Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Luận văn sư phạm Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.35 KB, 75 trang )

Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
--------------------

TRẦN THỊ LINH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH
HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. TRẦN THỊ HOA LÝ

HÀ NỘI - 2012

Th.s Trần Thị Hoa Lý

1

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Khoa Giáo dục Chính trị

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, con người đã liên tiếp làm nên
nhiều điều kỳ diệu như bay vào vũ trụ để tìm hiểu các hành tinh khác, đi sâu
tìm hiểu các nguồn nguyên liệu quý, các sản vật trong lòng đất, trong lòng đại
dương, phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và nhiều
phát minh sáng chế khoa học khác phục vụ cho cuộc sống của con người.
Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của nền văn minh công nghiệp, con người có
thể làm nên được những điều kỳ diệu hơn thế nữa với những khả năng tiềm ẩn
và sức sáng tạo hết sức phong phú. Con người ngày càng trở thành một tài
nguyên vô cùng quý giá. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nhân tố con
người trở thành một yếu tố cơ bản nhất, nguồn nhân lực là một vốn quý để
khai thác không thể cạn kiệt được.
Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với
mục tiêu đưa đất nước phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Nghị quyết trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ: “Xây dựng con
người phát triển toàn diện - nhân tố phát triển của xã hội thế kỷ XXI là mục
tiêu”.
Việt Nam sẽ sớm chuyển sang giai đoạn mới của công nghiệp hóa,
trong những năm tới đòi hỏi nhiều nguồn nhân lực cho phát triển, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, nguồn nhân lực đã trở thành mục tiêu
của sự phát triển. Tuy nhiên, nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng

Th.s Trần Thị Hoa Lý

2

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

cao hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, chưa đáp ứng với nhu cầu phát triển
của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp phát
triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong các văn kiện của Đảng, chủ chương, chính sách của Nhà nước
trong thời kỳ đổi mới đất nước đều đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực phục vụ
cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực dưới
nhiều góc độ khác nhau:
+ Trương Giang Long: “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta
hiện nay”.
+ Mai Thế Hởn: “Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH
ở nước ta hiện nay”.
+ Vũ Bá Thể: “Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH. Kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam”.
Nhìn chung các tác giả đều nghiên cứu nguồn nhân lực ở các góc độ khác
nhau, đi sâu vào vai trò hoặc một loại nhân lực cụ thể, có sự đánh giá một cách
tổng quát nguồn nhân lực trong phạm vi rộng. Trên cơ sở nghiên cứu về nguồn
nhân lực, tôi xin trình bày một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay chỉ ra những ưu

điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế về nguồn nhân lực để từ đó
đưa ra những phương hướng, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là

Th.s Trần Thị Hoa Lý

3

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ cơ sở lý luận của nguồn nhân lực và nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam.
+ Chỉ ra được thực trạng của nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
+ Đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm phát triển nguồn nhân lực trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp.
+ Phương pháp thống kê, so sánh.
+ Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn.
5. Ý nghĩa của đề tài

- Ý nghĩa lý luận:
+ Đề tài tiếp tục bổ sung, làm rõ, hoàn thiện hơn các giải pháp phát
triển nguồn nhân lực với sự phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
+ Tạo cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu các vấn đề về nguồn nhân lực.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá đúng thực trạng và đưa ra một số giải pháp
cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của đất
nước, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài gồm 3
chương và 9 tiết.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

4

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

NỘI DUNG
Chƣơng 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XHCN
1.1. Một số lý luận cơ bản về nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là điều kiện, tiền đề, nền tảng cho sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia. Thực chất của việc phát triển nguồn nhân lực là phát

triển con người mà phát triển con người lại là trung tâm của mọi sự phát triển.
Xét đến cùng chiến lược phát triển nguồn nhân lực là phải đặt con người ở vị
trí trung tâm, là chiến lược của mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Vậy nguồn nhân lực là gì? có rất nhiều quan niệm về nguồn nhân lực,
sau đây chúng ta sẽ xem xét một số quan niệm tiêu biểu sau:
Theo Tiến sĩ Vũ Bá Thế cho rằng: “nguồn nhân lực là tiềm năng về lao
động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể xác định
trên phạm vi một địa phương, một ngành hay một vùng” [16, 13].
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Minh Hạc thì “nguồn nhân lực được hiểu
là số dân và chất lượng con người. Bao gồm cả thể chất lẫn tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [8, 238].
Theo Tiến sĩ Phạm Văn Đức thì nguồn nhân lực “chỉ khả năng phẩm
chất của lực lượng lao động, đó không chỉ là số lượng và khả năng chuyên

Th.s Trần Thị Hoa Lý

5

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

môn mà còn cả trình độ văn hóa, thái độ với công việc và mong muốn tự hoàn
thiện của lực lượng lao động” [7, 14].
Theo Viện nghiên cứu phát triển Giáo dục thì “nguồn nhân lực là chỉ
những người đang và sẽ bổ sung vào các lực lượng lao động xã hội đa dạng
và phong phú bao gồm các thế hệ trẻ đang được nuôi dưỡng, học tập ở các cơ

sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, Cao đẳng và Đại học. Nói đến
nguồn nhân lực mới chỉ đề cập đến tiềm lực; còn khi tiến hành đào tạo, sử
dụng phát huy, phát triển nguồn nhân lực nó mới trở thành lực tác động tới
phát triển kinh tế - xã hội” [18, 243].
Từ đó có thể thấy rằng, nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là
lực lượng lao động đã có và sẽ có mà còn là một tập hợp đa phức gồm nhiều
nhân tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc … của con người. Trong bài
phát biểu khi gặp gỡ các doanh nghiệp, các nhà khoa học – công nghệ tỉnh,
thành phố phía Bắc, thủ tướng Phạm Văn Khải đã nhấn mạnh rằng: nguồn
nhân lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với
truyền thống của dân tộc ta.
Như vậy, ta thấy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực.
Nhưng nhìn chung có thể khái quát như sau:
Nguồn nhân lực hiểu theo nghĩa rộng là nguồn lực về con người và
được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Với tư cách là nguồn cung
cấp sức lao động cho xã hội. Nó bao gồm toàn bộ dân cư, có cơ thể phát triển
bình thường và có thể tham gia lao động.
Nguồn nhân lực hiểu theo nghĩa hẹp được hiểu là nguồn nhân lực với
tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn nhân lực của một
quốc gia là một bộ phận của dân số trong độ tuổi lao động và có khả năng lao
động.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

6

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Khoa Giáo dục Chính trị

Khi xem xét nguồn nhân lực cần phải xem xét dưới hai khía cạnh là về
mặt số lượng và chất lượng.
Về mặt số lượng: nguồn nhân lực được biểu hiện qua các chỉ tiêu như:
quy mô dân số, quy mô nhân lực, tốc độ tăng nguồn nhân lực …Ví dụ: nguồn
nhân lực tại một thời điểm xác định là bao nhiêu, chiếm tỷ lệ bao nhiêu %
trong tổng dân số, tăng trưởng là bao nhiêu %/ năm … tức là tất cả các chỉ
tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và tốc độ phát triển của dân số.
Về mặt chất lượng: nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ
tiêu về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức …
+ Về thể lực: thể lực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi người và mỗi quốc gia. Sự cường tráng về thể lực là cái
vốn quý để tạo ra tài sản về trí tuệ và của cải vật chất cho cá nhân, gia đình và
xã hội. Sự yếu đuối về thể lực sẽ là trở ngại, cản trở, là gánh nặng cho gia
đình và xã hội. Thể lực của nguồn nhân lực được biểu hiện ở: chiều cao, trọng
lượng cơ thể, tuổi thọ, tỷ lệ mắc các bệnh tật, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng…
Thể lực của nguồn nhân lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chế độ dinh
dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe, yếu tố di truyền, mức thu nhập, chế độ
nghỉ ngơi …
+ Về trí lực: trí lực là sự phát triển trí tuệ của nguồn nhân lực. Nó được
biểu hiện ở trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, khả năng tiếp thu
sáng tạo, vận dụng và làm chủ tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại.
Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động
đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và tương lai. Trong chừng mực
nhất định, trình độ văn hóa của dân số biểu hiện bằng dân trí của quốc gia đó.
Trình độ văn hóa của nguồn nhân lực là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất
lượng của nguồn nhân lực. Trình độ văn hóa cao sẽ tạo khả năng tiếp thu và


Th.s Trần Thị Hoa Lý

7

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Trình độ văn hóa
biểu hiện qua các thông số: số người biết chữ và chưa biết chữ; số người có
trình độ tiểu học, THCS, THPT, CĐ, ĐH, trên ĐH …
Trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực là sự hiểu biết, khả năng thực
hành về chuyên môn nào đó. Nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường
trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và trên đại học.Có khả năng chỉ
đạo, quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Trình độ chuyên
môn biểu hiện qua các thông số: tỷ lệ cán bộ trung cấp, cao đẳng, đại học, trên
đại học.
Trình độ kỹ thuật của nguồn nhân lực thường để chỉ trình độ của người
được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những
kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được biểu hiện
qua các thông số: số lao động được đào tạo và lao động phổ thông; số lao
động có bằng kỹ thuật và không có bằng; trình độ tay nghề theo bậc thợ …
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau.
+ Về phẩm chất đạo đức, văn hóa của nguồn nhân lực được xem xét
qua các mặt: truyền thống dân tộc (yêu nước, ý chí xây dựng và bảo vệ tổ
quốc …); truyền thống văn hóa, văn minh dân tộc (lòng nhân ái, khoan dung,

độ lượng, …); phong tục, tập quán, lối sống …
Trong ba yếu tố để xem xét về mặt chất lượng nguồn nhân lực thì thể
lực đóng vai trò là nền tảng để phát triển trí tuệ, là phương tiện để truyền tải
trí tuệ vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất cải tạo tự
nhiên và xã hội. Còn trí lực là yếu tố quyết định, là tài sản quý giá nhất trong
mọi tài sản. Do đó muốn phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN thì ngoài việc nâng cao thể lực, trí lực thì cần phải
coi trọng cả việc nâng cao giá trị phẩm chất đạo đức.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

8

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

Các nhà khoa học đã chứng minh lịch sử loài người từ trước đến nay là
lịch sử của sự phát triển con người. Con người đóng vai trò là chủ thể sáng tạo
ra lịch sử thông qua hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Qua các cuộc đấu
tranh đó, con người sáng tạo ra lịch sử, xã hội, sáng tạo ra bản thân mình. Khi
con người đạt tới giá trị cao nhất, có ý nghĩa thức đẩy sự vận động, phát triển
của xã hội.
Với tư cách là chủ thể xã hội, con người tham gia phát triển sản xuất
vật chất và chính sản xuất vật chất lại tái sản xuất ra con người – nhân tố
quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Xã hội càng phát triển, con người
ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Đích cuối cùng của chiến lược phát triển là

vì con người, phục vụ con người, tạo ra sự phát triển với mức sống vật chất
cao, tinh thần phong phú, xã hội văn minh hơn. Muốn đạt được mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp và gắn liền với sự phát triển con
người kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Trong nhiều thập niên qua, nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thức
được tầm quan trọng của chiến lược phát triển con người nên đã tổ chức thực
hiện chiến lược quốc gia về phát triển con người và đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn. Mặc dù, hiện nay nền kinh tế thế giới đã phát triển ở mức cao, đời
sống của nhân dân cũng được nâng cao nhưng ở một số khu vực, một số quốc
gia vẫn còn rất nhiều người dân đói nghèo, đời sống vô cùng cực khổ như:
Nam Á, chiếm 2/5 số người đói nghèo (515 triệu/1,3 tỷ người)
Châu Phi có tỷ lệ số người đói nghèo rất lớn và đang phải đối mặt với
đại dich AIDS, đói nghèo.
Môi trường thế giới xuống cấp trầm trọng.
Sự chênh lệch về thu nhập giữa các quốc gia, khu vực, trên thế giới vẫn
là vấn đề lớn của nhân loại.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

9

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

Nhận thức về tầm quan trọng to lớn của con người vừa là cơ sở, mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một

hệ thống chính sách nhằm góp phần nâng cao chất lượng con người thông qua
bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực. Đồng thời tạo điều kiện để sử dụng và
phát huy có hiệu quả vốn người - nguồn tài sản giá trị cao của mỗi quốc gia.
Để phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam hiện nay thì phải khơi dậy và phát huy những tiềm năng
con người nói chung, việc sử dụng, phát huy nguồn nhân lực phải được tiến
hành đồng bộ từ vấn đề giáo dục - đào tạo, phổ cập nghề, chuẩn bị cho người
lao động bước vào cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và được
hưởng thụ xứng đáng giá trị mà lao động tạo ra. Tức là, chính sách sử dụng và
phát huy nguồn nhân lực phải được lồng ghép với các vấn đề giáo dục - đào
tạo, sử dụng lực lương lao động tạo môi trường làm việc và đãi ngộ thỏa đáng
cho người lao động.
1.1.2. Kết cấu nguồn nhân lực
Hiện nay nước ta lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN, trong bối cảnh nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI với nền kinh tế tri
thức và khoa học công nghệ hiện đại. Để đưa nước ta có thể đi tắt, đón đầu,
tranh thủ từng thời cơ, vượt qua mọi thách thức, hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới thì yêu cầu đã và đang đặt ra với nguồn nhân lực nước ta là
phải có đủ về mặt số lượng, phát triển cao về mặt chất lượng để trở thành
động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.
Trước đây khi nói đến nguồn nhân lực, người ta thường đồng nhất với
sức người trong sản xuất. Từ quan niệm đơn giản này, dễ dẫn đến ngộ nhận
sức người (sức lao động) trong hoạt động lao động sản xuất chỉ là sức cơ bắp.
Trước tiên, nguồn nhân lực thể hiện ở sức người trong sản xuất, song
không phải là sức cơ bắp mà cái chủ yếu trong nguồn lực con người ở thời đại

Th.s Trần Thị Hoa Lý

10


Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

hiện nay chính là hàm lượng trí tuệ, phẩm chất đạo đức, tâm lý, khả năng lao
động, sáng tạo hiệu quả của con người.
Nguồn nhân lực còn được hiểu là sự kết hợp giữa thể lực, trí lực, những
giá trị phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm của từng người, của cộng đồng cho
thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới
phát triển của con người.
Nguồn nhân lực là tập hợp các chỉ số phát triển con người mà bản thân
con người và xã hội có thể huy động vào sự phát triển tiếp theo của toàn xã
hội vì lợi ích của cá nhân và xã hội. Do đó kết cấu của nguồn nhân lực gồm:
Xét theo số lượng trong dân cư thì nguồn nhân lực được chia làm ba
loại sau:
+ Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư: bao gồm toàn bộ những người
nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động.
+ Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế: gồm số người có
công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế , văn hóa, xã hội.
+ Nguồn nhân lực dự trữ bao gồm: những người trong độ tuổi lao động
nhưng vì nhiều lý do khác nhau họ chưa có công việc ngoài xã hội.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực hoạt động thì nguồn nhân lực được chia
thành:
+ Nguồn nhân lực hoạt động trong các ngành công nghiệp.
+ Nguồn nhân lực hoạt động trong các ngành nông nghiệp.
+ Nguồn nhân lực hoạt động trong các ngành dịch vụ.
Đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nguồn

nhân lực được đánh giá qua các thông số sau:
+ Lực lượng công nhân lành nghề: gồm những người có trình độ sơ
cấp, trung học trở lên có bằng cấp, có trình độ chuyên môn cao, chuyên môn
nghiệp vụ vững chắc, làm việc trong tất cả các ngành nghề và lĩnh vực, trực

Th.s Trần Thị Hoa Lý

11

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

tiếp điều hành công cụ sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ vào thực
tiễn.
+ Nhân lực chuyên gia: gồm những người có trình độ rất cao, từ sau
ĐH trở lên, gồm các chuyên gia kinh tế, chuyên gia công nghệ thông tin,
chuyên gia văn hóa …
+ Nhân lực cán bộ quản lý, lãnh đạo: là những chính trị gia, cán bộ
quản lý các ngành nghề, lĩnh vực, các cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh.

1.2. Một số lý luận cơ bản về kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt
Nam hiện nay.
1.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Thị trường
Sản xuất hàng hóa là quá trình sản xuất ra sản phẩm đem bán trên thị

trường. Thị trường là cái tất yếu, là hợp phần bắt buộc của sản xuất hàng hóa.
Thị trường là nơi diễn ra sự chuyển nhượng, sự trao đổi, sự mua – bán hàng
hóa.
Điều quan trọng để hiểu được thực chất của thị trường là ở chỗ, thị
trường không phải chỉ đơn thuần là lĩnh vực trao đổi, di chuyển hàng hóa,
dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng mà là trao đổi được tổ chức
theo các quy luật của lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Mác đã từng
chỉ ra rằng: lưu thông là một quá trình tổng thể của trao đổi và là quá trình
hình thành, tích lũy tiền tệ chỉ diễn ra khi các hành vi mua bán tách ra cả về
không gian và thời gian và cả người thực hiện hành vi đó. Lưu thông hàng
hóa giả định mua và bán tách ra, tiền và hàng hóa tách ra thành hai cực đối
lập nhau nhưng không thể thiếu nhau trên thị trường. Tức là, hàng hóa không

Th.s Trần Thị Hoa Lý

12

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

tức khắc chuyển thành tiền và tiền thành hàng. Vì thế bản thân sự trao đổi
không phải đương nhiên thực hiện được. Nhằm giải quyết những khó khăn và
mâu thuẫn ấy giữa các chủ thể của sản xuất - lưu thông có những quan hệ thị
trường, để giải quyết tương quan giữa giá cả và số lượng hàng hóa mua - bán.
Như vậy, thị trường gắn với lưu thông hàng hóa, nó ra đời và gắn với
sản xuất và lưu thông hàng hóa. Do đó, thị trường là hợp phần bắt buộc của

sản xuất hàng hóa và thị trường là phạm trù của kinh tế hàng hóa, là một kết
cấu của phân công lao động XH trong sản xuất hàng hóa.
Cùng với sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường thì thị
trường gắn bó chặt chẽ với kinh tế thị trường, trở thành yếu tố nội tại của kinh
tế thị trường.
Thị trường được hiểu theo nhiều nghĩa:
Theo nghĩa hẹp: Thị trường gắn với một địa điểm nhất định mang yếu
tố thời gian và không gian qua đó sản xuất “giáp mặt” với nhu cầu người bán
và người mua gặp nhau trao đổi mua - bán hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ.
Theo nghĩa rộng: Thị trường là tổng hợp những điều kiện để thực hiện
những giá trị hàng hóa, phản ánh các quan hệ giữa người với người trong lĩnh
vực trao đổi mua – bán.
Theo định nghĩa Sambulson: “Thị trường là một quá trình trong đó
người mua và người bán hàng hóa tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá
cả và số lượng hàng hóa” [2, 83].
Như vậy, nói đến thị trường là phải nói tới các nhân tố cấu thành thị
trường là: hàng hóa, tiền tệ, người mua, người bán, giá cả và các yếu tố phục
vụ. Từ đó hình thành các mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, người bán - người
mua, cung - cầu, giá cả - giá trị. Đồng thời nói đến thị trường là nói đến quyền
tự do kinh doanh, tự do mua - bán, tự do giao dịch, thuận mua vừa bán …
quan hệ với nhau rất bình đẳng.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

13

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Khoa Giáo dục Chính trị

Như vậy, căn cứ vào các loại hàng hóa, dịch vụ, quy mô, tính chất,
vùng miền … có các loại thị trường tương ứng. Song ở mỗi thị trường này
người ta đều đưa ra được các số liệu thống kê về tổng cung, tổng cầu, về giá
cả, về sự vận động và phát triển của nó.
Kinh tế thị trường.
“Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều
được thực hiện trên thị trường thông qua quá trình trao đổi mua - bán”. Quan
hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế
thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa
dựa trên sự phát triển cao của lực lượng sản xuất.
Kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó
các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua
– bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên
chủ thể kinh tế là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn
dắt của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất
cả các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất XH đều được tiền tệ hóa;
các yếu tố của sản xuất như đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật
chất, sức lao động, công nghệ và quản lý; các sản phẩm và dịch vụ tạo ra; chất
xám đều là đối tượng mua - bán, là hàng hóa.
Thực chất kinh tế thị trường không phải là phương thức sản xuất mà nó
chỉ là cách thức tổ chức nền kinh tế có hiệu quả cao, là công nghệ để tổ chức
nền kinh tế được loài người sử dụng để phân bố hiệu quả các nguồn lực xã
hội.
Kinh tế thị trường có một số đặc trưng cơ bản sau:

Th.s Trần Thị Hoa Lý


14

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

+ Trong nền kinh tế thị trường tính tích cực chủ động của các chủ thể
kinh tế rất cao, các chủ thể kinh tế hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, trao đổi.
+ Trong nền kinh tế thị trường hàng hóa rất đa dạng, phong phú, nhu
cầu về nguồn hàng cho cả sản xuất và tiêu dùng trong toàn xã hội được thỏa
mãn.
+ Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là động lực, là môi trường
phát triển kinh tế.
Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là cơ chế thị trường tự do
cạnh tranh tức là thông qua thị trường để xác định giá trị sử dụng (sản xuất cái
gì? Sản xuất như thế nào?) và giá trị (đòi hỏi phải dựa trên hao phí lao động
XH cần thiết để hạch toán kinh doanh).
Như vậy, chỉ khi nào lực lượng sản xuất và phân công lao động XH đạt
tới trình độ cao, sản xuất hàng hóa phát triển cao, trao đổi hàng hóa trở nên
phổ biến và thị trường mở rộng, các thể chế phù hợp, các loại thị trường hình
thành đồng bộ và vận hành thông suốt thì mới có kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của XH loài người đã chứng minh
rằng: trong quá trình phát triển kinh tế của nhân loại, quốc gia nào cũng phải
trải qua một thời kỳ dài phát triển kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Tuy sớm

hay muộn khác nhau nhưng quốc gia nào cũng đã, đang và sẽ bước vào giai
đoạn phát triển kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao của hình thái sản xuất này
chính là kinh tế thị trường.
Việc tổ chức nền kinh tế theo phương thức và nguyên tắc thị trường đã
tạo ra khả năng huy động và khai thác tối đa mọi nguồn lực của XH cũng như
mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên vào guồng máy sản xuất ra của cải vật chất

Th.s Trần Thị Hoa Lý

15

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

và tinh thần cho xã hội, đồng thời nó kích thích việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực đó.
Tổ chức nền kinh tế theo phương thức và nguyên tắc thị trường còn tạo
ra môi trường thuận lợi kích thích phát triển khoa học công nghệ, sử dụng
hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ. Sau đó khoa học công nghệ lại
là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Nghĩa là phát
triển kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao là kinh tế thị trường đã trở thành con
đường, là nấc thang phát triển tất yếu của bất kỳ một quốc gia nào trong phát
triển kinh tế nói riêng và trong quá trình tiến bộ của dân tộc nói chung.
Việt Nam cũng là nước nằm trong quy luật chung của nhân loại. Phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn cần thiết hơn khi xuất phát điểm ở
nước ta về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu; nền sản

xuất nhỏ lẻ, manh mún, tự cung tự cấp; lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Hiện nay chúng ta đang tiến lên xây dựng CNXH – đó không chỉ là mục tiêu
lý tưởng của những người công sản mà còn là khát vọng thiêng liêng của cả
dân tộc Viêt Nam. Nhưng tiến lên bằng cách nào? Đó là một câu hỏi lớn mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần phải chung tay góp sức để xây dựng. Khi
đất nước hòa bình, thống nhất, sức ép bên ngoài đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam xuất hiện và ngày càng gia tăng, nhất là từ thập kỷ 80 thế
kỷ XX. Khi chính phủ Mỹ tiến hành cấm vận từ những năm 70 đến năm 1993.
Việc cấm vận của chính phủ Mỹ nhằm hạn chế mọi quan hệ của các tổ chức
quốc tế, các quốc gia đối với Việt Nam, nhằm cô lập Việt Nam. Khi Việt Nam
lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội thì Liên Xô và các nước XHCN trên thế
giới cũng lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, vì vậy, do khủng hoảng nên
không triển khai được quan hệ quốc tế với các nước đó, làm cho kinh tế
thương mại Việt Nam giảm sút nghiêm trọng.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

16

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

Trong khi đó, cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ tác động đến
mọi lĩnh vực của nền kinh tế thế giới, từ đó các nước thực hiện cơ cấu lại nền
kinh tế, mở cửa nền kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Ngoài ra, việc Trung Quốc mở cửa năm 1978 đã đem lại nhiều
thành công cho sự phát triển kinh tế. Vì vậy, nó đã gợi ý, định hướng cho Việt

Nam mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới.
Đã có một thời nền kinh tế ở Việt Nam đã đặt “kinh tế hàng hóa” và
nền “kinh tế có kế hoạch” là hai phạm trù ngang nhau; coi chúng là hai loại
kinh tế đối lập nhau, có tính loại trừ, cho nên sự lựa chọn chỉ có thể hoặc là
kinh tế hàng hóa hoặc là kinh tế có kế hoạch. Bên cạnh đó, theo quan điểm
truyền thống này còn đồng nhất kinh tế hàng hóa với tính tự phát mù quáng,
vô chính phủ và khủng hoảng coi đó là đặc trưng của kinh tế tư bản. Do vậy
trong suốt một thời kỳ dài Việt Nam đã duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp.
Trong thời kỳ có chiến tranh, mô hình kinh tế này đã đáp ứng được nhu
cầu của đất nước. Nhưng khi đất nước được hòa bình, thống nhất thì mô hình
kinh tế này đã bộc lộ những khuyết điểm, trong công tác chỉ đạo đã phạm một
số sai lầm mà những nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo
điều, chủ quan, duy ý chí, là lối suy nghĩ và hoạt động đơn giản, nóng vội,
không tôn trọng quy luật khách quan nhận thức CNXH không sát với thực tế
ở Việt Nam vì thế đã đưa nước ta rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng. Nước ta chọn con đường đi lên CNXH là một tiến bộ lớn nhưng xác
định con đường để thực hiện đi lên CNXH thì lại vấp phải nhiều sai lầm.
Với sự lựa chọn mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp làm cho nước ta rơi vào khủng hoảng toàn diện, cùng với sự sụp đổ của
Liên Xô - thành trì của CNXH - và Đông Âu ngững năm đầu thập kỷ 90, cuộc

Th.s Trần Thị Hoa Lý

17

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học


Khoa Giáo dục Chính trị

khủng hoảng đã chứng minh chúng ta không thể thành công ngay với mô hình
kinh tế cứng nhắc phi thị trường.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường TBCN không phải là vạn năng. Bên cạnh
mặt tích cực còn có những mặt trái, khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế
độ sở hữu tư nhân TBCN chi phối. Trong nền kinh tế ấy cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất thì những mâu thuẫn của CNTB ngày càng bộc lộ
rõ, các vấn đề không được giải quyết làm tăng thêm tính bất công và bất ổn xã
hội. Do đó, càng đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế như hiện nay, nó
càng ràng buộc các nước kém phát triển vào trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị
bóc lột. Có thể nói nền kinh tế thị trường TBCN toàn cầu hiện nay là sự thống
trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số
nước nghèo, kém phát triển, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giầu và
nước nghèo.
CNTB mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, tự thích nghi
bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường
xã hội”, tạo ra “CNTB xã hội”, tức là phải có sự can thiệp trực tiếp của Nhà
nước và cũng phải chăm lo các vấn đề xã hội nhiều hơn. Nhưng do mâu thuẫn
từ trong bản chất của nó CNTB không thể tự giải quyết được, có chăng chỉ là
tạm thời xoa dịu chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường TBCN
hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hóa để
chuẩn bị chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn hậu công nghiệp theo xu
hướng xã hội hóa. Đây là một tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã
hội. Nhân loại muốn tiến lên thì không thể dừng lại ở kinh tế thị trường
TBCN.
Vì vậy, Việt Nam lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội.


Th.s Trần Thị Hoa Lý

18

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

1.2.2. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vừa mang đặc trưng
chung của kinh tế thị trường tự do cạnh tranh theo pháp luật, mặt khác, lại vừa
mang tính đặc thù, thể hiện được bản chất của chế độ xã hội mới.
Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được
thể hiện:
Thứ nhất, về mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường XHCN ở nước ta nhằm mục tiêu phát triển lực lượng
sản xuất, phát triển nền kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân … phát triển lực lượng sản
xuất phải gắn liền với xây dựng và củng cố hoàn thiện QHSX trên cả ba mặt:
sản xuất, sở hữu, tổ chức. Tính định hướng XHCN trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội quy định qúa trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là
quá trình thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Để thực hiện mục tiêu này thì nền kinh tế phải có lực lượng sản
xuất phát triển cao, cơ sở vật chất kỹ thuật phải hiện đại, năng lực sản xuất
ngày càng phát triển. Do đó, phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, mở cửa hội nhập vào khu vực và thế giới trong xu thế quốc tế hóa, toàn

cầu hóa kinh tế.
Thứ hai, về các chủ thể của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có cấu trúc nhiều hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, trong đó có ba hình thức sở hữu chủ yếu:
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Trong các hình thức sở hữu
đó thì sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo, trong sở hữu toàn dân thì sở hữu
công cộng từng bước được xác lập. Từ đó cần khẳng định:

Th.s Trần Thị Hoa Lý

19

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

+ Cơ cấu sở hữu của kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải
chỉ là một cơ cấu sở hữu thuần nhất của một loại hình công hữu, tư hữu mà là
một cơ cấu sở hữu với nhiều hình thức đa dạng đan xen hỗn hợp nhiều tầng.
+ Trong cơ cấu sở hữu của nền kinh tế thì các hình thức sở hữu đều
bình đẳng trong pháp luật.
+ Tính định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ không chỉ được xác
định bởi nhân tố sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mà còn được tạo ra bởi
sự kết hợp có hiệu quả giữa các bộ phận cấu thành chế độ công cụ sở hữu cơ
bản của nền kinh tế.
+ Không nên đồng nhất cơ cấu sở hữu của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với cơ cấu của nền kinh tế đạt trình độ XHCN đã được xây

dựng xong.
+ Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay còn được xác định ở chủ thể sở hữu.
+ Nền kinh tế gồm nhiều sở hữu về tư liệu sản xuất. Do đó, gồm nhiều
thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Thứ ba, về hệ thống thị trường: cần xây dựng được một hệ thống thị
trường đồng bộ, thống nhất.
Thị trường nói chung và các thị trường đều có các yếu tố cơ bản cấu
thành như: hàng hóa, tiền tệ, cung - cầu, giá cả thị trường … sự phát triển thị
trường tùy thuộc sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội, các mối quan hệ kinh tế, đặc biệt là cơ cấu nền kinh tế, quy mô kinh tế …
Xem như vậy thì quá trình hình thành phát triển thị trường sẽ phải đi theo con
đường tuần tự từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Song trong điều kiện
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, xu thế hội nhập … thì việc phát triển
thị trường có thể bằng con đường rút ngắn. Để phát triển thị trường cần:

Th.s Trần Thị Hoa Lý

20

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

+ Ban hành, tiếp tục sửa đổi, thực thi nghiêm hệ thống pháp luật liên
quan đến thị trường.
+ Tổ chức và quản lý thị trường.

+Giải quyết mối quan hệ giũa Nhà nước và thị trường hay nói cách
khác phải khắc phục được tình trạng Nhà nước làm thay thị trường.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Cơ chế thị trường được coi là khâu trung gian nối liền giữa Nhà nước
và doanh nghiệp. Cơ chế thị trường hướng vào mục tiêu tối đa hóa lơi nhuận
còn nhà nước đóng vai trò như một nhân vật trung tâm thực hiện vai trò quản
lý vĩ mô của mình. Nhà nước đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất,
chịu trách nhiệm quản lý mọi mặt của đất nước: xã hội, an ninh - quốc phòng,
ngoại giao …

Thứ năm, về quan hệ phân phối.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ
dừng lại ở tăng trưởng kinh tế cao mà không ngừng cải thiện nâng cao đời
sống xã hội, xây dựng đời sống xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN cần kết hợp các
hình thức phân phối đa dạng như: phân phối theo lao động, phân phối theo
đóng góp lao động, sản xuất và các hình thức phân phối khác như: phân phối
theo phúc lợi, phân phối theo tài năng
dạng thì cần phải phát huy truyền thống tương thân, tương ái, đồng cam cộng
khổ nhằm điều hòa thu nhập các giai tầng trong xã hội. Để định hướng XHCN
trong phân phối cần thực hiện:

Th.s Trần Thị Hoa Lý

21

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

+ Xác định những chỉ tiêu hiệu quả, cần thiết, cần đạt của kinh tế thị
trường như GNP, GDP, phát triển giáo dục – đào tạo, giải quyết việc làm …
+ Nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước XHCN trong chế độ bảo
hiểm xã hội và trong chính sách phân phối thu nhập và trong những chính
sách xã hội khác.
Phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN cần phải kết
hợp:
+ Kết hợp lợi nhuận với các vấn đề xã hội nhằm đảm bảo cho các chủ thể
có lợi nhuận cao và phải tạo ra những điều kiên để ổn định chính trị - xã hội.
+ Kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối XHCN và nguyên tắc phân
phối kinh tế thị trường nhằm tạo ra những hình thức thu nhập đa dạng xen kẽ.
+ Điều tiết thu nhập: một mặt Nhà nước phải có những chính sách để
giảm bớt chênh lệch giầu nghèo, mặt khác phải có những biện pháp nâng cao
thu nhập chính đáng cho các tầng lớp trong xã hội.
Để thực hiện phân phối thu nhập phù hợp với kinh tế thị trường định
hướng XHCN thì phải luôn kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội.
1.3. Vai trò của nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Trong sự phát triển của xã hội nói chung, con người đóng vai trò rất
quan trọng. Xã hội muốn phát triển phải phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt
động sản xuất vật chất, mà quá trình này diễn ra là sự kết hợp của hai yếu tố
cơ bản: tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong đó yếu tố con người với kỹ
năng, kỹ sảo của mình có ý nghĩa quyết định nhất như Lê Nin đã khẳng định:
“lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là người công nhân, là người
lao động” [12, 430].

- Nguồn nhân lực đóng vai trò là chủ thể của lịch sử, của sự tiến bộ xã
hội và là yếu tố nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

22

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố đóng
vai trò quyết định hàng đầu trong lực lượng sản xuất của xã hội mà con người
vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc của mọi biến đổi xã hội. Đồng thời
con người còn đóng vai trò là chủ thể của lịch sử, của sự tiến bộ xã hội, của
mọi nền văn minh quốc gia. Khi nói về vai trò của con người trong lĩnh vực
sản xuất, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “… chỉ có phương tiên cơ giới và hóa
học phù hợp thì không đủ, còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng
lực của con người, sử dụng những phương tiện đó nữa” [5, 474].
Để tồn tại và phát triển, con người phải được đáp ứng những nhu cầu
về mặt vật chất. Sự tiêu dùng của con người không chỉ là sự tiêu hao kho tàng
vật chất và văn hóa do con người tạo ra, mà chính là nguồn gốc của động lực
phát triển xã hội. Để không ngừng thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần
ngày càng được nâng cao về số lượng và chất lượng trong điều kiện các
nguồn lực đều có hạn, con người ngày càng phải phát huy đầy đủ hơn khả
năng về thể lực và trí tuệ cho việc phát triển không ngừng kho tàng vật chất
và tinh thần đó. Trong nền kinh tế thị trường khối lượng và cơ cấu tiêu dùng

là một yếu tố quyết định quy mô và cơ cấu sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Trong thời đại ngày nay các nước có thể khắc phục sự yếu kém của kỹ
thuật, công nghệ … thông qua con đường chuyển giao, nhập khẩu hoặc gia
tăng nguồn vốn bằng cách vay mượn của nước ngoài. Tuy nhiên lại không thể
vay mượn, nhập khẩu khả năng sáng tạo của con người. Vì vậy có thể khẳng
định rằng nguồn nhân lực là yếu tố nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Thực tiễn trên thế giới đã chứng minh cho tính đúng đắn của việc phát
triển nguồn nhân lực lấy đó làm đòn bẩy để phát triển kinh tế. Kinh nghiệm
của các nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapo … đã
cho thấy nhờ biết đầu tư, phát triển nguồn nhân lực đã tạo nên bước phát triển
thần kỳ cho nền kinh tế. Ở những nước này, họ đã coi phát triển nguồn nhân

Th.s Trần Thị Hoa Lý

23

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

lực là yếu tố hàng đầu trong mọi quá trình phát triển xã hội, đầu tư cho con
người là đầu tư có hiệu quả nhất cho sự phát triển. Như vậy, sự phát triển
nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, quyết định nhất cho sự phát triển của đất
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dạy: “phải biết quý trọng sức người, là
vốn qúy của ta. Chúng ta phải hết lòng chăm lo sức khỏe và sử dụng hợp lý
sức lao động của nhân dân ta” [13, 313].

Đảng ta luôn coi nguồn nhân lực chính là lực lượng cách mạng quan
trọng nhất, quyết định nhất, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước,
cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học
công nghệ. Đó chính là nguồn nhân lực quan trọng nhất.
Trong khi hoạch định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
nhằm thực hiện từng bước cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ quan điểm coi mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người:
+ Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển hay gọi
là chiến lược con người, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi
chương trình, kế hoạch phát triển.
+ Khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể lao động và cả công
đồng dân tộc trong việc thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước, ra sức làm
giầu cho mình và cho đất nước.
+ Coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển trong sự
gắn bó hữu cơ giữa lợi ích của mỗi con người, của từng tập thể và toàn xã hội.
+ Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo vệ quyền
sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Chúng ta biết rằng: nếu như các nguồn nhân lực khác như: vốn, tài
nguyên thiên nhiên … là những tài nguyên hữu hạn, sẽ bị cạn dần trong quá
trình khai thác và sử dụng của con người. Nhưng nguồn nhân lực lại mang
tính “vô hạn”, có khả năng tái sinh nếu biết nuôi dưỡng và phát triển.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

24

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Khoa Giáo dục Chính trị

- Vai trò quyết định của nguồn nhân lực còn thể hiện: nó là nhân tố
quyết định việc tổ chức, sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực khác. Lý
luận và thực tiễn đều khẳng định rằng: nguồn nhân lực là yếu tố quyết định
việc tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn nhân lực khác như vốn, tài nguyên
thiên nhiên, khoa học công nghệ … chỉ thông qua các nguồn nhân lực mới
phát huy được tác dụng.
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nguồn nhân lực đóng
vai trò rất quan trọng. Nguồn nhân lực tham gia các hoạt động trong các
ngành kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Mặt khác, là bộ phận dân
số, nguồn nhân lực tham gia vào tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ của xã
hội. Như vậy, với tư cách là bộ phân dân số, thực hiện quá trình tiêu dùng,
nguồn nhân lực trở thành nhân tố tạo cầu cho nền kinh tế, là động lực thúc
đẩy sự phát triển của sản xuất xã hội.
Sau khi hòa bình thống nhất đất nước, Việt Nam lựa chọn con đường
đi lên CNXH, với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mặc dù là nước
có rất nhiều thuận lợi cả về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên lẫn nguồn nhân
lực dồi dào nhưng Việt Nam còn rất khó khăn, vẫn là nước đang phát triển,
cần nhiều sự viện trợ, giúp đỡ của nước ngoài. Để khắc phục khó khăn, phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thì cần phải ứng dụng rộng rãi và
phổ biến những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại vào tất cả các lĩnh
vực của đời sống. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, nhiều nước trên thế giới đã bước vào nền kinh tế tri thức, cho phép các
nước chậm phát triển có trình độ khoa học công nghệ trung bình và thấp như
nước ta có thể đi tắt đón đầu, đi thẳng vào công nghệ mới thông qua chuyển
giao khoa học công nghệ. Để có thể thực hiện được việc chuyển giao này có
hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, đội

ngũ cán bội khoa học có trình độ. Điều đó có nghĩa là kết quả chuyển giao
công nghệ phụ thuộc một cách trực tiếp vào chất lượng nguồn nhân lực.

Th.s Trần Thị Hoa Lý

25

Trần Thị Linh - K34GDCD-GDQP


×