác chủ nhiệm lớp. Ví dụ như: Bạn vào lớp mà
thấy học sinh đang không nghiêm túc, bạn nên dừng bài rồi đưa mắt về phía đó,
bạn chỉ mất 30 giây để làm cho học sinh đó trở lại bình thường mà không mất
một lời nào. Đó là sức mạnh của ánh mắt và sự im lặng, sự im lặng của thầy cô
là điều đáng sợ nhất với học trò. Tôi có nghe và để ý thấy có một vài thầy (cô)
nếu vào lớp mà học sinh chưa nghiêm túc, thì cầm thước gõ xuống bàn hay đập
lên bảng, những tiếng kêu phát ra nghe rất khó chịu cho học sinh và cả giáo viên
lớp bên. Nếu giáo viên đó vẫn giữ thói quen này thì mãi mãi bạn phải sử dụng
nó vì bạn đã tập cho học sinh thói quen và cái “phản xạ có điều kiện ” này. Để
có được sự nghiêm túc, giúp đỡ và dạy dỗ được những học sinh chưa ngoan
trong một tập thể lớp, người thầy (cô) cần phát huy tối đa ánh mắt và ngôn ngữ
của bạn. Đây là một gợi ý nhỏ của tôi: Khi bạn bước vào lớp, đây là khoảnh
khắc quan trọng nhất của thầy và trò trong một tiết học và có khi là cả ngày đi
dạy của bạn, bạn đừng chào học sinh một cách cho có, một số giáo viên khi vào
lớp học sinh còn đang đi lại tự do, học sinh đang lau bảng hay đang quay xuống
và có cả học sinh còn chưa đứng dậy mà đã cho học sinh ngồi xuống. Điều này
bạn vô tình đã tập cho học sinh thói quen xấu là ít tập trung vào những việc các
em đang thực hiện. Vậy thì khi giảng bài bạn sẽ mong học sinh học như thế nào.
Điều bạn cần làm nhân cơ hội này là truyền tải một thông điệp đến cho những

học sinh cả lớp rằng bạn là một người nghiêm túc, tập trung vào việc mình đang
làm và luôn đòi hỏi học sinh của mình cũng như vậy, ở đây không có sự dễ dãi.
Muốn như vậy khi vào lớp bạn nên sử dụng khoảng 25 đến 30 giây để đưa mắt
quan sát tất cả các ánh mắt các em đang nhìn bạn, em nào đang chưa nghiêm túc
bạn hãy dừng ánh mắt ở đó và tỏ ra không hài lòng (không cần nói), tôi chắc
chắn rằng qua một vài buổi bạn sẽ nhận được kết quả tích cực từ học sinh. Bạn
cho các em ngồi và nói rằng lần sau khi đứng chào thầy các em nên nhìn vào
mắt thầy vì khi đó thầy cũng đang nhìn để chào các em, vì chẳng có ai chào
nhau mà không nhìn vào mắt nhau hay mặt lại quay đi chỗ khác cả. Tôi tin rằng
bạn sẽ dần đưa nền nếp của lớp vào quỹ đạo mà bạn mong muốn chỉ bằng vài
cách cư xử nhẹ nhàng như vậy.

14


Sử dụng ngôn ngữ trong sáng của tiếng Việt và chuẩn mực với học trò.
Người giáo viên nên gọi học sinh là “em” hoặc tình cảm hơn là “trò” và trong
mọi trường hợp đều phải xưng là “thầy” hoặc “cô”, tại sao lại phải như vậy ?.
Tôi quan sát các đồng nghiệp quanh tôi khi họ không hài lòng về một việc gì đó
với học sinh, họ thường sử dụng những từ để gọi học sinh không được thích hợp
cho lắm, họ gọi học sinh là anh (chị) và xưng tôi, hay nặng nề hơn là ví học sinh
là một con vật gì đó…, mới nghe tưởng như vậy là răn đe và dọa nạt được học
sinh, có sức nặng để quy phục học sinh, nhưng theo tôi không phải như vậy.
Giáo viên gọi học sinh là các anh, các chị và xưng tôi thường xuyên, thứ nhất sẽ
không phù hợp với học sinh lứa tuổi THCS vì các em vẫn còn chưa đến tuổi
trưởng thành. Thứ hai gọi như vậy sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh người thầy của
bạn trong tâm trí học trò. Học sinh sẽ nghĩ đến bạn như một người dạy họ chứ
không phải là người thầy đúng như ý nghĩa. Khi bạn gọi học sinh là em (trò) và
xưng là thầy hoặc cô thì như một lẽ tự nhiên, từ “thầy (cô)” đã nâng bạn lên một
bậc cao mới mà điều này người khác không dễ dàng có được. Người giáo viên

vì vậy dễ dàng truyền đạt dụng ý của mình đến học sinh. Giúp học sinh nhận ra
các mối quan hệ “thầy – trò” và “trò – thầy” cần có trong nhà trường, nó cũng
như các mối quan hệ cần phải có trong một gia đình vậy. Mặt khác nó còn giúp
giáo viên tạo ra không khí của các buổi nói chuyện hay giáo dục thêm ấm áp,
gần gũi. Bạn đã dùng sức mạnh mềm để đạt được những việc mà bạn mong
muốn. Để có những ví dụ về sự hiệu quả của ngôn ngữ tác động đến tâm lí học
sinh và sức mạnh vô hình của nó, ta có thể đối chiếu các câu thường được dùng
và các câu gợi ý thay thế sau đây:
- Anh (chị) ra đây tôi bảo = Em ra đây thầy (cô) có việc muốn hỏi.
- Hôm nay anh (chị) làm tôi mất mặt với Ban giám hiệu quá = Hôm nay
các em đã làm thầy (cô) không được vui đấy, em biết là sao không?.
- Anh(chị) cứ nói tôi nghe xem nào = Em có gì để nói và giải thích với
thầy (cô) không, v.v… Ngoài ra khi gọi học sinh là em và xưng thầy (cô) thì bạn
đã tôn trọng bản thân mình. Tại sao nhà trường, xã hội và chính các em đã ban
cho giáo viên một tiếng thầy (cô) và nhận là trò, giáo viên lại tự mình vứt bỏ nó.
Cũng nói rằng mỗi khi giáo viên dùng những từ ngữ không chuẩn mực, thì bản
thân giáo viên cũng không được thoải mái. Điều đó chỉ giúp giáo viên giải tỏa
được sự bực dọc và nóng giận khi đó, nhưng hậu quả của nó thì giáo viên phải
dần dần hứng chịu. Đó là sự cứng đầu của học sinh ngày càng rõ nét, bạn dần
nhận ra rằng những lời nói kia ngày càng mất dần sức mạnh và tác dụng, mà lúc
đầu bạn không nhận ra điều đó. Tuyệt đối không gọi học sinh và sử dụng các từ
ngữ không trong sáng trong nhà trường. Không nên so sánh hai học sinh hoặc
một nhóm học sinh với nhau dưới mọi hình thức. Tốt nhất những lúc nóng giận
giáo viên không nên nói gì nhiều và không được nói nặng nề với học sinh, chắc
chắn học sinh sẽ bất ngờ và “giật mình” với những ứng xử của bạn. Khi đó giáo
viên sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa ra các câu hỏi và các yêu cầu với học sinh vi

1
5



phạm. Đây là cơ hội để bạn hoàn thiện nhân cách và phát triển ngôn ngữ ở học
sinh.
Kinh nghiệm được rút ra là: Trong giảng dạy và làm chủ nhiệm lớp ta
cần sử dụng nhiều đến ánh mắt và ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ hình thể. Sử dụng
ngôn ngữ hợp lí, trong sáng, lời nói dứt khoát, đúng thời điểm, nói đi đôi với
hành động của thầy (cô)…, thì sẽ có sức thuyết phục và răn đe đối với học sinh.
Lời nói và hành động của thầy(cô) phải chuẩn mực, được xuất phát từ lòng yêu
thương và sự chân thành, chỉ khi đó người giáo viên mới ở cái tầm mà mỗi học
sinh khi tiếp xúc đều muốn hướng đến và mới là “Thầy ra thầy – trò ra trò”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Công tác chủ nhiệm lớp luôn là vấn đề được các giáo viên bàn thảo sôi
nổi mỗi khi có một vấn đề tiêu cực từ phía học sinh. Sáng kiến kinh nghiệm này
giúp giáo viên và giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm có thêm những
cách tiếp cận với học sinh chưa ngoan. Qua đó biết cách cảm hóa giáo dục các
em học sinh này. Giúp các em hư trở thành những học sinh ngoan hơn, sau này
trở thành những công dân có ích cho xã hội. Một tập thể lớp không có học sinh
quậy phá, nghịch nghợm, không có học sinh có các vấn đề xã hội thì chắc chắn
tập thể đó sẽ vững mạnh. Các em học sinh trong tập thể đó sẽ tiến bộ từng ngày.
Điều này trực tiếp nâng cao chất lượng dạy và học của lớp nói riêng và của
trường nói chung. Có một thực tế trong nhà trường nói chung và cấp THCS nói
riêng là lớp nào có nhiều học sinh quậy phá, khó bảo thì chất lượng học tập ở
lớp đó sẽ không cao. Bởi khi thầy cô vào lớp phải dẹp trật tự, giữ ổn định, nhắc
nề nếp thì còn tâm sức đâu mà truyền giảng những lời hay ý đẹp. Khóa học
2011-2015 trường THCS Hà Ngọc là năm đầu tiên tôi chuyển từ THCS Hà Sơn.
Đây cũng là năm đầu tiên tôi ấp ủ ý tưởng cho sáng kiến kinh nghiệm này. Tôi
dạy lớp 6, 9A, 9B kiêm chủ nhiệm lớp 9A. Trong 4 năm dạy học rồi trực tiếp
làm chủ nhiệm lớp 9A năm học 2014-2015. Tôi liên tục tìm tòi vận dụng những
ý tưởng. Nên khóa học 2011-2015 được coi là khóa thành công nhất trong cả 2

tiêu chí chất lượng mũi nhọn và chất lượng đại trà. Cụ thể là: về mũi nhọn là 12
giải văn hóa cấp huyện, có 5 học sinh dự thi cấp tỉnh các môn văn hóa lớp 9.
Còn chất lượng đại trà được thể hiện qua chất lượng thi vào lớp 10-THPT năm
học 2015 - 2016 thì trường THCS Hà Ngọc xếp thứ nhất toàn huyện. Có được
thành công đó phần nhiều là do nề nếp học tập, đạo đức học sinh được tôi và các
đồng nghiệp cùng nhau bàn bạc và thống nhất cách giáo dục nhất quán theo tinh
thần nội dung của sáng kiến kinh nghiệm này.
Trong sáng kiến kinh nghiệm này của tôi chỉ nói về một chủ đề hẹp. Đó là
cách giúp đỡ, cảm hóa, giáo dục những học sinh trong lớp chủ nhiệm nói chung
và học sinh chưa ngoan nói riêng. Vì vậy các kết quả bản thân tôi thu được là rất
tốt ở nhóm học sinh mà tôi đang quan tâm, do đối tượng hẹp và cách làm rõ
ràng, nhất quán. Những học sinh chưa ngoan sẽ dần biết nghe lời thầy cô và chịu

16


khó, tích cực hơn trong học tập và các hoạt động tập thể. Vì các em có được sự
lắng nghe, chia sẻ, được tôn trọng từ phía các thầy cô.
Tôi đưa ra đây một bảng số liệu thông kê số học sinh chưa ngoan trước và
sau khi tôi áp dụng kinh nghiệm này, khi tôi nói chuyện và thực hiện công việc
chủ nhiệm lớp như đã phân công, tôi không bao giờ tách học sinh chưa ngoan ra
khỏi tập thể lớp, tập thể lớp là đòn bẩy để kích thích và là nguồn cổ vũ để các
em chưa ngoan có động lực phấn đấu hoàn thiện bản thân mình.
(Bảng số liệu tham khảo qua một số năm với các lớp được theo dõi)
Năm học

Lớp

Sĩ số


Số học sinh chưa ngoan
đầu năm học

Số học sinh chưa
ngoan cuối năm học

SL

%

SL

%

20112012

9A

26

7

7/26(26.9%)

1

1/26(3.8%)

20122013


7A

27

6

6/27(22.2%)

2

2/27(7.4%)

20132014

8A

27

3

3/27(11.1%)

1

1/27(3.7%)

20142015

9A


27

1

1/27(3.7%)

0/27 (0%)
0

3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Tôi nhận ra rằng người giáo viên chủ nhiệm lớp không phải là người quản
lí học sinh. Mà là người giúp đỡ, người tư vấn, người hướng dẫn, người đồng
hành với các em trên hành trình các em hoàn thiện nhân cách một con người.
Qua các năm từ khi ra trường cho đến bây giờ, bản thân tôi luôn cố gắng làm tốt
nhất công việc được giao, trong công tác chuyên môn và giảng dạy. Đồng hành
với công việc dạy học là công tác chủ nhiệm lớp, do vậy tôi luôn cố gắng tìm
tòi, quan sát, thử nghiệm các cách xử lí với học sinh và tự đưa so sánh để rút ra
kinh nghiệm cho mình. Qua các năm công tác tôi đã tự đúc rút và có trao đổi với
các đồng nghiệp để kinh nghệm của mình được hoàn thiện hơn, ít mang tính chủ
quan duy ý chí. Hiệu quả của kinh nghiệm thì bản thân tôi đã được trải nghiệm
và thấy rõ, tính thực tế dễ dàng thực hiện, tính phù hợp với nhiều học sinh và
giáo viên, tính khoa học trong các giải pháp và đặc biệt là sự gần gũi của kinh
nghiệm.
Đọc kinh nghiệm này hầu hết trong chúng ta thì ai cũng thấy là những
việc mình đã làm có ở trong đó, nhưng khác biệt là ở chỗ, ở đâu đó hay chỉ lúc
nào đó bạn có thực hiện được như vậy một cách lẻ tẻ, không có sự chủ định, bài
17



bản, có ý đồ nhất quán và hơn nữa bạn chưa chủ động để tạo ra tình huống mà
nhờ nó bạn muốn thu phục được học trò. Cũng cần phải nói thêm rằng có những
học sinh ngoan với thầy cô này nhưng lại là không ngoan với thầy cô khác, nói
như vậy có vẻ mâu thuẫn nhưng thực tế lớp học và nhà trường lại chỉ ra như vậy.
Vậy nguyên nhân ở đâu, vào cuối tháng 1 năm 2015 tôi có làm một cuộc
khảo sát nhỏ lớp 9A chủ nhiệm, với câu hỏi: “Em có mong muốn gì ở thầy, cô và
nhà trường?”, và yêu cầu câu trả lời mà không cần ghi tên. Kết quả đã được tôi
tổng hợp và có trao đổi với Ban Giám Hiệu cùng hội đồng giáo viên trong buổi
họp hội đồng tháng 1/2015. Có một số mong muốn của các em mà tôi rất lưu
tâm như: Mong cô môn… chấm điểm kiểm tra công tâm hơn, mong cô môn
… không trừ điểm lung tung, mong cô môn … không nói xen vào khi em đang
trả lời bài cũ, dù đúng dù sai cô hãy để em được nói hết vì đó là tất cả những gì
em biết,…
Cho nên, với những thầy (cô) vẫn còn đang xem mình là trung tâm của
lớp học. Học sinh phải nghe lời và phục tùng mọi quyết định của thầy (cô) đã
đưa ra thì thật khó để thu phục được nhân tâm của các em, và như vậy thì vẫn
còn học chưa ngoan trong các giờ của thầy (cô) đó.
Vậy đấy, những ứng xử của chúng ta với học trò có thể làm tốt lên một
con người. Nhưng nếu giáo viên không chú ý, cẩu thả trong hành động và đưa ra
quyết định có thể làm phát sinh những học sinh không còn tính phấn đấu, không
nghe lời thầy (cô).
3.2. Kiến nghị.
Với nhà trường: Cần tăng cường áp dụng, quán triệt nội dung sáng kiến
kinh nghiệm này đối với tất cả các giáo viên chủ nhiệm và cả giáo viên bộ môn.
Bởi mỗi lớp học có hơn 10 giáo viên đứng lớp, nếu không đều tay vận dụng thì
sẽ dẫn đến khó thành công.
Với phòng giáo dục: Trong thời gian tới các cấp quản lí giáo dục từ
trường đến Phòng giáo dục và Đào tạo cần tăng cường trao đổi nắm bắt thông
tin về số lượng những học sinh chưa ngoan ở cấp THCS qua báo cáo đầu năm
học, những học sinh cần trợ giúp tâm lí, những học sinh cần tư vấn hiểu biết xã

hội và pháp luật. Cần lập tổ tư vấn học đường bằng cách sử dụng các giáo viên
có kinh nghiệm làm chủ nhiệm giỏi hay những giáo viên có khả năng thuyết
phục và biết nói chuyện với các bạn học sinh lứa tuổi THCS. Do tình hình hiện
nay ở mỗi trường THCS trên địa bàn huyện Hà Trung thì việc này là khó thực
hiện vì cơ cấu giáo viên đã kín tiết, vì vậy phòng GD&ĐT cần là đơn vị đứng ra
thành lập tổ tư vấn này, thành viên của tổ tư vấn lấy từ nhiều nguồn như: Giáo
viên, công an, bộ đội, bác sĩ, thanh niên tiến bộ ở địa phương, các học sinh xuất
sắc cấp THPT, … mỗi năm tổ chọn ra vài chủ đề nhất định và mỗi tháng dựa vào
nhu cầu của các trường THCS hoặc theo lịch của phòng GD&ĐT tổ tư vấn sẽ về
trường nói chuyện với học sinh và truyền kinh nghiệm giúp đỡ và giáo dục học
sinh chưa ngoan cho giáo viên chủ nhiệm. Kinh phí để duy trì và thực hiện
18


tổ tư vấn này nên vận động sự đóng góp của các tổ chức ngoài xã hội và kêu gọi
sự tình nguyện của các tư vấn viên.
Hướng mở rộng của sáng kiến kinh nghiệm: Những học sinh chưa ngoan
trong trường THCS là đối tượng chính của SKKN này. Có được kết quả tốt như
vậy nên ta cần mở rộng đối tượng lên ở độ tuổi cao hơn là ở lớp 10 đầu cấp
THPT.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu Trưởng

Hà Trung, ngày 13 tháng 3 năm 2016
CAM ĐOAN KHÔNG COPY
Tôi xin cam đoan SKKN này là của
mình,
không copy sao chép của người khác!

Người viết sáng kiến kinh nghiệm

Dương Thị Thu Hương

Trình Hữu Tuấn

Xác nhận của phòng GD&ĐT huyện Hà Trung

19


4. Tài liệu tham khảo.
+) Tác phẩm “Người thầy” - Frank McCourt, một thầy giáo người Mỹ (người
từng đoạt giải Nhà giáo của năm - 1967, đồng thời là chủ nhân của giải
Publitzer năm 1996).
+) Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên trong các năm học 2014-2015, 2015 -2016.
- Hướng dẫn tư vấn cho học sinh THCS - Module THCS 7 - Tác giả Phạm
Thanh Bình - Viện khoa học giáo dục Việt Nam
- Nâng cao năng lực chăm sóc hỗ trợ tâm lí cho học sinh trong quá trình giáo
dục - Module THCS 10, Module THCS 11, Module THCS 12 - Các tác giả:
Phạm Thanh Bình. Nguyễn Quang Uẩn. Nguyễn Thị Hương - Viện khoa học
giáo dục Việt Nam và Cục nhà giáo và cán bộ quản lí cơ sở giáo dục.
+) Các nghiên cứu về sự phát triển tính cách tăng đậm ở trẻ - Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam (PGS.TS. Võ Thị Minh Chí - Viện nghiên cứu sư phạm
ĐHSPHN)
+) Các bài viết về giáo dục của nhà giáo dục học K.Dushinsk - Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam
5. Phụ lục.
- Giải thích từ ngữ viết tắt:
GV: Giáo viên

HS: Học sinh
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm
GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
Học sinh chưa ngoan là:
- Học sinh hay vi phạm nội quy lớp, trường
- Học sinh hay nói ngang với thầy, cô.
- Học sinh không hoàn thành ở mức tối thiểu chương trình giáo dục.
- Học sinh ít khi chấp hành tốt các yêu cầu của tập thể lớp, của thầy cô.
- Học sinh hay bắt nạt học sinh khác yếu hơn mình.
- ….

20



×