Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy học môn ngữ văn lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.71 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

1.MỞ ĐẦU.-------------------------------------------------------------------------------2
1.1. Lí do chọn đề tài:-----------------------------------------------------------------2
1.2.Mục đích nghiên cứu :-----------------------------------------------------------3
1.3.Đối tượng nghiên cứu:-----------------------------------------------------------3
1.4.Phương pháp nghiên cứu:------------------------------------------------------3
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM--------------------------------------4
2.1.Cơ sở lí luận của đề tài:----------------------------------------------------------4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng:----------------------------------------6
2.3. Các sáng kiến kinh ngiệm và các giải pháp đã sử dụng để đưa ra giải
quyết vấn đề đó.------------------------------------------------------------------------8
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với việc giảng dạy của bản thân và đồng
nghiệp ở trường THCS Định Hưng:----------------------------------------------11
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:---------------------------------------------------12
3.1.Kết luận:--------------------------------------------------------------------------12
3.2. Kiến nghị:------------------------------------------------------------------------13
Tài liệu tham khảo.---------------------------------------------------------------14

1


1.MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài:
Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giờ học luôn là mục tiêu mà
mỗi người giáo viên đứng lớp quan tâm, trăn trở và tìm cách thực hiện, nhằm
mang đến hiệu quả tối đa cho giờ dạy học của bản thân và học sinh. Đây cũng là
mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất của quá trình đổi mới giáo dục xuyên suốt từ
vài thập niên gần đây của Bộ Giáo dục và Đào tạo( GD&ĐT). Mỗi người GV
trực tiếp giảng dạy, ngoài việc vận dụng tốt những phương pháp, phương tiện
thiết bị dạy học, cách thức kiểm tra đánh giá học sinh theo đề án đổi mới giáo


dục ở các chuyên đề được tiếp thu, mỗi người cũng cần phải có những cách thức
riêng cho bản thân mình để có thể áp dụng vào thực tế công tác, vào điều kiện
giảng dạy của bản thân, nhà trường, địa phương. Và nhất là phù hợp với đối
tượng học sinh (về khả năng tiếp thu, hoàn cảnh xã hội, gia đình cũng như sức
khỏe của các em ).
Một thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, các môn học thuộc bộ
môn khoa học xã hội, nhất là môn Ngữ văn đang bị học sinh “xa lánh”, một
phần vì nội dung chương trình còn nặng về kiến thức, một bài học các em phải
tiếp nhận nhiều đơn vị kiến thức với áp lực phải ghi nhớ. Ngữ văn lại là môn
học phải đọc nhiều, viết nhiều nhưng xu thế phát triển của thời đại Công nghệ số
khiến các em ngại đọc, ngại viết, ngại trau rồi kiến thức mà ỉ lại vào các trang
mạng xã hội: Google, Facebook, YouTube… Dẫn đến hạn chế trong khả năng
lĩnh hội bài học, kĩ năng tư duy và diễn đạt kém, kiến thức tích lũy thì nghèo
nàn. Dẫn đến học sinh chán học, giáo viên mất hứng thú trong giờ dạy, nhiệt
huyết truyền đạt những tri thức hay, sâu sắc, mới mẻ cho học sinh mất dần, mai
một dần, đến bỏ hẳn. Giờ học Ngữ văn trở nên khô khan, nhàm chán, chất lượng
hiệu quả gờ học không cao.
Trước thực tại đó, là một giáo viên Ngữ văn với 17 năm công tác, bản thân
thật sự cảm thấy rất buồn khi môn Ngữ văn bị xem nhẹ, thậm chí là “ rẻ rúng”.
Tôi luôn suy nghĩ và trăn trở: Làm thế nào để khơi dậy hứng thú học tập của
học sinh, nuôi dưỡng niềm đam mê và lòng ham học môn văn ở các em, nhất là
đối với những em học sinh lớp 6 để từ đó nâng cao chất lượng giờ dạy và học
môn mình phụ trách? Bằng thực tế 17 năm đứng lớp với những bài học kinh
nghiệm học hỏi được từ đồng nghiệp và từ chính thực tế giảng dạy của mình,
tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân trong việc nâng cao chất
lượng giờ dạy. Vì vậy tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng
giờ dạy học môn Ngữ văn lớp 6”, với mong muốn tạo mọi điều kiện cho các
em HS- nhất là các em học sinh lớp 6, còn quá bỡ ngỡ với cách thức tiếp nhận
một bài học của môn Ngữ văn ở Cấp THCS, nhằm giúp các em biết được và có
được nhiều cách tiếp cận với môn Ngữ văn nói chung với mỗi bài học văn nói

riêng một cách nhanh nhất và đúng nhất, để đạt được hiệu quả cuối cùng là
nâng cao chất lượng giờ dạy của GV và giờ học của HS, đồng thời nâng cao
2


được hiệu quả dạy học văn của bản thân nói riêng và đồng nghiệp nói chung.
Xin được mạnh dạn đưa ra để đồng nghiệp tham khảo và đóng góp ý kiến.
1.2.Mục đích nghiên cứu :
Với đề tài này, tôi mong muốn có thể tìm ra được một số biện pháp phù hợp
nhằm giúp các em HS lớp 6 biết được và có được nhiều cách tiếp cận với mỗi
bài học văn một cách nhanh nhất và đúng nhất, để đạt được hiệu quả cuối cùng
là nâng cao chất lượng giờ dạy của GV và giờ học của HS, khơi dậy hứng thú
học văn và kích thích năng lực tư duy sáng tạo cho HS , nhằm đạt đến một hiệu
quả cao nhất là nâng cao chất lượng mỗi giờ học văn, tạo ra hướng tiếp cận mới
cho HS, hướng các em có thái độ đúng đắn trong việc học văn và sâu xa hơn ,
yêu thích môn văn một cách tự nguyện.
1.3.Đối tượng nghiên cứu:
Cách thức, phương pháp dạy học môn Ngữ văn phù hợp với học sinh
lớp 6 để nâng cao chất lượng giờ dạy học. Áp dụng cụ thể vào môn ngữ văn 6,
vào một ví dụ cụ thể là tiết 73,74, văn bản “ Bài học đường đời đầu tiên” ( Trích
trong tác phẩm “ Dế Mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài, SGK Ngữ văn 6, tập 2,
trang 3, Nhà xuất bản GD.
Đối tượng thực nghiệm là các em học sinh lớp 6, trường THCS Định Hưng,
năm học 2017-2018.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng tổng hợp các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. Trên cơ sở nội dung bài
học, áp dụng các kiến thức tiếp thu được trong quá trình bồi dưỡng thường
xuyên ( BDTX ), qua việc tìm hiểu những vấn đề chung về đổi mới giáo dục
THCS để vận dụng tìm ra biện pháp hiệu quả nhất cho một bài dạy Ngữ văn ở

lớp 6.
- Phương pháp điều tra thực tế : Vận dụng phương pháp này để điều tra thăm
dò ý kiến học sinh về thái độ học tập của các em trước và sau khi GV áp dụng
một số biện pháp để nâng cao chất lượng giờ dạy- học.
- Phương pháp thống kê sử lí số liệu: Thống kê sử lí số liệu trên cơ sở điều tra
thực tế HS.

3


2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận của đề tài:
Như trên đã nói, người giáo viên muốn nâng cao chất lượng giờ dạy của
bản thân điều cốt yếu và quan trọng nhất là đổi mới cách thức và phương pháp
dạy học. Phải hiểu, phương pháp dạy học không bó hẹp trong việc ứng dụng ở
một bài học cụ thể, một tiết học cụ thể mà là cả một quá trình; có thể ứng dụng ở
mọi thời điểm nếu điều kiện của GV và HS cho phép. Vì vậy, trước hết mỗi GV
phải nắm vững được những vấn đề lí luận cơ bản về phương pháp dạy học và
đổi mới phương pháp dạy học.
Vậy đổi mới phương pháp dạy học là gì? Đổi mới phương pháp dạy học để
làm gì? Đổi mới phương pháp dạy học phải đáp ứng những yêu cầu gì?
Theo Tài liệu “ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở
môn Ngữ văn” , trang 22, 23 của Bộ GD&ĐT, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản
năm 2007 thì:
“ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh” ( Trích Luật Giáo dục, điều 28.2).
Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay

đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo Phương pháp dạy học
tích cực( PPDHTC) nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ
năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong
thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập…HS tự hình thành hiểu
biết, năng lực và phẩm chất. Chú trọng hình thành các năng lực ( tự học, sáng
tạo, hợp tác,…) dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học.
Học để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học
cần thiết, bổ ích cho bản thân HS và cho sự phát triển xã hội.
Yêu cầu đối với việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông đố là:
Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh.
Dạy học kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác; giữa hình thức cá
nhân với hình thức học theo nhóm, theo lớp.
Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa
HS và HS.
Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực, tăng cường
thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống.
4


Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự
học tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hướng thú, nhu cầu hành động và thái độ tự tin
trong học tập cho học sinh.
Dạy học chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy
học được trang bị hoặc các thiết bị do GV tự làm, đặc biệt lưu ý đến những ứng
dụng của công nghệ thông tin.
Dạy học chú trọng đến việc đa dạng nội dung, các hình thức, cách thức
đánh giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
Đối với học sinh cần :

Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để tự
khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi
đúng đắn. Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành thí nghiệm;
thực hành vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá giải quyết các tình
huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn; xây dựng và thực hiện các kế hoạch học
tập phù hợp với khả năng và điều kiện. Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến,
quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho
thầy, cho bạn. Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm
học tập của bản thân và bạn bè.
Đối với GV cần:
Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với
các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài
học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và
địa phương. Động viên, khuyến khích tạo cơ hội và điều kiện cho HS được tham
gia một cách tích cực và chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội
tri thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng đã có của HS; tạo
niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS;
giúp các em phát huy tối đa năng lực, tiềm năng bản thân. Thiết kế và hướng
dẫn học sinh thực hiện các dạng câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ
năng; hướng dẫn sử dụng các thiết bị, đồ dùng học tập; tổ chức có hiệu quả các
giờ thực hành; hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn. Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học một cách hợp lí, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của cấp học,
môn học; nội dung, tính chất của bài học; đặc điểm và trình độ học sinh; thời
lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương.
( Trích từ tài liệu “ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn
Ngữ văn, trang 26, 27, của Bộ GD&ĐT, Nhà xuất bản Giáo dục ,xuất bản năm
2007)

5



2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng:
Như trên đã trình bày, mục đích cuối cùng của việc đổi mới phương pháp
dạy học là nâng cao chất lượng mỗi giờ dạy- học của GV và HS. Muốn vậy,
người GV trước hết phải biết đổi mới cách truyền đạt tri thức của bài học đến
với các em, GV không thể dậm chân tại chỗ trong việc gói gọn truyền đạt tri
thức ở một tiết học 45 phút để thực hiện công việc này, không thể cứ theo kiểu
“ mõ tre, sách in” mà phải vận dụng linh hoạt trong điều kiện thực tế học sinh
hiện nay và điều kiện hoàn cảnh học tập hiện nay của học sinh mình để từ đó
khơi dậy hứng thú học tập, hình thành cho các em thói quen chủ động tìm tòi và
lĩnh hội tri thức chứ không phụ thuộc, ỷ lại vào sự cung cấp tri thức từ phía thầy
cô giáo.
Song , thực tế hiện nay, việc học văn, tiếp cận với văn học đối với học
sinh, nhất là học sinh lớp 6 là một vấn đề vừa khó, vừa ngại đối với các em. Đa
số các em đến trường không chịu chuẩn bị bài ở nhà, không đọc phần văn bản
trước khi đọc hiểu, không soạn bài, bài tập không làm. Đối với học sinh lớp 6,
các em còn gặp khó khăn ở khâu chuẩn bị bài, cách học và soạn bài như thế nào
là đúng hướng, đáp ứng yêu cầu bài học. Các em chưa nắm được nội dung cần
chuẩn bị ở nhà cho từng bài học. Trên lớp, cách ghi bài của các em cũng là một
vấn đề khó khăn cho cả thầy và trò: các em chưa biết chắt lọc kiến thức thầy cô
giảng để ghi bài, chỉ biết nghe, ghi theo nội dung trên bảng. Nhiều em ghi còn
rất chậm, phải dò từng chữ rất mất thời gian, các em vẫn còn quen với lối đọc
chép, quá phụ thuộc vào việc đọc của thầy cô để lĩnh hội bài học. Chính vì thế,
việc tiếp thu bài ở trên lớp của các em không mang lại hiệu quả cao, dẫn đến
việc chán nản và dần bỏ bê môn học. Đây là một vấn đề cấp bách và rất nan giải,
nếu chúng ta không biết định hướng cho các em biết cách tiếp cận môn học, biết
cách học môn văn ngay từ năm lớp 6 thì thực sự là một sự thất bại trong việc
dạy và học văn trong trường THCS.
Mặt khác về phía GV dạy văn, đa số cũng chưa thực sự có sự đổi mới

trong phương pháp cách thức để hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức, hầu hết
vẫn trung thành với sự định hướng phương pháp cách thức của những tài liệu
hướng dẫn giảng dạy chính thống do Bộ GD& ĐT cung cấp, chưa mạnh dạn vận
dụng linh hoạt vào tình hình thực tế của học sinh một cách sáng tạo hơn nhằm
mang lại hiệu quả cao hơn. Khi đi dự giờ một số đồng nghiệp, vẫn thấy các đồng
chí áp dụng tuần tự các đề mục và cho học sinh thực hành lần lượt trong tiết học.
Ví dụ khi dạy về văn bản truyện ngắn, mục đọc, chú thích từ khó có thể lược bỏ
bớt phần đọc, tập trung cho các em giải thích từ khó xong để có thể chuyển sang
phần tóm tắt cho nhanh, nhưng vẫn có đồng chí áp dụng một cách máy móc, đọc
hết tác phẩm, giải thích hết từ khó, đến phần tóm tắt, gọi một vài học sinh không
thực hiện được, bản thân đành tóm tắt cho HS và bước sang phần khác mà
6


không có sự hướng dẫn tóm tắt để các em có thể tự làm. Cách vận dụng không
hợp lí này vừa mất thời gian trên lớp lại không luyện được kĩ năng tóm tắt cho
các em.
Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng, xu hướng chung là các em ngại
học văn nhưng cũng vẫn còn số ít các em đam mê với môn học. Và GV có thể
lấy các em đó làm nòng cốt để khơi dậy hứng thú học tập cho tất cả các em còn
lại khác. Và qua điều tra tiếp xúc, việc các em ngại học văn không hẳn xuất phát
từ việc các em không yêu thích môn văn mà do điều kiện hoàn cảnh, các em vẫn
có lòng ham mê tìm hiểu các tác phẩm văn học, có những em học sinh muốn
học, muốn chuẩn bị bài học nhưng không biết bắt đầu từ đâu và làm như thế
nào. Các em vẫn thích lắng nghe những câu chuyện văn học mà thầy cô kể,
muốn đọc những tác phẩm văn học mà thầy cô giới thiệu. Nhiều em sau những
bài học, nhất là phần bài học văn bản thường hỏi sách này mua ở đâu, ở Thư
viện nhà trường có không để chúng em mượn đọc. các em thường đề nghị giáo
viên kể chuyện cho nghe. Đây cũng là một tín hiệu mừng để GV có thể khai thác
từ đó nhân rộng những cá nhân yêu thích học văn, từ đó khơi lại hứng thú học

văn cho các em.
Thêm một thực tế khó khăn nữa cũng cần đề cập tới đó là: hoàn cảnh học
tập của các em. Theo thống kê danh sách hoàn cảnh gia đình các em HS của
giáo viên chủ nhiệm thì có đến 80 % các em có bố mẹ phải đi làm ăn xa không
có thời gian ở bên cạnh con cái, hoặc làm công ty( với thời gian tăng ca liên tục)
nên phần lớn các em ở nhà với ông bà, hoặc bố mẹ đi làm từ sáng sớm đến 8-9h
tối mới về đến nhà không có thời gian để ý xem xét đến việc học của con ; Đặc
biệt hơn có một số trường hợp bố mẹ làm ở xa, trọ lại nơi làm, nhà lại không có
ông bà nên để con cái ở nhà con lớn trông con nhỏ, các em tự quản thúc lẫn
nhau. Vì vậy, thường các em này phải tự lập sớm, hoàn toàn tự chủ về hành vi,
lối sống và việc học tập của mình mà không có người lớn kèm cặp, chỉ bảo.Điều
này rất dễ dẫn các em đến việc bỏ bê học tập và xa vào hư hỏng. Hơn nữa, khi
các em cần người để hỗ trợ giải quyết những vấn đề thắc mắc về học tập, đời
sống mà không có các thầy cô trên lớp thì rất khó khăn. Việc các em học thế
nào, học ra sao khi ở nhà cũng là một điều đáng bàn. Mối liên hệ giữa phụ
huynh và GV cũng vì thế trở nên khó khăn hơn.
Từ thực trạng trên, tôi thấy rằng, khơi dậy hứng thú học văn để từ đó
nâng cao chất lượng giờ dạy học văn cho học sinh là điều không dễ nhưng
không phải là không thể làm được. Vấn đề là người GV phải biết vận dụng một
cách khéo léo, phù hợp để mang lại hiệu quả cao nhất.

7


2.3. Các sáng kiến kinh ngiệm và các giải pháp đã sử dụng để đưa ra giải
quyết vấn đề đó.
Từ thực trạng trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp và một số ví dụ cụ thể như
sau:
Về một số giải pháp như sau:
Đối với GV trực tiếp đứng lớp:

Trong mọi tình huống để giảng dạy, truyền đạt được những tri thức đúng,
đủ và cơ bản cho học sinh, Gv cần phải tìm hiểu, nắm bắt được sâu và rộng nội
dung bài dạy. Chuẩn bị bài soạn chu đáo mỗi khi lên lớp để chủ động trong mọi
tình huống xử lí nội dung bài học, giải đáp những thắc mắc của học sinh về bài
học khi các em cần . Ngoài ra, GV cũng cần phải tìm hiểu, bố sung tư liệu về bài
học cho mình, nhất là đối với những tiết dạy- học văn bản( đặc biệt những văn
bản là đoạn trích trong một truyện ngắn hay một bộ tiểu thuyết đồ sộ,hay một
bài thơ trong một tập thơ) để mở rộng kiến thức cho bản thân và học sinh về bài
học, giới thiệu được cho các em nguồn tư liệu phong phú và tin cậy để củng cố
và tìm hiểu sâu và rộng hơn về nội dung bài học.
Mặt khác GV cần phải luôn có ý thức trau dồi , bồi dưỡng về trình đọ tin học
và kĩ năng sử lí các tình huống khi sử dụng máy tính để biết khai thác hiệu quả
của các phòng học bộ môn, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy( nhất
là sử dụng máy chiếu) vào những tiết dạy phù hợp, cần thiết để nâng cao hiệu
quả giảng dạy, khơi dậy sự tập trung chú ý vào bài học của học sinh. Nhưng
cũng cần phải lưu ý là sử dụng một cách hợp lí để mang lại hiệu quả tối đa nhất.
Lập kế hoạch tổ chức các tiết ngoại khóa cho các em về một số nội dung học tập
của bộ môn để các em được củng cố và mở rộng kiến thức một cách trực quan
nhất tạo nên hứng thú học tập và say mê tìm hiểu của các em.
Đối với học sinh:
Trước hết, vì đối tượng là các em học sinh lớp 6, vừa bước vào ngưỡng cửa
của trường THCS nên mọi thứ đều rất lạ lẫm với các em, nhất là đối với việc
tiếp cận các môn học. nên tôi dành thời gian một tiết học đầu tiên( việc này đã
được lên hẳn trong khung phân phối chương trình của nhà trường trình lên
Phòng GD&ĐT Yên Định và được phòng phê duyệt ) để giới thiệu về bộ môn
Ngữ văn, cấu trúc SGK Ngữ văn THCS nói chung và SGK Ngữ văn 6 nói riêng;
hướng dẫn các em soạn bài, cách thức học các bài học cụ thể của từng phân môn
trong bộ môn này; hướng dẫn các em chuẩn bị sách vở và những dụng cụ học
tập cần thiết cho bộ môn. Tuy nhiên, một tiết học 45 phút không thể giúp các em
nhớ hết và nắm bắt ngay, đầy đủ về những nội dung phổ biến trên, vì thế trong

quá trình giảng dạy, tôi luôn nhắc nhở và hướng dẫn thêm để các em dần thành
thạo được các kỹ năng cơ bản này nhằm đáp ứng được nhu cầu môn học.
8


Tiếp đến, tôi thường xuyên kiểm tra sách vở đồ dùng học tập của môn học
ở các em. Có thể kết hợp với Đội để kiểm tra định kỳ hoặc tự mình kiểm tra đột
xuất để có những điều chỉnh nhắc nhở phù hợp và kịp thời đối với các em. Khi
kiểm tra bài cũ đối với các em có thể ghi vắn tắt nhận xét, kí xác nhận và yêu
cầu HS mang về trình cho bố mẹ xem, kí xác nhận bên cạnh để phụ huynh có
thể nắm bắt, cập nhật bịp thời tình hình học tập trên lớp cũng như chuẩn bị bài ở
nhà của con em mình( việc làm này rất cần thiết và có hiệu quả đối với các em
học yếu và lười học). Đối với những phụ huynh ở xa, tôi sẽ liên hệ qua hệ thống
sổ liên lạc điện tử của Nhà trường hoặc liên lạc trực tiếp qua số điện thoại cá
nhân để trao đổi cụ thể về tình hình học tập của các em.
Bản thân tôi lập một sổ theo dõi cá nhân học sinh ở bộ môn ngữ văn mình
phụ trách. Trong sổ, tôi ghi chép, theo dõi từng cá nhân học sinh về thái độ học
tập, nhật kí kiểm tra bài cũ, khả năng tiếp thu, quá trình rèn luyện môn học, để
nắm bắt khả năng học tập bộ môn, sự tiến bộ hay thụt lùi của học sinh để có kế
hoạch uốn nắn điều chỉnh và cũng để kịp thời thông báo với phụ huynh các em
Đi vào cụ thể mỗi bài học, tiết nào cũng vậy, dù bài dài hay ngắn tôi cũng
cố gắng dành khoảng 3-5 phút cuối để hướng dẫn các em học ở nhà và chuẩn bị
bài học cho tiết sau.
Đối với HS lớp chủ nhiệm tôi còn có những cách vận dụng sau: Để giúp các
em có thể đọc trước, nắm bắt được nội dung các tác phẩm truyện, sâu xa hơn
nữa là khơi dậy khả năng, sự yêu thích, đam mê đọc sách ( đặc biệt là những tác
phẩm văn học lớn), tôi có thể cho các em đọc trước trên lớp trong giờ sinh hoạt
15 phút, hoặc giờ sinh hoạt lớp cuối tuần, cho các em thi đua kể lại truyện khi đã
đọc, việc làm này sẽ giúp GV và HS rút ngắn được thời gian đọc văn bản( nhất
là đối với những văn bản truyện dài, những đoạn trích của một văn bản lớn) khi

trực tiếp giảng dạy trong tiết học trên lớp mà không ảnh hưởng đến sự tiếp cận
văn bản của học sinh, lại giúp các em nhớ lâu và có thời gian nhiều hơn để thực
hiện các nội dung khác trong bài học. Tận dụng những giờ sinh hoạt 15 phút để
giải quyết những thắc mắc và hướng dẫn các em một số phương pháp, kĩ năng
học và chuẩn bị bài cho môn văn khi các em cần đến.
Đặc biệt, đối với các em học sinh lớp 6, tâm lí thích được chấm điểm để thi
đua với bạn vẫn còn hết sức rõ rệt, vì thế tôi thường sử dụng phương pháp thi
đua giữa các tổ, nhóm hoặc thi đua cá nhân, chấm điểm khuyến khích để tạo
hứng thú thi đua học tập và tìm hiểu ở các em. Về điểm này các em rất hào hứng
và hết sức tập trung thực hiện.
Chuẩn bị và triển khai thực hiện được những điều như trên, chắc chắn giờ
dạy - học của GV và HS sẽ đạt được kết quả như mong muốn. Đặc biệt GV sẽ
khơi dậy được hứng thú học tập (nhất là học văn bản) cho các em ở mỗi giờ học
môn Ngữ văn. Dần dần củng cố được kĩ năng học văn và những thao tác cơ bản
9


để chuẩn bị tốt cho mỗi bài học văn của mình ở mỗi học sinh lớp 6, từ đó sẽ
nâng cao dần chất lượng mỗi giờ học của bộ môn này.
Với việc rút ra được một số giải pháp cụ thể như trên tôi đã áp dụng vào quá
trình giảng dạy môn Ngữ văn 6 của mình ở năm học 2017-2018 này với đối
tượng thực nghiệm là học sinh hai lớp 6A và 6B, và đã nhận thấy những biến
chuyển rõ rệt trong thái độ học tập của các em đối với môn học. Tôi xin đưa ra
một ví dụ về một tiết dạy cụ thể như sau:
Tiết 73-74, văn bản Bài học đường đời đầu tiên trích trong tác phẩm
“Dế Mèn phiêu lưu kí” của nhà văn Tô Hoài. (Ngữ văn 6, tập 2)
Với tiết học này, tôi xác định: Đây là một tiết dạy học thuộc phân môn Văn,
lại là một, tiết học về một đoạn trích của một văn bản lớn dài, nhiều chương,
đoạn, văn bản học chỉ là một đoạn trích nhỏ của toàn bộ tác phẩm nhưng cũng
khá dài so với học sinh lớp 6 đang còn bỡ ngỡ với cách tiếp cận mới của bậc học

THCS. Vậy làm thế nào để các em có thể lĩnh hội bài học một cách tốt nhất,
hiệu quả nhất.
Trước hết nhằm hỗ trợ các em ở khâu chuẩn bị bài, tôi dặn dò các em và
hướng dẫn cụ thể việc soạn bài trước ở nhà theo các câu hỏi của phần Đọc hiểu văn bản, đọc văn bản ở nhà và tập tóm tắt được đoạn trích văn bản trong
Sách giáo khoa, tìm và đọc tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, khuyến
khích sẽ cho điểm cao nếu phần tìm hiểu tốt.
Về phía bản thân mình, tôi lên kế hoạch cho hs tiếp cận tác phẩm này nói
chung và đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên nói riêng bằng cách: Trước khi
học văn bản này sẽ hướng dẫn các em học ở nhà, sưu tầm tác phẩm “Dế Mèn
phiêu lưu kí” của nhà văn Tô Hoài để đọc thêm; đối với lớp chủ nhiệm, tôi chủ
động cho các em đọc tác phẩm trước khi học ở buổi đọc báo, truyện trong kế
hoạch sinh hoạt 15 phút của Liên Đội ( thường là vào thứ 6 hàng tuần), và dành
một khoảng thời gian nhất định trong buổi sinh hoạt cuối tuần đọc cho các em
nghe, yêu cầu các em tập tóm tắt trước để làm quen với tác phẩm; đối với lớp
không chủ nhiệm, giao nhiệm vụ và đề nghị GVCN lớp đó hỗ trợ giám sát các
em thực hiện trong giờ sinh hoạt 15 phút. Làm được điều này tôi rút ngắn được
thời gian đọc tác phẩm trong giờ học chính thức của văn bản này và dành được
nhiều thời gian hơn cho công việc tập tóm tắt văn bản của các em. Tránh được
tình trạng hôm nay học bài rồi nhưng có những học sinh thậm chí còn chưa đọc
nổi một lần cho văn bản sẽ học (hiện trạng này rất phổ biến trong tình hình học
tập hiện nay của học sinh).
Trong khi học văn bản, sau phần tìm hiểu về tác giả, đến phần tác phẩm tôi
sẽ tổ chức cho các em thi phát biểu nhanh những nội dung cơ bản mà các em tìm
hiểu được về tác phẩm khi chuẩn bị bài ở nhà về xuất xứ văn bản, nhân vật và
các sự việc chính của văn bản , giới thiệu những nét khái quát nhất về tác phẩm
10


“Dế Mèn phiêu lưu kí” (nhân vật chính, chủ đề, các chương và tên các chương
của tác phẩm, ….).Học sinh phát biểu xong, căn cứ vào tình hình có thể cho

điểm để khuyến khích các em. Tiếp đến sang phần đọc và tóm tắt văn bản, tôi sẽ
không cho HS đọc ở phần này (vì đã tổ chức cho các em đọc trước như đã nói ở
trên và sẽ đọc lại những phần cần thiết khi tiến hành phân tích từng phần) trên
lớp mà gợi để các em tóm tắt luôn, Sau tiết học, để tiếp tục củng cố cho học sinh
những hiểu biết về tác phẩm, tôi yêu cầu các em về nhà tìm đọc toàn bộ tác
phẩm, có thể lên thư viện Nhà trường tìm đọc, mua đọc hoặc tôi sẽ mang sách
đến cho các em mượn đọc trong các giờ ra chơi, hoặc kết hợp đọc trong các giờ
sinh hoạt 15 phút hoặc một tiết sinh hoạt cuối tuần) như trên để giúp các em
hiểu đầy đủ và trọn vẹn về bài học.
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với việc giảng dạy của bản thân và đồng
nghiệp ở trường THCS Định Hưng:
Với những kinh nghiệm tích lũy được ở các tiết dạy và trong quá trình áp
dụng các biện pháp này khi dạy các em HS khối 6 trường THCS Định Hưng,
năm học 2017-2018 và hiệu quả tiết dạy - học của thầy và trò được thể hiện như
sau:
Cảm nhận chung trong quá trình dạy học của bài là không khí học tập sôi
nổi, các em HS hết sức tập trung nghiêm túc các em lắng nghe lời cô giảng bài
với đôi mắt rất sáng, tự tin vì mình đã có sự hiểu biết rất cụ thể trước khi đi vào
tiếp cận tác phẩm theo hệ thống bài học trên lớp, không còn những ánh mắt ngơ
ngác vì không hiểu bạn đang nói gì, thầy cô đang nói gì (vì không hề đọc, chuẩn
bị được bài ở nhà nên rất lạ lẫm), chỉ biết nghe ( nhưng chưa chắc đã hiểu bài)
và ghi theo như một cái máy. Không khí thi đua học tập cũng sôi nổi hơn rất
nhiều
Các em HS dần tự tin hơn trong cách thức soạn bài, soạn bài đầy đủ hơn,
đúng theo yêu cầu hơn.Và điều thú vị hơn là sau mỗi bài học ( nhất là những bài
học về văn bản truyện) các em thường hỏi thêm về những thông tin liên quan
đến bài học, hỏi về nội dung tác phẩm, đề nghị GV kể chuyện về các tác phẩm
văn học và chăm chỉ lên thư viện nhà trường để tìm sách đọc hơn. Đã có nhiều
phụ huynh học sinh gọi điện phản hồi, nhờ cô giáo xác minh xem HS xin tiền
mua những quyển sách như thế này , thế kia để học văn có đúng là sách phục vụ

môn học hay không, một số phụ huynh cũng vui mừng thông báo với giáo viên
khi có cơ hội trao đổi, đó là thấy con em mình dạo này ít cầm điện thoại chơi
điện tử hơn, thay vào đó là đọc những quyển sách văn học nổi tiếng. Điều này là
chưa từng thấy ở con em của họ. Mặt khác khi kiểm tra vở ghi, vở soạn bài ở
nhà của HS, GV thấy các em đã có sự tiến bộ rõ rệt trong cả cách ghi bài và soạn
bài trước khi lên lớp: các em đã biết trình bày, ghi bài đầy đủ; soạn bài học theo
11


đúng cách thức mà GV định hướng. Mỗi giờ học của cả thầy và trò trở nên thu
vị hơn, được các em mong chờ hơn.
Một cuộc điều tra, thăm dò ý kiến của các em học sinh hai lớp 6A, 6B,
trường THCS Định Hưng về bộ môn Ngữ văn với nội dung câu hỏi: Em có thích
học môn Ngữ văn hay không? Được tôi đưa ra ở hai thời điểm đầu năm học và
giữa học kỳ II năm học 2017-2018. Câu hỏi thì giống nhau nhưng kết quả thu
được đã có ự thay đổi rõ rệt. Cụ thể là:
Kết quả điều tra đầu Học kỳ I, năm học 2017-2018:
- 20% các em thích học môn Ngữ văn.
- 40% các em thấy bình thường (không thích cũng không ghét).
- 40% các em ghét, không thích học môn Ngữ văn.
Kết quả điều tra giữa học kỳ II, năm học 2017-2018:
- 80% các em thích học môn Ngữ văn.
- 20% các em thấy bình thường (không thích cũng không ghét).
- Không có em nào trả lời không thích hoặc ghét học môn Ngữ văn.
Một số em khi được hỏi : Vì sao đầu năm không thích học bây giờ lại
thích học bộ môn này? Các em cười bẽn lẽn và trả lời, nguyên nhân do các em
chưa quen với cách học mới, chưa biết cách khai thác tìm hểu bài học lại phải
ghi quá nhiều so với khi học bậc Tiểu học nên các em thấy ngại ,chán. Sau khi
được cô hướng dẫn, nắm bắt được cách thức tiếp cận bài học, các em dần quen
và thấy dễ học, đặc biêt, các em thích cách “học thêm, dạy thêm” ( cách gọi của

các em) trong giờ sinh hoạt 15 phút và giờ sinh hoạt cuối tuần của cô.
Rõ ràng sự thay đổi về thái độ ,tình cảm và nhận thức của các em học
sinh đối với môn học đã một phần chứng minh được hiệu quả của những giải
pháp mà tôi nêu ở trên. Mặt khác khi đem ra trao đổi với đồng nghiệp trong các
buổi sinh hoạt chuyên môn, các đồng chí cũng rất tâm đắc và cũng tham gia áp
dụng thực nghiệm vào kế hoạch dạy học của các đồng chí. Điều này khiến bản
thân tôi thực sự rất phấn khởi với những tín hiệu khả quan thu nhận được từ
đồng nghiệp và HS. Nó tạo được niềm tin rất lớn vào bản thân, là động lực để
GV cố gắng hơn nữa trong việc tìm tòi những phương pháp cách thức khai thác
bài hiệu quả nhất cho học sinh.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1.Kết luận:
Đổi mới phương pháp, cách thức dạy học để nâng cao hiệu quả, chất lượng
giờ dạy học là yêu cầu chung cho tất cả các môn học trong trường phổ thông
chứ không riêng gì bộ môn Ngữ văn. Điều cốt yếu ở mỗi GV phụ trách bộ môn
của mình là làm thế nào để đạt hiệu quả nhất vào thực tế giảng dạy của bộ môn
mình phụ trách. Điều này đòi hỏi rất nhiều vào năng lực của người dạy, phải
12


nắm bắt chung và tương đối vững những vấn đề chung về đổi mới giáo dục, đổi
mới phương pháp nói chung, biết vận dụng sáng tạo vào thực tế môn học, cấp
học, vào đối tượng học sinh, cơ sở vật chất nhà trường, địa phương, thậm chí cả
hoàn cảnh của cá nhân bản thân mình. Đối với bộ môn Ngữ văn, nhất là phân
môn văn học, một môn học đồng thời là một môn nghệ thuật, mà đã là nghệ
thuật thì phải có tình yêu , sự tự nguyện tự giác, không có chỗ cho sự ép buộc
khiên cưỡng thì người GV lại càng cần phải khéo léo, linh hoạt sáng tạo hơn
nữa để dẫn dắt các em đi vào những tác phẩm nghệ thuật của những nhà văn
nhà thơ, nâng cao hơn nữa chất lượng từng giờ dạy học, và sâu xa hơn nữa có
thể giúp các em trở thành những nghệ sĩ ngôn từ hay những nhà văn, nhà thơ,

nhà ngôn ngữ trong tương lai.
3.2. Kiến nghị:
Nhằm tăng cường tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tế
giảng dạy và nâng cao hiệu quả ứng dụng hơn nữa trong các giờ dạy học những
văn bản khác trong chương trình Ngữ văn THCS, tôi rất mong muốn :
Nhà trường tham mưu với địa phương để tạo mọi điều kiện hơn nữa về cơ sở
vật chất cho GV và HS, đặc biệt là đầu tư các đầu sách tham khảo cho Thư viện
Nhà trường để các em HS có đủ đầu sách tham khảo khi cần.
Nhà trường cũng tạo mọi điều kiện để các em học sinh được đến đọc sách và
mượn sách tham khảo về nhà đọc để các em bổ sung kiến thức. Hàng năm có thể
tổ chức một vài buổi sinh hoạt ngoại khóa, hay cuộc thi em yêu văn học để
khích lệ tinh thần học tập và lòng ham tìm hiểu về môn học ở các em.
Các đồng chí GV dạy bộ môn Ngữ văn nói riêng và tất cả các đồng chí GV
trong Nhà trường nói chung cùng tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này của tôi ,
có thể ứng dụng vào thực tế, rất mong các đồng chí đưa ra những góp ý chân
thành để bản thân tôi hoàn thiện hơn nữa sáng kiến kinh nghiệm của mình để
việc ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Yên Định, ngày 12 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
mình, không sao chép nội dung của
người khác
Người thực hiện

Phạm Thị Cúc
.


13


Tài liệu tham khảo.
1. SGK Ngữ văn 6, tập 2, Nhà xuất bản GD
2. SGV Ngữ văn 6, tập 2, Nhà xuất bản GD
3.Tài liệu “ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở, Môn
Ngữ văn”, của Bộ GD& ĐT, Nhà xuất bản Giáo dục

14



×