Tải bản đầy đủ (.pdf) (720 trang)

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI. LÊ SỸ MINH TÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.21 MB, 720 trang )

 

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
LÊ SỸ MINH TÙNG
The Explanation of the Saddharmapundarika Sutra
(Lotus Sutra)


MỤC LỤC
Phần Giới Thiệu
Chương Thứ Nhất
Phẩm TỰA
36
Chương Thứ Hai
Phẩm PHƯƠNG TIỆN

72

Chương Thứ Ba
Phẩm THÍ DỤ 112
Chương Thứ Tư
Phẩm TÍN GIẢI 142
Chương Thứ Năm
Phẩm DƯỢC THẢO DỤ

165

Chương Thứ Sáu
Phẩm THỌ KÝ 178
Chương Thứ Bảy
Phẩm HÓA THÀNH DỤ



204

Chương Thứ Tám
Phẩm NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KÝ
Chương Thứ Chín
Phẩm THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ
Chương Thứ Mười

244

256


 

Phẩm PHÁP SƯ

275

Chương Thứ Mười Một
Phẩm HIỆN BỮU THÁP 288
Chương Thứ Mười Hai
Phẩm ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA 305
Chương Thứ Mười Ba
Phẩm TRÌ 334
Chương Thứ Mười Bốn
Phẩm AN LẠC HẠNH 343
Chương Thứ Mười Lăm
Phẩm TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT


362

Chương Thứ Mười Sáu
Phẩm NHƯ LAI THỌ LƯỢNG

375

Chương Thứ Mười Bảy
Phẩm PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

395

Chương Thứ Mười Tám
Phẩm TÙY HỶ CÔNG ĐỨC 406
Chương Thứ Mười Chín
Phẩm PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC 415
Chương Thứ Hai Mươi
Phẩm THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT 456
Chương Thứ Hai Mươi Mốt


Phẩm NHƯ LAI THẦN LỰC

468

Chương Thứ Hai Mươi Hai
Phẩm CHÚC LỤY 479
Chương Thứ Hai Mươi Ba
Phẩm DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ


484

Chương Thứ Hai Mươi Bốn
Phẩm DiỆU ÂM BỒ TÁT 544
Chương Thứ Hai Mươi Lăm
Phẩm QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN

572

Chương Thứ Hai Mươi Sáu
Phẩm ĐÀ-LA-NI
647
Chương Thứ Hai Mươi Bảy
Phẩm DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ
Chương Thứ Hai Mươi Tám
Phẩm PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT
PHẦN TỔNG LUẬN 715
PHẦN PHỤ LỤC 730

659

690


 

Lời Mở Đầu
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu
vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa. Kinh đạt đến địa vị tột cùng của nó là vua

của tất cả các kinh vì kinh ẩn chứa rất nhiều ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra
ngoài tầm tư duy, suy luận của con người bình thường và có công năng đưa
người tu thẳng đến cứu cánh tối thượng là thành Phật. Trong kho tàng kinh
điển Đại thừa, kinh Pháp Hoa được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi vào
khoảng 700 năm sau ngày đức Phật nhập diệt. Nếu dựa theo Hán tạng, kinh
Pháp Hoa có tất cả bảy quyển bao gồm hai mươi tám phẩm và có trên sáu vạn
chữ với nghĩa lý thâm sâu huyền diệu và được diễn tả như là một tác phẩm
nghệ thuật dưới dạng một vỡ kịch kết hợp tư tưởng rất chặt chẻ trải suốt
chiều dài của kinh. Tuy kinh có dài, ý nghĩa sâu xa, nhưng nội dung vẫn
không ra ngoài bảy chữ “Khai, thị, ngộ, nhập Tri Kiến Phật”. Thật vậy, bản
hoài của chư Phật xuất hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ bày khiến cho
chúng sinh mở toang tri kiến Phật của mình và giúp cho họ thanh tịnh hóa tri


kiến Phật đó. Khai có nghĩa là mở ra cho nên “Khai” Phật tri kiến là mở kho
tàng tri kiến của Phật ra. Thị tức là chỉ cho thấy cho nên “Thị” Phật tri kiến
tức là chỉ cho chúng sinh thấy cái kho tri kiến của Phật. Ngộ tức là bừng tỉnh
mà thấy được sự thật (chân lý). Sau cùng Nhập là đi vào, là chứng nghiệm
chớ không phải chỉ đứng bên ngoài mà nhìn vào mà phải chính mình nghiệm
chứng sự thật đó. Do đó câu “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” có
nghĩa là Phật muốn đem cái thấy biết của mình mà chỉ cho tất cả chúng sinh
thấy để họ cũng có thể tỏ ngộ được như Phật.
Kinh Pháp Hoa nói về hoa sen, nhưng hoa sen ở đây phải chăng là hoa
sen nơi chính mình để có thể khai, thị, ngộ, nhập cái hoa sen Phật tánh ấy nơi
mình. Hoa sen sẽ vươn lên và nở rộ cũng như Phật tánh hiển bày cho nên
đạo Phật có mặt trên thế gian này để nhắn nhủ với nhân loại rằng tất cả mọi
người đã có đủ tri kiến Phật, giống y như Phật. Vì thế nếu con người biết sử
dụng tri kiến Phật thích đáng và hữu dụng vào trong cuộc sống để hóa giải
hết vô minh phiền não thì chính họ sẽ trở thành Phật chớ không phải quả vị
Phật là do bất cứ vị Phật nào ban thưởng cho ta được. Trong Phật giáo không

hề có con đường tắt, hay sự chứng đắc là do ai ban cho ta mà phải bằng sự
tinh tấn nỗ lực tu tập nghĩa là con người phải tự mình cất bước bằng chính
đôi chân của chính mình. Có đi sâu vào thiền định, có tư duy quán chiếu, có
gạn lọc ô nhiễm trong tâm thức, có sống trong chánh niệm tỉnh thức để làm
chủ được thân, khẩu, ý thì hoa sen từ búp sẽ dần dần vươn lên khỏi mặt nước
và nở rộ mà tỏa ra hương thơm khắp cùng. Do đó đức Phật là đóa sen đã nở
trước, nở toàn diện mà hiển bày nhụy, gương, cánh, hột một cách viên mãn.
Còn tất cả chúng sinh là những búp sen, tuy chưa nở rộ, vẫn còn nằm dưới
nước, nhưng nếu cố gắng vươn lên thì một ngày nào đó sẽ vượt thoát khỏi
chốn bùn nhơ mà thấy được ánh sáng chân lý nhiệm mầu và nở rộ giữa ánh
nắng bình minh trong lành thanh thoát. Vì thế, đức Phật mới dạy rằng: “Ta là
Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành nếu họ tinh tấn nỗ lực tu hành thì
họ cũng sẽ thành Phật như ta vậy”.
Tuy cấu trúc của kinh Pháp Hoa bao gồm bảy chữ “Khai, thị, ngộ,
nhập Tri Kiến Phật”, nhưng quan trọng nhất vẫn là bốn chữ “Nhập Tri Kiến
Phật”. Đó là phần thâm nhập tức là phần thực hành để hành giả có thể tỏ ngộ


 

và thực chứng được cái Phật tánh nhiệm mầu của mình và đây được xem là
phần quan trọng nhất của Diệu Pháp Liên Hoa kinh, bao gồm sáu phẩm chót.
Đến đây hành giả có thể sống trọn vẹn với trí tuệ Phật hằng sáng thanh tịnh
của chính mình.
Nhưng thế nào là Tri Kiến Phật, chơn tâm hay Phật tánh?
Tri Kiến Phật là bản thể chân như, là vô nhất vật nên không thể dùng
ngôn ngữ văn tự của con người diễn giải được, nhưng ở đây kinh Pháp Hoa
lần đầu tiên trong kho tàng kinh điển Đại thừa đã hé mở bức màn bí mật để
hành giả Pháp Hoa có cái nhìn rõ ràng rốt ráo hơn về ý nghĩa của trí tuệ Phật.
Vì thế mục đích của người thọ trì kinh Pháp Hoa là phải đạt đến cứu cánh tối

thượng đó để mang lại cho mình sự thanh tịnh, an lạc, tự tại, giải thoát và
giác ngộ trong cái cõi đời có tan có hợp này.
Cấu trúc của kinh Pháp Hoa rất rõ ràng mạch lạc, Bồ Tát Văn Thù
tượng trưng cho đại trí tuệ nên xuất hiện ở phẩm đầu để khai thị, chỉ bày
khiến cho chúng sinh tỏ ngộ và sống với tri kiến Phật của mình để chuyển
khổ đắc lạc và liễu sinh thoát tử. Nếu con người không chạy theo vô minh bất
giác làm nô lệ cho vật chất giả tạm mà sống theo chơn tánh hằng sáng thanh
tịnh của mình thì đời này làm gì còn khổ, thế gian này sẽ trở thành cực lạc
thanh tịnh Niết bàn. Con người có trở về với bổn tánh, chơn tâm hay Phật
tánh chỉ khi nào họ đạt được cái trí tuệ này và lúc đó họ sẽ an trú trong sự
thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng và tất cả khái niệm
hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt sẽ biến mất. Sau cùng
Bồ Tát Phổ Hiền xuất hiện ở phần cuối để khuyến khích, yểm trợ cho sự hành
trì kinh Pháp Hoa trong hiện tại và trong tương lai. Đó là “Tri Hành” hợp
nhất vậy. Sự huyền diệu là ở cách thực hành, sự hiểu biết rốt ráo để ứng dụng
nó vào trong cuộc đời mà lìa khổ đắc lạc. Cái lạc tối thiểu là có hạnh phúc
cho chính bản thân và cho gia đình mình và cái lạc tối đa là sống đúng với
“Tri Kiến Phật” để có được Vô thượng Bồ Đề Niết bàn giống như chư Phật
vậy.
Vì vậy muốn có kết quả viên mãn, chúng tôi tha thiết kêu gọi quý Phật
tử đọc và tư duy từng phẩm một nhiều lần cho đến phẩm cuối cùng thì quý vị
sẽ tự mình tỏ ngộ được thâm nghĩa huyền diệu của kinh và sau đó tinh tấn nỗ


lực thực hành để trở về sống với trí tuệ Phật vĩnh hằng ở trong ta nghĩa là
hành giả Pháp Hoa phải Tri Hành hợp nhất thì mới đem lại kết quả lớn lao
cho mình được.
Kinh thì thậm thâm vi diệu còn tri thức của chúng tôi thì nông cạn, thô
thiển cho nên trong bộ kinh giải này sẽ có nhiều chỗ thiếu sót, sai lầm. Kính
mong chư vị Thiện tri thức bổ túc cho. Chân thành cảm tạ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Viết tại Washington
Mùa Phật Đản 2556, năm Nhâm Thìn 2012
Lê Sỹ Minh Tùng

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
LÊ SỸ MINH TÙNG
The Explanation of the Saddharmapundarika Sutra (Lotus Sutra)
PHẦN GIỚI THIỆU


 

Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh vô cùng quan trọng đối với Phật giáo
Đại thừa vì kinh ẩn chứa rất nhiều ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư
duy và suy luận của con người bình thường. Vì thế có rất nhiều luận giải,
trước tác rất công phu và giá trị đã ra đời. Hãy xoay ngược dòng lịch sử thì
sau khi đức Phật nhập diệt, các Trưởng lão giảng giải giáo lý Phật Đà tùy
theo khuynh hướng và sự hiểu biết Phật pháp của họ nên Phật giáo bắt đầu có
sự khác biệt vì lúc bấy giờ chưa có văn tự mà chỉ dùng khẩu thuyết truyền lại
từ đời này sang đến đời khác. Từ đó Phật giáo bắt đầu rạng nứt và phân chia
thành ra Phật giáo bộ phái. Một số Tỳ kheo theo khuynh hướng bảo thủ thì
tuân giữ giáo luật và những lời dạy của Phật rất nghiêm minh. Trong khi đó
cũng có những nhóm Tỳ kheo khác có khuynh hướng biến giáo lý đức Phật
thành ra một nền triết học rất phức tạp vì lúc bấy giờ đạo Bà la môn đang
chuyển từ thời kỳ Vệ Đà sang Áo Nghĩa Thư nghĩa là chuyển từ hệ thống
cúng tế thờ phượng rườm rà phức tạp sang lãnh vực triết học, luận giải.
Nhóm Tỳ kheo thuộc phái bảo thủ quan niệm rằng con đường giải thoát duy
nhất là phải xuất gia và khẳng định rằng cho dù đức Phật có nói gì đi chăng
nữa thì không ai có thể thành đạt mức độ chứng ngộ như đức Phật tức là

thành Phật được. Vì thế mọi người chỉ cần tự giải thoát khỏi những trói buộc
của hư vọng và khổ đau trong cuộc đời này là tốt lắm rồi. Thêm nữa, các Tỳ
kheo thuộc nhóm bảo thủ lại xa lánh cuộc đời, lên tận núi cao rừng thẳm để
tu cầu giải thoát cho riêng mình trong khi đại đa số Phật tử tại gia thì vẫn
chìm trong đau khổ. Vì nhận thấy Phật giáo đang đi lệch và mất hẳn tinh thần
hoạt động tích cực như thời đức Phật còn tại thế, những Tỳ kheo thuộc nhóm
cải cách và tín đồ tại gia đã nô nức dựng lại cái tinh thần “Phật pháp tại thế
gian, không lìa thế gian giác” bằng cách thành lập Phật giáo Đại thừa. Những
ai không thuộc Đại thừa thì gọi là Tiểu thừa và từ đó có sự va chạm rất lớn
giữa Phật giáo mới và Phật giáo củ. Tiểu thừa cho rằng “Phật giáo Đại thừa là
một sai lầm” vì họ diễn giải kinh điển theo đường lối vay mượn tư tưởng của
Ấn Độ giáo nghiêng về triết học trừu tượng siêu hình rất khó hiểu, sai đường
lối của Phật bởi vì đạo Phật là đạo diệt khổ cho nên đức Phật chỉ dạy Tứ
Thánh Đế và Bát Thánh Đạo để giúp chúng sinh thực hành mà có an lạc Niết
bàn. Ngược lại, Đại thừa chê Tiểu thừa là giáo lý chỉ thích hợp cho những


người căn cơ “thấp” và lý tưởng giải thoát A la hán là ích kỷ không phản ảnh
tâm đại từ bi như lý tưởng Bồ Tát.
Kinh Pháp Hoa xuất hiện trong thời điểm và hoàn cảnh đó như là một
nỗ lực để kết hợp Phật giáo trở thành Phật thừa. Những thừa như Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát bây giờ dưới cái nhìn của Pháp Hoa chỉ là phương tiện
lúc ban sơ, nhưng cuối cùng muốn hoàn thành Phật đạo thì tất cả đều phải
quy về nhất thừa Phật đạo. Kinh Pháp Hoa nói lên một triết lý rất thâm sâu và
được diễn bày như là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời dưới dạng của một
vỡ kịch kết hợp tư tưởng rất chặt chẻ trải suốt chiều dài của kinh. Kinh được
viết theo thể loại Vị Tằng Hữu để diễn tả những hiện tượng, cảnh giới siêu
hình, không có thật đối với thế giới con người bình thường nhưng ẩn chứa
một triết lý rất thâm sâu huyền diệu mà có lẽ vượt ra ngoài ngôn ngữ của con
người. Ở đây, giáo lý Nguyên thủy được xem như là những bài tình ca quê

hương mộc mạc với tiếng đàn tranh, đàn bầu nhẹ nhàng thanh thoát. Bây giờ
các triết gia nổi tiếng xuất chúng của Phật giáo Đại thừa đem những bài tình
ca đó hòa âm lại với tiếng đàn Piano, tiếng vĩ cầm, với dàn nhạc thính phòng
vì thế nếu thấu hiểu rốt ráo thì tuy nghe nhạc theo lối Tây phương, nhưng âm
hưởng vẫn thoanh thoát quyện theo nét nhạc quê hương vậy. Người tu dựa
theo tinh thần Pháp Hoa là thành Phật chớ không phải thành A la hán hay Bồ
Tát. Ai cũng có thể thành Phật vì ai cũng đều có sẵn Trí Tuệ Phật giống y
như Phật. Vì thế tư tưởng Pháp Hoa ra đời như là cuộc cách mạng giải phóng
những ràng buộc mà các bộ phái Nguyên thủy đè ép lên con người vì dựa
theo tinh thần Pháp Hoa thì thành Phật không chỉ dành riêng ưu đãi cho thành
phần xuất gia mà bất cứ ai cũng có thể thành Phật. Trong phẩm Đề Bà Đạt Đa
có nàng Long nữ mới vừa tám tuổi con gái của Long Vương đã thành Phật là
một thí dụ cụ thể. Hãy lắng nghe lời Bồ Tát Văn Thù nói với Bồ Tát Trí Tích
rằng “Có con gái của Long Vương mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí-đức, trong
khoảnh khắc pháp Bồ đề tâm là được bất thối chuyển, biện-tài vô-ngại, từ bi
rộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến quả Bồ Đề”. Sự thành Phật
nhanh chóng đó của nàng Long nữ chẳng những làm cho Bồ Tát Trí Tích
sững sờ mà còn làm cho Tôn giả Xá Lợi Phất kinh ngạc.


 

Trước hết khi nói về lịch sử của kinh thì ngày nay hầu hết các học giả
Đông Tây trên thế giới đều đồng ý rằng kinh Pháp Hoa, một bộ kinh quan
trọng nhất của Phật giáo Đại thừa được biên soạn vào khoảng thế kỷ thứ nhất
sau công nguyên và kinh đã trải qua một tiến trình rất dài để đi đến hoàn tất.
Hầu hết các học giả sau khi nghiên cứu kỹ về nội dung của kinh Pháp Hoa
đều có chung một quan điểm rằng kinh này có hai phần là phần nguyên bản
và phần bổ sung.
Theo lập luận của Sir Charles Eliot (Hinduism and Buddhism: An

Historical Sketch (1921)) và học giả Maurice Winternitz (1863-1937) thì
phần thứ nhì của kinh Pháp Hoa đã được thêm vào các phẩm thứ 25 (Bồ Tát
Quán Thế Âm) và 26 (Đà-la-ni). Lý do là vì toàn bộ kinh Pháp Hoa xiễn
dương Tri Kiến Phật tức là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang
tri kiến Phật của họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó.
Đây là tinh thần tự giác, tự độ trong khi phẩm Quán Thế Âm và Đà-la-ni
nghiêng về tha lực nên không dung hòa được với tư tưởng Pháp Hoa.
Trong khi đó, học giả Nhật Bản Hajime Nakamura (1912-1999) xác
định rằng bản kinh Pháp Hoa mà được sang dịch ra nhiều thứ tiếng hiện nay
là được tạo ra trong khoảng thời gian cuối của thế kỷ thứ nhất sau công
nguyên và bản gốc bao gồm 27 phẩm rõ ràng đã xuất hiện vào năm 150 sau
công nguyên. Xa hơn nữa, học giả Nakamura còn nói thêm rằng 22 phẩm đầu
của kinh Pháp Hoa đã có trước năm 100 sau công nguyên. Bằng những chứng
cớ sử liệu đó đã minh họa toàn bộ bức tranh về nền tảng lịch sử của kinh diệu
Pháp Liên Hoa khiến các học giả đưa đến kết luận rằng kinh Pháp Hoa
không phải do chính đức Phật thuyết mà thật ra kinh được biên soạn rất trễ
về sau khoảng 700 năm sau ngày đức Phật nhập diệt.
Dựa trên cơ sở nào mà các học giả lý luận như thế?
1)Lý luận thứ nhất là họ cho rằng các triết gia, luận sư xuất chúng của
Phật giáo lúc bấy giờ đã sáng tạo ra kinh Pháp Hoa để đáp ứng nhu cầu đòi
hỏi của giới tín đồ nhằm duy trì sức sống của Phật giáo trong khi phải đương
đầu với sự đàn áp của các tôn giáo hữu thần, đặc biệt là đạo Bà la môn tức là
Hindu (Ấn độ giáo) ngày nay trong khoảng cuối thế kỷ thứ hai sau dương
lịch. Với những danh tự mới, bối cảnh mới và lối giải thích mới, kinh Diệu


Pháp Liên Hoa đã thổi một luồng sinh khí tươi mát và sống động vào trong
thế giới Phật giáo lúc bấy giờ. Tuy vậy, nội dung của kinh được mô phỏng và
phát triển không ngoài những tư tưởng và lời dạy của đức Phật. Do đó giới
biên tác ẩn danh không dám đề tên của họ như là tác giả của kinh mà cho đó

là do Phật nói ở núi Linh Thứu.
2)Đứng về phương diện tâm lý, tuy các triết gia thời đó có lỗi lạc đến
đâu thì vẫn không chánh danh bằng đức Phật, người đã khai sáng ra đạo Phật.
Do đó tuy kinh Pháp Hoa được biên soạn bởi những triết gia, luận sư nổi
tiếng nhất của Phật giáo lúc bấy giờ, nhưng họ vẫn nói kinh này là do Phật
thuyết nếu không thì kinh thuộc về ngoại đạo rồi. Vì thế khi kinh xuất hiện đã
được đại chúng đón chào nồng nhiệt, kính trọng và tin tưởng. Kết quả, kinh
Pháp Hoa đã được Phật giáo đồ khắp mọi nơi, mọi thời gian tôn sùng và tu
tập triệt để.
Có rất nhiều dự kiện chứng minh rằng các bản dịch kinh Pháp Hoa từ
Phạn ngữ sang tiếng Hán được thực hiện rất sớm trong những năm 234-235
sau dương lịch, nhưng những dịch phẩm ấy đã mất tích, không còn hiện hữu.
Dựa theo bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục (K’ai-yuan-shih-chao-lu) do ngài
Trí Thăng (Chih-sheng) biên soạn năm 730 sau dương lịch có ghi chép khá
chi tiết là có tất cả sáu bản dịch toàn vẹn của kinh Pháp Hoa từ tiếng Phạn
(Sanskrit) sang tiếng Hán mà hiện tại ba bản vẫn còn lưu hành. Đó là:
1)Chánh Pháp Hoa Kinh (Cheng-fa-hua-ching) do ngài Trúc Pháp Hộ
(Dharmaraksa) dịch vào năm 286 sau dương lịch gồm 7 hoặc 10 tập với 27
phẩm.
2)Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (Mio-fa-lien-hua-ching) do ngài Cưu Ma
La Thập (Kumàràjìva) dịch vào thời Diêu Tần năm 383 hoặc 406 sau dương
lịch gồm có 7 tập và 27 phẩm, hoặc 8 tập và 27 phẩm vì không có phẩm ĐềBà-Đạt-Đa.
3)Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (T’ien-pen-miao-lien-huaching) do ngài Xà La Quật Đa (Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa
(Dharmagupta) dịch vào năm 601 sau dương lịch, gồm có 7 tập và 27 phẩm.
Trong phần lời tựa của bản dịch Anh ngữ “Scripture of The Lotus
Bolssom of The Fine Dharma” của học giả Leon Hurvitz có đề cập đến nhiều


 


thời điểm mà kinh Diệu Pháp Liên Hoa được dịch sang tiếng Hán. Đó là các
năm 255, 286, 290, 335, 406 và 601 sau công nguyên. Nhưng trong sáu bản
dịch đó thì chỉ còn có ba bản tồn tại là Chánh Pháp Hoa Kinh (286 AD), Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh 406 AD) và Thiên Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (601
AD).
Tuy ba bản dịch ở trên rất khả tín, nhưng kinh Pháp Hoa bằng Phạn
ngữ chỉ có 27 phẩm mà sau đó bản dịch sang tiếng Hán lại có đến 28 phẩm.
Các học giả cho rằng bắt đầu từ phẩm thứ 23 trở về sau, có những phẩm mới
đã được người đời sau thêm vào. Thí dụ Đề-Bà-Đạt-Đa là người phạm giới,
phá hoại tăng đoàn, làm Phật chảy máu, xuối vua A Xà Thế giết cha hại mẹ
vì thế theo nguyên tắc ông phải bị đọa. Nhưng dựa theo tinh thần Pháp Hoa
thì ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa
là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật.
Vì thế phẩm thứ 12 này mới được thêm vào mà trong đó Đề-Bà-Đạt-Đa được
Phật thọ ký và về sau cũng sẽ thành Phật.
Để giải thích sự khác biệt, thêm bớt trong Hán kinh, sư Đạo Tuệ viết
trong quyển Tòng Đa Lục rằng có vị sư tên là Thích Pháp Hiển của chùa
Thượng Định Lâm tìm thấy được bản kinh Pháp Hoa bằng tiếng Phạn có
phẩm này. Sau đó, sư Pháp Ý ở chùa Ngõa Quan dịch phẩm này ra tiếng Hán,
nhưng mãi đến khi sư Trúc Pháp Hộ ở Đôn Hoàng, dịch kinh Chính Pháp
Hoa vào đời Vũ Đế triều Tấn thì mới đặt phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa vào sau phẩm
Kiến Bảo Tháp.
Khai Nguyên Thích Giáo Lục là Mục Lục gồm có 20 quyển do ngài Trí
Thăng biên soạn vào năm 730 đời Tống. Đây là loại sách chuyên liệt kê tên,
số quyển và niên đại phiên dịch của tác phẩm kinh điển Phật giáo. Toàn bộ
Mục lục được chia làm hai phần:
1)Tổng quát Quần Kinh Lục: từ quyển 1 đến quyển 10, tương đương
với Đại Lục. Phần nầy theo thứ tự thời gian phiên dịch để nêu lên 176 tên
người dịch cho 2278 bộ kinh, luật, luận từ Tiểu thừa đến Đại thừa. Tổng cộng
7046 quyển trong thời gian 664 năm từ năm 67 đời Đông Hán đến năm 730

đời Đường. Trong đó, những tư liệu liên quan đến những bộ kinh điển đã
được sưu tập rất đầy đủ nói về số lượng quyển, tên người dịch, nơi phiên dịch


và những người có quan hệ đến việc phiên dịch của những bộ kinh đó. Đặc
biệt còn phân biệt các kinh có bản dịch và mất bản dịch, dịch một lần hay
dịch nhiều lần.
2)Biệt phần Thừa Tạng Lục: từ quyển 10 đến 20, phần này phỏng
theo cách phân loại mục lục của Pháp Kinh Lục. Trong phần này có Hữu dịch
hữu bản lục (có tên người dịch, có bản dịch), Hữu dịch vô bản lục (có tên
người dịch, nhưng không có bản dịch) cho đến Nhập Tạng Mục Lục.
Trong phần Nhập Tạng Mục Lục của 1076 bộ kinh điển được dịch từ
nguyên bản tiếng Phạn sang chữ Hán gồm 5048 quyển. Trong đó, kinh Đại
thừa được chia làm 5 bộ lớn là Bát Nhã, Bảo Tích, Đại Tập, Hoa Nghiêm và
Niết Bàn. Trong số 1076 bộ kinh đó có đến 392 là kinh giả và 14 kinh khác
có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Như thế số kinh giả và không đáng tin cậy đã
chiếm đến một phần ba. Nếu con số nêu trên là đúng thì kinh điển Đại thừa
thật sự có vấn đề.
Ngoài ra, để phòng ngừa sự nhầm lẫn, ngài Trí Thăng còn dùng Thiên
tự văn để ghi số hiệu mục lục được nhập Tạng của sách này và soạn thành
Khai Nguyên Thích Giáo Lục Lược Xuất gồm 4 quyển. Từ đời Bắc Tống về
sau, bộ Lược Xuất này được làm chỗ y cứ cho việc in khắc số hiệu của Đại
Tạng Kinh.
Trong ba bản dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì bản dịch của ngài Cưu
Ma La Thập là phổ thông nhất tại các quốc gia ở Á Châu như Trung Hoa, Đại
Hàn, Nhật Bản và ngay cả ở Việt Nam. Các học giả Đông Tây ngày nay đều
cho rằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa có lẽ đã trải qua một tiến trình tương đối
hơi dài để đi đến hoàn tất mỹ mãn. Vì tầm quan trọng cũng như giá trị của
kinh khiến cho kinh được tôn xưng như là vua của tất cả các kinh trong khu
vườn kinh điển Đại thừa, nhưng chính nó cũng phản ảnh một ngộ nhận căn

bản là coi thường các kinh khác.
Tinh thần Pháp Hoa ở đây là nhân duyên vốn từ chúng sinh mà đến bởi
vì nếu không có chúng sinh thì không có Phật, mà không có Phật thì cũng
không có giáo pháp. Vì thế Phật có thuyết pháp cũng vì chúng sinh và nhân
duyên là để khiến cho chúng sinh được liễu sinh thoát tử. Do đó trong kinh
Pháp Hoa dạy rằng: ”Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế”


 

nghĩa là Phật là một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự mà Phật
muốn nói ở đây là gì? Phải chăng đó là sự sinh tử của mỗi chúng sinh. Chính
trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa xác định rằng “Chư Phật chỉ do
một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. Đó là muốn cho chúng sinh
“khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ
bày, làm tỏ ngộ và thâm nhập cái thấy biết của Phật và cũng chính là cái
thấy biết của Pháp Hoa vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó là
trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, là trí tuệ bổn
lai đều giống như Phật. Vậy Phật tri kiến mà đức Phật muốn nói ở đây chính
là chơn tâm, là Phật tánh thường có vĩnh hằng, nhưng vì bị vô minh che lấp
nên con người không thấy biết chơn tánh hằng giác của mình. Cái bổn tánh
này ví như mỏ vàng đang đợi khai phá, chưa được hiển lộ. Vì thế đức Phật
muốn chúng sinh khai mở tri kiến Phật của mình để có sự thanh tịnh, an lạc
ngay trong cõi đời có tan có hợp này cũng giống y như Phật vậy. Cũng ví như
vàng ròng còn trộn lẩn với đất cát sỏi đá, Phật tánh và phiền não cũng vậy.
Phiền não còn, Phật tánh biến mất cho nên nếu chúng sinh hóa giải được một
phần phiền não thì có được một phần Bồ-đề. Mà có Bồ-đề là có giác ngộ.
Dựa theo tinh thần Pháp Hoa, nhân duyên lớn nhất để đức Phật xuất hiện trên
thế gian này là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật
của họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó. Thế thì cái tri

kiến Phật mà kinh nói ở đây chính là trí tuệ tức là cái biết như thật về tánh Vô
Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp. Con người có trở về với bổn tánh, chơn
tâm hay Phật tánh chỉ khi nào họ đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó họ sẽ an
trú trong sự thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng và tất
cả khái niệm hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt sẽ biến
mất. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa còn được biết đến như là kinh Trí Tuệ.
Trong lịch sử kinh điển Phật giáo Đại thừa, kinh Bát Nhã xuất hiện
trước nhất, rồi mới tới kinh Bảo Tích, kinh Hoa Nghiêm, kinh Duy Ma
Cật…và sau cùng kinh Pháp Hoa. Kinh Duy Ma Cật có rất nhiều tư tưởng rất
uyên thâm, ngoài tư tưởng Bất Nhị, lý tưởng bất khả tư nghì được diễn bày
rất khéo léo và thiện xảo hòa nhịp cùng với tư tưởng Bát Nhã khiến cho kinh
có một chỗ đứng rất vững chắc trong kho tàng kinh điển Đại thừa.


HOA SEN TRONG ĐẠO PHẬT
Đức Phật sinh ra trong cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng
những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống
của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ là hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác
động không kém gì những nhát đao, những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm
của con người. Cái đau đớn trong tâm hồn nhất thiết không thương sót một ai.
Người giàu sang phú quý cưu mang nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo khó
cũng phải gánh chịu những nỗi bất hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông
hoàng bà chúa có những nỗi khổ niềm đau theo lối vua chúa, ngược lại kẻ
bần cùng cũng có cái đau cái đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại
phải khổ?
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Phật dạy rằng:
-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và
dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Con người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy biết đúng và từ

đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Ta” và
những cái gì gọi là “Cái Của Ta”. Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một
ngôi nhà, bằng gỗ, bằng gạch hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng đức Phật dạy
rằng loại nhà ấy không phải thật sự là “Cái Của Ta
mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là một
hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi nhà thật
sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức. Một cái nhà vật chất ở
ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó chính là nguyên nhân
tạo đến lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn tự lo nọ đến áy náy buồn phiền
kia. Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân nên sớm muộn gì rồi ta cũng phải
bỏ lại cho nên càng bám víu vào nó thì càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau
thêm. Nó không phải là nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì
nó không thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Do đó ái dục làm
động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành động tạo nghiệp bất thiện bằng


 

chính thân, khẩu hay ý của ta. Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng
của vô minh, sai khiến con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào đời sống
và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người lặn hụp triền miên trôi
nổi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Do đó có sống là có khổ.
Nhà sản xuất điện ảnh nổi tiếng nhất ở Hollywood Aaron Spelling khi
còn sống đã xây một căn biệt thự lớn nhất vùng Los Angeles có trên năm
mươi mấy phòng ngủ, rộng trên 56 ngàn bộ vuông và được thiết kế, trang trí
bằng những thứ đắc tiền, quý hiếm nhất trên thế giới. Sau khi ông Spelling
qua đời năm 2006, bà quả phụ Candice không thể một mình quản trị được tòa
biệt thự quá lớn đó mặc dầu chính bà đã tự tay phát họa chi tiết để vẽ tòa biệt
thự này từng phòng một. Đến năm 2008 bà quyết định bán lại với giá 150
triệu đô la. Có lẽ đây là căn nhà đắc tiền nhất trong lịch sử địa ốc ở Hoa Kỳ

trong thời cận đại. Trước khi đóng cửa giao chìa khóa nhà lại cho chủ mới, bà
thốt rằng “Cái đau đớn nhất của tôi là khi bước những bước sau cùng trước
khi ra khỏi căn nhà mà nó đã gắn liền với biết bao kỷ niệm đầm ấm êm đềm
khiến tim tôi se thắt và mặc dầu cố gắng tôi vẫn không cầm được nước mắt”.
Thế thì có thật nhiều tiền, có nhà đắc tiền nhất thế giới thì sự ràng buộc càng
to lớn không dễ gì buông xuống. Tệ hại hơn nữa là từ đây tuy sống trong
những căn nhà sang trọng khác, nhưng trong lòng bà sẽ không bao giờ có
được những cái hạnh phúc mà bà đã có vì bà tùy thuộc quá nhiều vào những
thứ vật chất nầy. Chưa đủ, sau cái chết của ông Spelling, cũng vì tranh chấp
tài sản, bà và người con gái duy nhất là Tori không còn nói chuyện với nhau.
Có phải ái dục, tiền tài, danh vọng giết chết đạo đức là sức sống thanh cao
của con người?
Nói chung khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho
con người khó chịu. Hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn
tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không
có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Những điều mà chúng sinh mong
muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà con người khao khát mong
mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như
ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.


Vào thời đức Phật, một hôm các Tỳ kheo thấy những tội nhân bị trói
bằng dây thừng, dây gai, xích lại và trông họ đang chịu đau khổ vô cùng mà
không cách nào phá vở gông cùm để thoát thân được nên các Tỳ kheo đem
chuyện ấy bạch với Phật. Nghe thế đức Phật dạy rằng:
-Này chư Tỳ kheo! Các dây trói buộc ấy thật không chặt chẽ đâu, nếu
so sánh với những trói buộc của đam mê xấu xa đê tiện, trói buộc của ái dục,
trói buộc của lòng luyến ái, bám níu vào tài sản, sự nghiệp, con cái, vợ
chồng. Ðó là trói buộc cả trăm lần, hơn nữa, cả ngàn lần chặt chẽ và vững
chắc hơn các loại dây mà các ông thấy. Tuy nhiên, dầu các trói buộc ấy có

chặt chẽ đến đâu, bậc thiện tri thức vẫn phá vỡ được."
-Dây làm bằng sắt, gỗ hay gai, ràng buộc không bền chặt. Bậc thiện tri
thức nên biết như thế. Ngược lại, dây luyến ái bám níu vào kim cương, đồ
trang trí vợ, con, là trói buộc bền chặt hơn nhiều.
-Trói buộc ấy thật bền chặt, bậc thiện tri thức nên biết như vậy. Nó kéo
trì xuống, mềm mỏng dịu dàng, nhưng rất khó tháo gỡ. Chính dây ấy, nguời
thiện tri thức cũng cắt lìa và từ bỏ thế gian, không luyến ái và từ khước mọi
dục lạc. (Kinh Pháp Cú, câu 345 và 346)
Bởi sự vô thường giả tạm đó, đức Phật dạy rằng:
"Aniccà
vata
sankhàrà
Uppàdavayadhammino
Uppajjitvà nirujjhanti - Tesam vupasamo sukho."
Nghĩa là: “Các pháp hữu vi (sankhàrà, các vật được cấu tạo) là vô
thường, có sanh rồi hoại, đã có sanh tức có hoại diệt - ngưng nó được là
hạnh phúc."
Vì nhận thức như thế Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc cốt là để đi tìm
chân lý cứu khổ, một con đường giải thoát trước tiên là cho chính Ngài chớ
không phải mang một tâm tư hoài bảo vĩ đại muốn cứu rỗi cho tất cả mọi
chúng sinh. Ngài đã ra đi, bỏ lại tất cả, viễn ly mọi ràng buộc thế tình, trở
thành một nhà tu khổ hạnh và phải tranh đấu với những hoàn cảnh khắc
nghiệt để mong tìm thấy được ánh sánh chân lý. Sau 49 ngày đêm thiền định
dưới cội Bồ-đề, Ngài đã tìm ra con đường giải thoát, có được thanh tịnh Niết
bàn và giác ngộ viên mãn. Ban đầu Ngài có khuynh hướng giữ im lặng,
không muốn đem giáo pháp Ngài vừa thực chứng dưới cội Bồ-đề giảng giải


 


lại cho thế gian: “Nếu Ta đem con đường Đạo Pháp ra để thuyết giảng mà
chẳng có ai hiểu được thì [việc ấy] chỉ mang lại thất vọng và nhọc nhằn cho
Ta..." (Trung A Hàm). Thật vậy, "những ai chỉ biết tìm lạc thú trong dục
vọng, nấp mình sau tấm màn của u mê thì sẽ không thể nào quán thấy được
Sự thực" (Trung A Hàm).
Có lẽ lúc đó Ngài muốn theo đuổi con đường của một vị Độc giác Phật.
Sau khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ rằng: “Xin Vị Thầy Tối thượng chớ
nên phiền muộn, hãy nhìn vào chúng sinh đang phải gánh chịu đau buồn và
khổ ải [vì vướng mắc] trong sự hình thành và già nua. Hỡi Vị Tối thắng
trong cuộc chiến, hãy đứng lên! Hỡi Vị Thầy Tối thượng, hãy hy sinh tất cả
để bước vào cái thế giới này. Cứ đem Giáo lý ra thuyết giảng, rồi đây cũng
sẽ có người hiểu được" (Trung A Hàm), thì đức Phật mới nhận lời sẽ truyền
dạy lại những gì Ngài thật chứng cho chúng sinh để cùng có giải thoát Niết
bàn và đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát ra khỏi biển sinh tử trầm luân.
Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở
những trói buộc để thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ của cuộc đời. Đức
Phật khai thị cho chúng sinh biết đời là bể khổ, nhưng không vì thế mà con
người nhìn đời bằng thái độ yếm thế bi quan tiêu cực. Cũng ví như ra chiến
trận, nếu không biết địch là ai và ở đâu thì làm sao tiêu diệt chúng được. Phật
dạy Khổ Đế để chúng sinh biết đời là bể trầm luân và Tập Đế là những
nguyên nhân, cội nguồn phát sinh ra những nỗi khổ này. Nhưng đức Phật
cũng từ trong cái khổ mà tìm ra chân lý. Cứu cánh của giáo lý Phật Đà là đức
Phật dạy chúng sinh diệt khổ để có an lạc, hạnh phúc ngay trong cái thế giới
có sinh có diệt này chớ đức Phật không bao giờ dạy con người trốn khổ
nghĩa là cầu nguyện chạy sang một thế giới nào đó để có an lạc mà tự mình
không lo hóa giải hết những thứ ô trược đó ở thế giới Ta Bà.
Đức Phật dạy rằng:
- Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là khổ đau (dukka):
Sinh là khổ đau, già là khổ đau, bệnh tật là khổ đau, chết là khổ đau, phải kết
hợp với những gì mình không thích là khổ đau, phải xa lìa những gì mình yêu

quý là khổ đau,không đạt được những gì mình thèm muốn là khổ đau. Tóm
lại, năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) của sự bám víu là khổ đau.


-Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là nguyên nhân của
khổ đau : Đấy là sự ''thèm khát" mang lại sự tái-hiện-hữu và sự tái-hìnhthành, sự thèm khát ấy phát sinh từ sự ham muốn quá độ và sự thèm khát thì
sẽ luôn chạy theo những thụ hưởng mới, lúc thì nơi này lúc thì nơi khác, đấy
là sự thèm khát các lạc thú của giác cảm, đấy là sự thèm khát [được] hiện
hữu và hình thành, đấy là sự thèm khát không [muốn được] hình thành (trái
với sự mong muốn của mình).
-Này các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là chấm dứt khổ
đau : Đấy là sự chấm dứt hoàn toàn của sự "thèm khát", dứt bỏ được nó, từ
bỏ được nó, tự giải thoát ra khỏi nó, cởi bỏ được nó.
-Này các tỳ kheo, đây là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ
đau : Đấy là Con Đường Cao quý của Tám sự Đúng đắn, đấy là : quán thấy
đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống
đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng và tập trung [tâm thức] đúng.
Thế thì ngay trên cái khổ đó mà con người làm chủ được nó thì gọi là
diệt khổ. Nếu chúng sinh không có khả năng diệt khổ thì cái khổ sẽ theo họ
như bóng theo hình cho nên bất cứ họ ở đâu cho dù là cõi cực lạc thì họ vẫn
phải sống trong cảnh khổ như thường. Vì vậy khi tâm thanh tịnh, không còn
phiền não quấy phá thì nơi ấy chính là cõi Phật thanh tịnh. Đó là “Tâm tịnh
thì thế giới tịnh và Tâm an thì thế giới an bình” cho nên kinh Duy Ma Cật có
câu “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh. Dục tịnh Phật độ tiên tịnh kỳ tâm”.
Đức Phật dạy con người phát triển trí tuệ và sống đúng với Chánh pháp và
thuận với Chân lý là “Tuệ Tri” chớ Ngài không dạy chúng sinh sống trong ảo
tưởng, hướng về những cảnh giới không bao giờ có trong càn khôn vũ trụ tức
là “Tưởng Tri”.
Khi ấy đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát khắp cùng xem có ai có thể
lãnh hội được Giáo Pháp của Ngài chăng. Trong Bộ Trung A Hàm (Majjhima

Nikãya), có bài kinh Ariyapariyesana nói về hoa sen như sau:
-Như trong đầm có những loại sen trắng, sen hồng, sen xanh lẫn lộn.
Có những ngó sen chớm nở khỏi bùn, mọc lên trong nước, có những cây khác
vừa lém đém ngang mặt nước và cũng có những búp sen đã vượt hẳn lên cao,
không còn vướng chút bùn nhơ nước đục. Chúng sanh trong thế gian cũng


 

dường thế ấy dưới tầm mắt của bậc Chánh Biến Tri. Như Lai nhìn thấy
chúng sanh đủ hạng, hạng đầy bợn nhơ và hạng tương đối trong sạch, hạng
thông minh sáng suốt và hạng tối tăm mờ mịt, hạng tốt hạng xấu, hạng thiện
tri thức và hạng cuồng si. Như Lai cũng thấy hạng chúng sanh đang gieo
mầm xấu xa và hạng chúng sanh đang gặt quả dữ của nhân đã gieo từ những
kiếp quá khứ.
Để giải thích rõ ràng hơn, trong Bộ Tăng Nhất A Hàm (Angutttara
Nikãya) có ghi rõ có bốn hạng người trong số những người có duyên dành
được gặp Phật Pháp ví cũng như bốn loại sen ở trên:
1)Ugghãtitannu: sau khi có duyên lành gặp được đức Phật và chỉ nghe
qua một vài lời dạy vắn tắt, ngắn gọn và rành mạch của Ngài thì người này
tức thì khai tâm mở tánh và có đủ khả năng thành Đạo và Quả ngay. Có thể
nói đó là những búp sen trong trắng chỉ chờ tia nắng đầu tiên của buổi ban
mai để nở tung ra một cách huy hoàng rực rỡ. Hoa sen tuy từ bùn nhơ nước
đục ngoi lên, nhưng không vì thế mà khiến cho hoa sen phải nhạt sắc hương
thanh thoát của nó.
2)Vipancitannu: Khác với hạng thượng căn thượng trí ở trên, loại
người thứ hai này cần phải được nghe giải thích tường tận và cặn kẽ thì họ
mới chứng được đạo quả Bồ-đề.
3)Neyya: Hạng thứ ba này không thể thành đạo mặc dù được giảng giải
Giáo Pháp tường tận và tỉ mỉ, nhưng họ đòi hỏi phải chăm chú nghiên cứu,

siêng năng học hỏi và tinh tấn thực hành Giáo Pháp trong nhiều ngày, nhiều
tháng, nhiều năm mới tìm thấy được ánh sáng chân lý nhiệm mầu. Thời gian
dài hay ngắn tùy thuộc vào khả năng phá màn vô minh và tận diệt những tầng
ô nhiễm trong tâm thức.
4)Padaparama: tuy đã có duyên lành gặp Phật Pháp và nỗ lực học hỏi
và thực hành Giáo Pháp, nhưng sau cùng vị này không thể nào thành đạt
Thánh Đạo và Thánh Quả trong kiếp sống hiện tiền được. Do đó tất cả những
công phu tạo dựng là để vun bồi cho mình một đức tánh cao thượng và dĩ
nhiên kết tạo những chủng tử Phật Pháp hữu dụng sẵn sàng chuyển đến cho
những đời kế tiếp. Đây là những búp sen chưa sẵn sàng để nở trong ngày mai
khi mặt trời lố dạng. Họ là những ngó sen còn dưới sâu trong bùn non của


vòng luân hồi, chưa lên khỏi mặt nước. Cho dù đóa sen còn nằm trong bùn,
sắp vọt ra khỏi bùn, vươn lên khỏi mặt nước hay đã nở rộ thì tất cả đều mang
theo bên trong mình một tiềm năng để trở thành những đóa sen tươi đẹp, màu
sắc rực rỡ và hương thắm dịu dàng.
Thêm nữa, hoa sen là một loại hoa có thể được gọi là “nhân quả đồng
thời”. Bởi vì ngay trong búp sen đã có sẵn gương, hột và cánh nhụy rồi. Một
đặc tính cao thượng của hoa sen là tuy mọc từ sình lầy tanh hôi, vẫn vươn lên
mà không hề bị bùn lầy nước đục làm oen ố sắc hương. Tại sao đạo Phật lại
dùng hoa sen làm biểu tượng cho nhân quả đồng thời? Đó là tuy mang thân
phàm phu ngũ uẩn, nhưng trong tất cả mọi chúng sinh đều cùng có tri kiến
Phật giống y như Phật. Nói cách khác Phật tánh của Phật và chúng sinh bình
đẳng không sai khác ví cũng như hoa sen tuy còn búp mà vẫn có cánh sen,
gương sen, hột sen, nhụy sen giống y như hoa sen đã nở rộ. Kinh điển Đại
thừa hướng dẫn người tu đi từ nhân đến quả, từ các ba-la-mật trải qua nhiều
đời mới thành Phật quả, thì lối tu này gọi là Thừa Nhân. Trong khi đó, tu
Pháp Hoa là tu trên Quả chớ không phải tu từ Nhân để đi đến Quả nghĩa là
hành giả triển khai sự tu hành ngay trên Quả của Phật đã thành vì thế kinh

mới được tôn vinh là “vua của các kinh”. Quả mà kinh Pháp Hoa diễn bày ở
đây chính là Phật tánh vốn có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh.
Chủ điểm của kinh Pháp Hoa là xác định rằng trong tất cả mọi chúng
sinh, ai ai cũng đều có tri kiến Phật, trí tuệ Phật, Phật tánh bình đẳng như
nhau, giống y như Phật. Vì thế nếu con người biết sử dụng tri kiến Phật thích
đáng và hữu dụng vào trong cuộc sống để hóa giải hết vô minh phiền não thì
chính họ sẽ trở thành Phật chớ không phải quả vị Phật là do bất cứ vị Phật
nào ban thưởng cho mình được. Trong Phật giáo không có con đường tắt, hay
sự chứng đắc là do ai ban cho mình mà phải bằng sự tinh tấn nỗ lực tu tập của
chính mình. Có đi vào thiền định, có tư duy quán chiếu, có gạn lọc ô nhiễm
trong tâm thức, có kiểm soát được thân khẩu ý thì hoa sen từ búp sẽ dần dần
vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ mà tỏa ra hương thơm khắp cùng. Do đó
đức Phật là đóa sen đã nở trước, nở toàn diện mà hiển bày nhụy, gương, cánh,
hột một cách viên mãn. Còn tất cả chúng sinh là những búp sen, tuy chưa nở
rộ, vẫn còn nằm dưới nước, nhưng nếu cố gắng vươn lên thì một ngày nào đó


 

sẽ vượt thoát khỏi chốn bùn nhơ mà thấy được ánh sáng chân lý nhiệm mầu
và nở rộ giữa ánh nắng bình minh trong lành thanh thoát.
Hoa sen tuy từ bùn nhơ nước đục ngoi lên, nhưng không vì thế mà
khiến cho hoa sen phải nhạt sắc hương thanh thoát của nó cũng như chúng
sinh tuy sống trong thế giới dẫy đầy ô nhiễm, nhưng nếu biết vươn lên thì
cũng vượt thoát ra khỏi cảnh bùn lầy tanh hôi tăm tối mà nở hoa tươi thắm,
sống trong thanh tịnh an lạc Niết bàn. Hoa sen nói lên đặc tính là sự vật luôn
luôn diễn biến và tồn tại vĩnh cữu chớ không có có cái gì mất cả. Cũng như
hoa sen khi tàn thì còn lại gương sen. Và khi gương sen khô, hột sen rơi
xuống bùn rồi mọc ra bông sen khác. Cứ như thế mà sinh sinh diệt diệt, luân
hồi mãi mãi trong thế gian.

Kinh Pháp Hoa nói về hoa sen, nhưng hoa sen ở đây phải chăng là hoa
sen nơi chính mình để có thể khai, thị, ngộ, nhập cái hoa sen Phật tánh ấy nơi
mình. Hoa sen sẽ vươn lên và nở rộ cũng như Phật tánh hiển bày cho nên
đạo Phật có mặt trên thế gian này để nhắn nhủ với nhân loại rằng tất cả mọi
người đã có đủ tri kiến Phật, giống y như Phật. Phải chăng tinh thần khách
quan bình đẳng tôn trọng giá trị nhân bản chỉ có duy nhất trong Phật giáo?
NHẤT THỪA PHẬT ĐẠO
Nguyên nhân Phật nói kinh Pháp Hoa là Ngài muốn khai thị cho mọi
chúng sinh rằng ai ai cũng đều có tri kiến Phật giống y như Phật. Và sau đó
Phật muốn quy tất cả các thừa trở thành Nhất thừa Phật đạo. Nhất thừa Phật
muốn nói ở đây là đồng nhất Thanh Văn thừa (xe dê), Duyên Giác thừa (xe
hưu) và Đại thừa (xe trâu) trở thành Phật thừa (cỗ xe trâu trắng lớn). Nhất
thừa không có nghĩa là giai đoạn cuối cùng của con đường Phật đạo sau khi
hành giả đã trải qua ba thừa trước mà nhất thừa là một con đường duy nhất để
thành Phật. Do đó tôn chỉ của Pháp Hoa là tu để thành Phật, cứu cánh tối
thượng là Phật quả, là Bảo sở chớ không không có con đường nào khác. Vì
vậy nhất thừa Phật nghĩa là một là tất cả và tất cả chính là một tức là Bất nhị.
Như thế muốn hòa nhập vào trong hội Pháp Hoa, chúng sinh phải thấy mình
sống trong cái nhất thừa đó, phải biết mình cũng có đủ tri kiến Phật để giúp


mình sáng suốt hóa giải những phiền não đau khổ của thế gian. Nhất thừa đưa
hành giả đến chỗ vô phân biệt, không còn thấy mình tu theo Thanh Văn,
Duyên Giác hay Bồ Tát mà tất cả quy về thành Phật đạo tức là con đường
duy nhất để thành Phật. Nếu con người sống trong tinh thần Nhất thừa thì sẽ
không còn tranh chấp giữa các tông phái cũng như trăm sống cùng đổ về biển
lớn. Xa hơn nữa, nhất thừa giúp chúng sinh nhìn thế gian rộng rãi rốt ráo hơn.
Đó là xóa sạch những dị biệt tư tưởng cho nên tranh chấp, xung đột đưa đến
tranh đấu sẽ không còn. Bởi vì nhất thừa là cứu cánh tối thượng của trí tuệ và
từ bi và cũng là hòa bình của thế giới.

CẤU TRÚC CỦA KINH PHÁP HOA
Kinh Pháp Hoa là một tuyệt tác của Phật giáo Đại thừa. Kinh được diễn
tả dưới hình thức một vở kịch nhằm phát huy một chân lý tối thượng bằng
cách trình bày những ý niệm trừu tượng dưới dạng cụ thể, dễ hiểu giúp người
đọc dễ nắm được ý kinh. Tên kinh dựa theo Phạn ngữ lúc ban đầu
là Saddharma Puṇḍarīka Sūtra (Lotus Sutra). Khi dịch qua Hán tự thì nó có
tên là “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, gọi gọn lại
là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay gọn nữa là Kinh Pháp Hoa. Diệu Pháp là
Pháp, Liên Hoa là dụ. Diệu Pháp là pháp môn huyền diệu tức là pháp mầu.
Nói về sự, Pháp là tất cả các sự vật hiện hữu và xảy ra trong thế gian vũ trụ.
Nói về lý, Pháp là một chân lý, một sự thật vĩnh hằng ảnh hưởng vào tất cả
các sự vật trong thế giới này. Pháp là lời dạy của Phật mà nó chính là nền
tảng, là khuôn mẩu cho con người noi theo vì nó tiềm ẩn những năng lực giúp
chúng sinh có thể tiêu trừ những dục vọng tham-sân-si là căn nguyên của
phiền não khổ đau nên gọi là pháp mầu. Pháp này có thể giúp con người phá
trừ được ngã chấp hẹp hòi, ích kỷ nên gọi là pháp mầu. Pháp này giúp con
người thấu hiểu tánh duyên khởi vô tánh vì tất cả sự vật trong thế gian này là
do nhân duyên hòa hợp giả tạo nên không có gì là bền chắc cả, có đó rồi mất
đó nên gọi là pháp mầu. Pháp này giúp chúng sinh thấy biết và sống thật bản
tâm của chính mình vì mỗi chúng sinh là một vị Phật sắp thành nên gọi là
pháp mầu.


 

Vì sự huyền diệu nhiệm mầu đó cho nên Diệu Pháp gồm những ý nghĩa
như sau:
1)Thật tướng bình đẳng: Tuy thế giới vũ trụ có tướng trạng khác
nhau, màu sắc khác nhau, kích thước nặng nhẹ khác nhau, nhưng thật tướng
của vạn pháp là vô tướng (không tướng) nên tất cả đều bình đẳng như nhau.

Vì thế nếu con người biết quán tưởng thật tướng là không tướng thì những
phạm trù đối đãi nhị nguyên trong tâm thức dần dần sẽ biến mất.
2)Đại huệ bình đẳng: Khi con người ngộ nhập được bản thể chân như
của vạn pháp tức là thật tướng là vô tướng thì họ sẽ trở về sống với chơn tâm,
Phật tánh hay Tri kiến Phật (thấy biết của Phật) tức là cái linh tri, linh giác có
sẳn trong tất cả mọi người.
3)Khai quyền hiển thật, hội tam quy nhất: Trong hội Pháp Hoa, đức
Phật khai thị chúng sinh để đưa tam thừa về nhất thừa Phật đạo. Bây giờ sẽ
không còn Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát mà chỉ còn Phật thừa tức là con
đường duy nhất giải thoát giác ngộ viên mãn trở thành Phật. Nếu chúng sinh
ngộ được Phật tri kiến thì họ thẳng tiến về Phật địa và sẽ thành Phật. Vì thế
giáo pháp nầy mới gọi là huyền diệu nhiệm mầu tức là Diệu Pháp vậy. Đã là
Diệu Pháp thì không những toàn bộ kinh là Diệu Pháp mà mỗi câu mỗi chữ
cũng là Diệu Pháp bởi vì mỗi thành phần cấu tạo, xây dựng tạo thành toàn bộ
một chân lý rằng:”Tất cả chúng sinh đều thành Phật”.
Phật giáo Đại thừa lấy Bồ Tát Hạnh làm cao điểm, là lý tưởng phục vụ
để cảm nhận mà phát triển tâm từ vì thế kinh Pháp Hoa diễn tả một chân lý
sinh động qua các hạnh của các vị Bồ Tát. Dưới tuệ nhãn của bậc giác ngộ,
đức Phật nhìn tất cả chúng sinh đều có Phật tánh cho nên tất cả việc làm thiện
của họ cho dù là một việc thiện rất nhỏ cũng là yếu nhân đưa đến sự giải
thoát thành Phật.
Kinh Pháp Hoa là sự hợp nhất của chân lý tương đối và chân lý tuyệt
đối, của căn bản trí (vô sư trí) và hậu đắc trí (sai biệt trí). Nhưng cốt tủy của
kinh không ngoài mục đích xiễn dương giáo lý “Chân Không Diệu Hữu”.
Chân Không là biểu tượng cho thể tánh thanh tịnh tức là trí tuệ, còn Diệu
Hữu là biểu tượng cho sự diệu dụng bất khả tư nghì trong thế giới hiện tượng
này tức là từ bi. Nếu đứng về mặt chơn đế mà quan sát, xuyên suốt bản thể



×