Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận tài chính quốc tế thực trạng thị trường ngoại hối ở một số nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.33 KB, 30 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài:
Bước sang thế kỉ 21, một xu thế tất yếu không thể đảo ngược đó chính là

toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở lên mạnh mẽ. Việt
Nam cũng không đứng ngoài xu thế trên, đặc biệt kể từ khi chúng ta trở thành
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Tự do hoá thương
mại, đầu tư và tài chính diễn ra với cường độ và quy mô lớn chưa từng có. Sự
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế của kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị
trường là một xu thế khách quan. Với vai trò là chiếc cầu nối giữa nền kinh tế
trong nước với thế giới, việc phát triển nghịêp vụ kinh doanh trên thị trường
ngoại hối theo hướng hịên đại, phù hợp chuẩn mực và trình độ thế giới là một
điều cần thiết. Điều đó không những nhằm thúc đẩy các hoạt động xuất nhập
khẩu của mọi thành phần kinh tế mà còn kích thích luân chuyển các khoản vốn
đầu tư và tín dụng quốc tế, tạo môi trường để tỷ giá xác định một cách khách
quan theo quy luật cung cầu trên thị trường, cung cấp các biện pháp hữu hiệu để
phòng ngừa sự biến động của rủi ro tỷ giá cho nhà đầu tư, ngân hàng và nhà
xuất nhập khẩu trên thị trường thông qua hợp đồng hoán đổi, quyền chọn, kỳ
hạn, tương lai.
Có thể nói nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam mới ra đời trong
chục năm trở lại đây nhưng thực sự chưa phát triển do những vướng mắc,
những hạn chế và những bất cập trong cơ chế quản lý. Xuất phát từ thực tế đời
sống, chúng em mạnh dạn nghiên cứu về: “Thực trạng thị trường ngoại hối ở
một số nước đang phát triển” với hy vọng sẽ góp tiếng nói vào công cuộc phát
triển công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam.



2.

Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở làm rõ các vấn đề nhận thức lý luận và phân tích thực trạng hoạt

động kinh doanh ngoại hối ở một số nước đang phát triển, chúng em chủ yếu
nghiên cứu bài tiểu luận dựa trên các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phái sinh tại
hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cúu:



Đối tượng nghiên cứu: Các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường ngoại hối.



Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong việc triển khai nghiệp vụ phái sinh trên thị
trường ngoại hối Trung Quốc và Việt Nam.
4.

Phương pháp nghiên cứu:

Khoá luận vận dụng tổng hợp các phương pháp:
• Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của CN Mác – Lênin.


Phương pháp so sánh, thống kê tổng hợp, quy nạp, phân tích, mô hình hoá, khái

quát hoá, dự đoán và dự báo.
5.

Kết cấu của khoá luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục chữ
viết tắt, luận văn gồm 3 chương:
• Chương 1: Cơ sở lý thuyết


Chương 2: Thực trạng thị trường ngoại hối ở Việt Nam



Chương 3: Thực trạng thị trường ngoại hối Trung Quốc
Để hoàn thành khoá luận này chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình của TS. Kim Hương Trang, sự cung cấp tài liệu của thư viện Trường đại
học Ngoại Thương…
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn nhiều
hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, chúng em rất
mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn đọc.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

2


NỘI DUNG

Chương 1: Cơ sở lý thuyết
KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI.

1.1. Khái niệm
Thị trường ngoại hối (The foreign Exchange Market, và được viết tắt là
FOREX hay FX): là nơi diễn ra việc mua bán, trao đổi ngoại hối, trong đó chủ
yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế và qua
đó tỷ giá hối đoái được xác định.
1.

Trong thực tế, do hoạt động mua bán chủ yếu diễn ra giữa các ngân hàng
(chiếm khoảng 85% tổng số giao dịch), chính vì vậy theo nghĩa hẹp (nghĩa thực
tế) thị trường ngoại hối chủ yếu mua bán ngoại tê giữa các ngân hàng, tức thị
trường Interbank.
Phân loại thị trường ngoại hối
• Căn cứ vào tính chất nghịêp vụ: Thị trường giao ngay, thị trường kì hạn,
thị trường hoán đổi, thị trường tương lai và thị trường quyền chọn.
• Căn cứ vào tính chất kinh doanh: Thị trường bán buôn (Interbank), thị
trường bán lẻ
• Căn cứ vào địa điểm giao dịch: Giao dịch tập trung trên sở giao dịch
(Exchange), giao dịch phi tập trung
• Căn cứ vào tính chất pháp lí: Thị trường chính thức (thị trường hợp pháp)
và thị trường phi chính thức (chợ đen, thị trường ngầm).
• Căn cứ vào quy mô: Thị trường ngoại hối quốc tế và thị trường ngoại hối
nội địa.
• Căn cứ vào phương pháp giao dịch: Thị trường giao dịch trực tiếp (Direct
interbank) và thị trường giao dịch qua môi giới (Indirect Interbank)
1.3. Chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối.
1.3.1. Nhóm khách hàng mua bán lẻ.
Nhóm khách hàng mua bán lẻ (retail clients hay bank customers) bao gồm
các công ty nội địa và đa quốc gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai
có nhu cầu mua bán ngoại tệ vơí 2 mục đích: Chuyển đổi tiền tệ và phòng ngừa
rủi ro tỷ gía.

1.2.

VD: Nhà nhập khẩu cần mua ngoại tệ spot hay forward để thanh toán hoá
đơn nhập khẩu ghi bằng ngoại tệ; khách du lịch có nhu cầu bán ngoại tệ lấy nội
tệ để chi tiêu…
Như vậy, nhóm khách hàng mua bán lẻ có nhu cầu mua bán ngoại tệ để
phục vụ cho mục đích hoạt động của chính mình chứ không nhằm mục đích kinh
3


doanh ngoại hối (kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi). Thông thường nhóm khách hàng
mua bán lẻ không giao dịch trực tiếp với nhau mà thường mua bán thông qua các
NHTM.
1.3.2. Những

nhà môi giới ngoại hối:
Ngoài hình thức mua bán ngoại hối trực tiếp giữa các ngân hàng với nhau,
thì hình thức giao dịch qua nhà môi giới ngoại hối cũng phát triển. Hình thức
này có ưu điểm ở chỗ: nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua và đặt bán
ngoại tệ từ các ngân hàng khác nhau, trên cơ sở cung cấp cho khách hàng giá
chào mua và giá chào bán một cách nhanh, rộng khắp với giá tay trong (inside
rate). Tuy nhiên, giao dịch qua hình thức này có nhược điểm là: ngân hàng phải
trả cho các nhà môi giới một khoản phí làm cho chênh lệch tỷ giá mua bán hẹp
lại. Các nhà môi giới phải có giấy phép hành nghề và chỉ cung cấp dịch vụ môi
giới, chứ không được mua bán cho chính mình.
1.3.3. Ngân

hàng thương mại:
Các NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối nhằm mục đích:
Thứ nhất, nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.

KDNH thông qua việc mua bán để hưởng chênh lệch tỷ giá hay thông qua đầu
cơ trên cơ sở dự báo biến động của tỷ giá có thể đem lại lợi nhuận đáng kể cho
ngân hàng, đồng thời ngân hàng thu khoản phí dịch vụ từ khách hàng.
Thứ hai, nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối làm tăng quy mô ngân hàng thông
qua việc thúc đẩy hoạt động thanh toán và tài trợ xuất khẩu, từ đó thu hút thêm
được nhiều khách hàng cho ngân hàng.
Thứ ba, nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối còn giúp cho ngân hàng chống rủi
ro và tăng khả năng cạnh tranh thông qua việc ngân hàng có những cách thức xử
lý linh động hơn trước những biến động của giá trị đồng nội tệ và có thể cung
cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
1.3.4. Ngân

hàng trung ương (NHTW):
Có nhiều cách để một NHTW có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối.

Trong trường hợp FED, điều này thường xảy ra thông qua sử dụng các
ngoại tệ để mua vào đồng USD khi đồng USD yếu, hay bán ra đồng USD để lấy
ngoại tệ khi đồng USD mạnh để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế.
Tuỳ thuộc vào các điều kiện cụ thể của từng thị trường, NHTW có thể:
• Phối hợp hoạt động của mình với các NHTW khác hay thực hiện một
mình.
• Yêu cầu tái cam đoan hành động để làm dịu các thị trường.
4


• Can thiệp để làm thay đổi hoàn toàn, chống lại, hay nâng đỡ chiều hướng
diễn biến của thị trường.
• Thông báo hay không thông báo hoạt động của mình, rất dễ thấy, hay bí
mật.
• Điều hành một cách cởi mở hay một cách gián tiếp thông qua các môi

giới.
Các chính sách can thiệp thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc việc quản lí đặc
biệt và tuỳ từng quốc gia. Ví dụ, trong 2,5 năm đầu nhiệm kì tổng thống Clinton,
Ngân khố Hoa Kì đã can thiệp vào thị trường bằng cách mua vào USD trong 18
ngày, hết 12.5 tỷ USD. Trong khi thời tổng thống Push 1989, mua vào và bán ra
USD trong 97 ngày 19,5 tỷ USD.
1.4.













Đặc điểm kinh doanh của thị trường ngoại hối:
Forex không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lí hữu hình nhất định,
mà là bất cứ nơi đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau,
do đó, nó được gọi là thị trường không gian.
Đây là thị trường toàn cầu hay là thị trường không ngủ. Do sự chênh lệch
múi giờ giữa các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày
đêm. Thị trường bắt đầu hoạt động từ Australia, Nhật, Singapore,
Hongkong, Châu Âu, Newyork…và cứ như vậy, khi khu vực thị trường
Châu Á đóng cửa thì thị trường Châu Mỹ bắt đầu hoạt động theo một chu
kì khép kín.

Trung tâm của thị trường ngoại hối là Thị trường liên ngân hàng
(Interbank) với các thành viên chủ yếu là các NHTM, các nhà môi giới
ngoại hối và các NHTW. Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm tới
85% doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.
Các nhóm thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau liên tục
thông qua điện thoại, mạng vi tính, telex, fax…
Do thị trường có tính toàn cầu và hoạt động hiệu quả, cho nên các tỷ giá
được yết trên các thị trường khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với
nhau.
Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch là USD, chiếm tới
41.5% trong tổng số các đồng tiền tham gia (điều này cũng có nghĩa là
83% các giao dịch trên FOREX là có mặt của USD).
Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện kinh tế, chính trị, tâm lí, xã
hội… đặc biệt là các chính sách tiền tệ của các nước phát triển.
Thị trường lớn nhât, hoạt động tích cực nhất và có doanh số giao dịch cao
nhất là London, sau đó là NewYork, Tokyo, Singapore…
Mục đích nhằm kinh doanh chênh lệch tỷ giá hoặc đầu cơ tỷ giá. Trên thị
5


trường liên ngân hàng, các nhà kinh doanh có thể tiến hành hoạt động
kinh doanh chênh lệch tỷ giá hoặc đầu cơ tỷ giá.
• Kinh doanh đầu cơ tỷ giá: (Specualation) là việc mua một đồng tiền ngày
hôm nay (Spot hay Forward) và bán lại đồng tiền này tại một thời điểm
nhất định trong tương lai nhằm ăn chênh lệch tỷ giá. Vì hành vi mua bán
diễn ra tại hai thời điểm khác nhau, nên đầu cơ tạo ra trạng thái ngoại hối
mở, nên nhà đầu tư phải bỏ vốn kinh doanh và chịu rủi ro tỷ giá
• Kinh doanh chênh lệch tỷ giá : (Arbitrage) là việc tại cùng một thời điểm
mua một đồng tiền tại nơi rẻ và bán lại tại một nơi có giá cao hơn để ăn
chênh lệch tỷ giá. Vì hành vi mua vào và bán ra diễn ra tại cùng một thời

điểm, nên về mặt lý thuyết thì kinh doanh chênh lệch tỷ giá không hề chịu
rủi ro về tỷ giá và không phải bỏ vốn.
Tuy nhiên ngày nay hoạt động kinh doanh chênh lệch tỷ giá như trên là rất
khó xảy ra. Điều này là vì thông tin được truyền đi rất nhanh chóng và rộng
khắp. Mọi diễn biến trên thị trường được cập nhập và các thị trường hoạt động
ngày càng trở nên liên kết và hiệu quả với nhau.
NGHIỆP VỤ PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phái sinh là các nghiệp vụ mua bán ngoại
hối dựa trên tỷ giá được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường,
mà được bắt nguồn từ tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền.
2.

2.1. Nghiệp vụ kì hạn
2.1.1.
Khái niệm:

Nghiệp vụ kì hạn là nghiệp vụ mua và bán các đồng tiền khác nhau tại một
tỷ giá nhất định, tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Ngày giá trị kỳ hạn:
Trong thực tế kinh doanh ngoại hối, ngày giá trị (tức là ngày thanh toán) có
thể là bất kì khi nào kể từ ngày kí kết hợp đồng cho tới vài năm trong tương lai.
2.1.2.

2.1.3. Tỷ

giá có kỳ hạn:
Tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá được thỏa thuận ngay từ ngày hôm nay để làm cơ sở
cho việc trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định xa hơn ngày giá trị trao ngay.
2.2. Nghiệp vụ tương
2.2.1. Khái niệm :


lai

Hợp đồng tương lai là việc mua bán số lượng tiền tệ nhất định tại mức tỷ
giá nhất định trong tương lai.
2.2.2. Đặc

điểm:
• Tính tiêu chuẩn hóa cao
6


• Những người tham gia vào thị trường này đều phải đóng một khoản ký
quỹ, trả chi phí giao dịch tại công ty môi giới và sau đó khoản này được
ký gửi tại công ty thanh toán bù trừ.
• Việc thực hiện thanh toán thông qua công ty thanh toán bù trử của sở giao
dịch.
• Tính tiền hoa hồng trên từng thương vụ mua bán.
• Khách hàng có thể kết thúc hợp đồng bất cứ lúc nào trong thời gian có
hiệu lực của hợp đồng bằng cách ký 1 hợp đồng khác ngược lại với hợp
đồng đang có.
2.3. Nghiệp vụ quyền chọn
Quyền lựa chọn là công cụ tài chính mang lại cho người sở hữu nó có
quyền mua hoặc bán (nhưng không bắt buộc phải thực hiện) một số lượng ngoại
tệ nhất định với giá đã được thỏa thuận trước trong một khoảng thời gian hoặc
vào một ngày ấn định trong tương lai.









+

Quyền lựa chọn bao gồm quyên chọn mua và quyền chọn bán:
Quyền chọn mua: cho phép người sở hữu nó có quyền (nhưng không bắt buộc)
mua một số lượng ngoại tệ theo mức giá và trong thời gian xác định trước.
Quyền chọn bán: cho phép người mua quyền chọn bán một lượng ngoại tệ nhất
định theo giá thực hiện vào ngày giao hàng.
+ Hình thức lựa chọn:
− Kiểu Châu Âu: chỉ được thực hiện vào ngày đáo hạn.
− Kiểu Mỹ: có thể thực hiện bất kỳ ngày nào trước ngày đáo hạn.
+ Tỷ giá quyền chọn:
Exercise price or strike price (tỷ giá quyền chọn): là tỷ giá thanh toán trong
trường hợp người mua đồng ý tiến hành giao dịch. Vì vậy việc xác định tỷ giá
quyền chọn ngoài việc chịu tác động cung cầu trên thị trường mà còn phụ thuộc
vào mức phí quyền chọn là cao hay thấp (Premium) mà người mua trả cho người
bán quyền chọn.
Ngang giá quyền chọn – At the money (ATM): nghĩa là nếu bỏ qua phí quyền
chọn, khi người nắm giữ hợp đồng thực hiện quyền chọn mà không phát sinh
khoản lãi hay lỗ nào (tỷ giá quyền chọn = tỷ giá hiện hành).
Được giá quyền chọn – In the money (ITM): nghĩa là nếu bỏ qua phí quyền
chọn, khi người nắm giữ quyền thực hiện quyền chọn có lãi
Giảm giá quyền chọn – Out the money (OTM): nghĩa là nếu bỏ qua phí quyền
chọn, khi người nắm giữ quyền thực hiện quyền chọn mà chịu lỗ.
Phí hợp đồng quyền chọn: Là lượng tiền hợp lí mà người mua quyền chọn phải
trả cho người bán nhằm bù đắp rủi ro cho người bán khi thị trường ngoại hối
biến động.

+

7


2.4. Nghiệp vụ hoán
2.4.1. Khái niệm:

đổi

Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ là việc đồng thời mua vào hay bán ra một đồng
tiền nhất định, trong đó ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là hoàn toàn
khác nhau.
2.4.2. Ngày

giá trị hoán đổi:
• Ngày giao dịch giao ngay: là ngày giao dịch của giao dịch giao ngay trong
hợp đồng hoán đổi.
• Ngày giao dịch kì hạn: là ngày giao dịch của giao dịch kì hạn trong hợp
đồng hoán đổi.
• Ngoài ra còn có giao dịch kì hạn – kì hạn.
2.4.3. Tỷ giá hoán đổi:
Là tỷ giá được yết trong giao dịch nghiệp vụ hoán đổi và thường được yết là
số điểm kì hạn (swap/forward rate/points), phản ánh mức chênh lệch lãi suất của
hai đồng tiền tham gia giao dịch.
Tỷ giá giao ngay trong giao dịch hoán đổi thường được ngân hàng yết giá
quy định và thường là tỷ giá trung bình giữa tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra.
• Tỷ giá kì hạn hoán đổi mua vào = Tỷ giá spot trung bình + Điểm kì hạn
mua vào
• Tỷ giá kì hạn hoán đổi bán ra = Tỷ giá spot trung bình + Điểm kì hạn bán

ra
2.4.4. Hình thức nghiệp vụ hoán đổi:
• Nghiệp vụ hoán đổi đồng nhất (pure swap): là giao dịch trong đó, vế giao
ngay và vế kì hạn thuộc một hợp đồng hoán đổi.
• Giao dịch hoán đổi ghép (engineered swap): là giao dịch trong đó vế giao
ngay và vế kì hạn thuộc 2 hợp đồng độc lập.

8


Chương 2: Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam
Thực trạng của trị trường ngoại hối Việt Nam từ khi ra đời đến 2014.
Ngày 16/8/1991, với quyết định số 107/QĐ – NHNN do NHNN ban hành
về việc “ Thành lập trung tâm giao dịch ngoại tệ” là một mốc lớn, đánh dấu sự
hình thành của thị trường ngoại hối đầu tiên tại nước ta. Cùng với sự phát triển
không ngừng của nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ, ngày 20/9/1994 với quyết
định 203/QĐ – NH13 “ Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” được thành lập thay
thế cho trung tâm giao dịch trước kia. Sau khi Thị trường Lên ngân hàng đi vào
hoạt động tháng 10/1994, hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam đã có
nhiều khởi sắc. Tuy nhiên do còn non trẻ cùng với hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam còn hạn chế trong thời kì này, quy định biên độ dao động tỷ giá giao
ngay còn hẹp, do đó, doanh số hoạt động của thị trường ngoại hối trong các năm
1995 đến 1996 nhìn chung còn thấp, và mức tăng trưởng chưa rõ nét. Sau một
thời gian khởi động, từ cuối năm 1996 và bước sang năm 1997, họat động XNK
của Việt Nam tăng khá, thị trường ngoại hối họat động sôi động hẳn lên. Từ
tháng 8/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Tài chính – tiền tệ châu
Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối
rơi vào tình trạng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Đây
chính là một số nguyên nhân làm cho họat động của thị trường ngoại hối năm
1998 không tăng là bao so với năm 1997. Bước sang năm 1999, nền kinh tế của

các nước châu Á đã dần hồi phục sau khủng hoảng, kinh tế Việt Nam đã lấy lại
được đà phát triển. Bên cạnh đó, đầu năm 1999, NHNN đã ban hành quyết định
số 64/1999/QĐ –NHNN7 ngày 25/2/1999 về việc công bố tỷ giá của đồng Việt
Nam với các ngoại tệ, và làm thay đổi căn bản cơ chế điều hành tỷ giá, từ cơ chế
“tỷ giá chính thức” sang cơ chế “ tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng” làm cho thị trường ngoại hối thực sự trở nên sôi động hơn.
1.

Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
năm 2008 đã tác động không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị
trường ngoại hối Việt Nam nói riêng. Trong năm 2008, thị trường ngoại hối tại
Việt Nam có những đợt biến động mạnh và căng thẳng. Tỷ giá USD/VNĐ trên
thị trường tự do có lúc lên sát 19.000 VNĐ. Diễn biến này đặt trong áp lực cơ
bản: nhập siêu tăng và lạm phát tăng mạnh.
Những tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối cũng căng thẳng nhưng áp
lực trên không còn quá lớn. Trong 7 tháng đầu năm 2009, theo số liệu của Tổng
cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng CPI chỉ tăng 3,22% so với năm 2008; trong
khi tỷ giá USD/VND tăng 6,22%. Năm 2008 lạm phát của Việt Nam ở mức
9


23%, trong khi đồng Việt Nam giảm giá gần 9% so với đôla Mỹ. Năm 2009,
mức lạm phát của ta vào khoảng 5 đến 6%. Như vậy, mức mất giá của VND
được kỳ vọng cũng chỉ ở mức đó, thậm chí còn thấp hơn. Trên thực tế, ngày
25/12/2008 nhằm tạo đà xuất khẩu cho năm 2009 Ngân hàng Nhà nước phá giá
VND 3%. Ngày 24/3/2009, biên độ giao dịch được điều chỉnh từ 3% lên 5%.
Tính tổng cộng cả 2 đợt, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép khả năng VND mất
giá tới 5%.
Trên thị trường ngoại hối, năm 2011 chứng kiến lần đầu tiên trong lịch sử
Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá mạnh nhất từ 18.932 đồng đổi 1 USD lên

20.693 đồng (tăng 9.3%) và thu hẹp biên độ giao dịch từ 3% xuống còn 1% vào
ngày 11/02/2011. Việc tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã giúp thu hẹp tỷ
giá chính thức so với tỷ giá trên thị trường chợ đen vốn đã duy trì khoảng cách
từ 7%-8% trong vòng hai tháng trước đó.
Giai đoạn 2012-2013, NHNN luôn đặt mục tiêu ổn định tỉ giá trong biên độ
tăng không quá 2-3%/năm. Năm 2012 hạn chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế,
NHNN đã ban hành Thông tư số 03/TT-NHNN ngày 08/3/2012 thu hẹp các
trường hợp được vay vốn bằng ngoại tệ. Đến năm 2014, NHNN đề ra mục tiêu
tỷ giá trong biên độ không quá ±2%. Do tín dụng ngoại tệ tăng cao, giá mua bán
USD được duy trì ở mức cao, cùng với tâm lý kỳ vọng về khả năng NHNN sẽ
sớm điều chỉnh tăng tỷ giá sau những thông điệp của Thống đốc và định hướng
chính sách tỉ giá trong năm 2014, NHNN đã quyết định nâng tỉ giá chính thức
thêm 1% lên 21,246 VNĐ/USD, có hiệu lực từ ngày 19/6/2014. Đây là lần điều
chỉnh tỉ giá đầu tiên trong vòng một năm và là lần thứ 2 trong gần 3 năm 20112014.
2.

Diễn biến thị trường ngoại hối Việt Nam những năm gần đây.
2.1. Năm 2015

Đây được coi là một năm đầy biến động, nhiều thách thức trong chính sách
tiền tệ và chính sách tỉ giá trước bối cảnh USD liên tục lên giá do kỳ vọng Fed
điều chỉnh tăng lãi suất và Trung Quốc bất ngờ điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng
Nhân dân tệ, kéo theo làn sóng giảm giá mạnh của các đồng tiền của các đối tác
thương mại chính của Việt Nam. Ở trong nước, việc huy động trái phiếu Chính
phủ (TPCP) để bù đắp thâm hụt ngân sách không thành công đã đẩy lãi suất
TPCP tăng cao, tạo áp lực kép lên thị trường tiền tệ. Dư thừa thanh khoản trong
ngắn hạn trong khi lãi suất tăng cao trong dài hạn, qua đó gián tiếp cản trở mục
tiêu tiếp tục giảm lãi suất cho vay và ổn định tỷ giá. Trước tình hình đó, ngay sau
10



khi NH Trung ương Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ vào ngày 11/8, ngày
12/8, NHNN đã điều chỉnh biên độ tỉ giá giữa VNĐ và USD tăng từ ±1% lên
±2%. Tiếp đó, đón đầu các tác động bất lợi của khả năng Fed tăng lãi suất và
biến động của thị trường tài chính thế giới, ngày 19/8, NHNN đã điều chỉnh tỉ
giá bình quân liên ngân hàng giữa VNĐ và USD thêm 1%, đồng thời mở rộng
biên độ tỉ giá từ ±2% lên ±3%. Như vậy, tính chung trong năm 2015, NHNN
thực hiện điều chỉnh tăng tỉ giá 3% và nới biên độ thêm 2% từ mức ±1% lên
±3%.
2.2. Năm 2016

Thị trường ngoại hối khá ổn định trong suốt cả năm 2016, duy chỉ có biến
động nhẹ vào cuối năm do yếu tố mùa vụ và ảnh hưởng tâm lý của việc USD
tăng giá trên thị trường thế giới sau kết quả bầu Tổng thống Mỹ. Tỷ giá trung
tâm tính đến cuối tháng 11 tăng khoảng hơn 1% so với đầu năm. Tỷ giá ngân
hàng thương mại và thị trường phi chính thức cũng tăng trở lại, phổ biến ở mức
22.700 VND/USD vào cuối tháng 11, tăng khoảng 0,22% so với đầu năm.
Nguyên nhân khiến tỷ giá tăng vào thời điểm cuối năm chủ yếu do:
− Đồng đô la Mỹ liên tục lên giá so với các đồng tiền chủ chốt, đặc biệt sau
khi có kết quả chính thức của bầu cử Tổng thống Mỹ
− Nhu cầu ngoại tệ tăng trở lại theo yếu tố mùa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu
thanh toán về cuối năm và đón đầu khả năng FED tăng lãi suất vào tháng
12. Cụ thể, cầu ngoại tệ đã tăng lên, thể hiện: kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa đã chấm dứt xu hướng giảm so với năm trước và bắt đầu tăng
trở lại kể từ tháng 9; nhu cầu mua ngoại tệ để trả nợ USD trước hạn tăng
lên do lo ngại tỷ giá có biến động sau bầu cử Tổng thống Mỹ. Tuy nhiên,
nguồn cung ngoại tệ hiện đang khá dồi dào do hỗ trợ tích cực từ cán cân
thương mại thặng dư, FDI tăng khá (11 tháng năm nay ước tính đạt 14,3 tỷ
USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2015) . Cán cân thanh toán tổng thể
(CCTTTT) dự báo có sự đảo chiều tích cực so với cuối năm 2015. Cụ thể,

từ mức thâm hụt hơn 6 tỷ USD vào cuối năm 2015, CCTTTT năm 2016
ước thặng dư ở mức khá cao, tương đương với năm 2014 do cán cân
thương mại xuất siêu giảm. Bên cạnh đó, niềm tin vào VND và sự ổn định
vĩ mô ngày càng được nâng cao (phản ánh rõ qua chỉ số CDS giảm
khoảng 40% so với đầu năm). Nhờ đó, NHNN đã bổ sung được dự trữ
ngoại hối lên mức cao kỷ lục 40 tỷ USD.

11


Hình 3.1
2.3. Năm 2017

Năm 2017, tỷ giá USD/VND khá ổn định. Tính đến tháng 12/2017, tỷ giá
trung tâm ước tăng khoảng 1,5-1,7% so với đầu năm. Trong khi đó, tỷ giá
NHTM giảm khoảng 0,2%, tỷ giá thị trường tự do giảm khoảng 1,5 % so với đầu
năm. Nguyên nhân khiến tỷ giá tương đối ổn định là:
− Đồng USD mất giá trên thị trường quốc tế (chỉ số USD Index giảm 9,1%
so với đầu năm) bất chấp FED tăng lãi suất nhiều lần do tác động của
chính sách chống thâm hụt thương mại của tổng thống Trump.
− Chênh lệch giữa lãi suất VND và USD vẫn còn ở mức lớn (khoảng 6-7%),
nghiêng về việc nắm giữ VND. Huy động ngoại tệ tăng thấp, ước tăng 4%
so với cuối năm 2016, trong khi NHNN mua được khoảng 7 tỷ USD từ hệ
thống ngân hàng. Do vậy, có thể một lượng lớn ngoại tệ đã được TCKT và
cá nhân bán và chuyển sang VND.
− Cán cân thanh toán tổng thể (CCTTTT) tiếp tục thặng dư nhờ: Cán cân
thương mại tiếp tục xuất siêu (11 tháng đầu năm xuất siêu 2,84 tỷ USD);
Cán cân vốn và tài chính năm 2017 ước thặng dư ở mức khá cao (4,03%
GDP). FDI tăng khá (11 tháng năm nay ước tính đạt 14,2 tỷ USD, tăng
11,8% so với cùng kỳ năm 2016), dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng tăng

12


trưởng mạnh (cuối năm 2017 ở mức 12 tỷ USD, cao hơn mức 11,6 tỷ
USD của năm 2016).

Hình 3.2
Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia.

3.

Thực trạng về việc sử dụng các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh trên thị
trường ngoại hối Việt Nam.
3.1. Sơ lược thị trường ngoại hối phái sinh Việt Nam
Với các thị trường tài chính phát triển trên thế giới, các giao dịch tài chính

phái sinh nói chung và giao dịch ngoại hối phái sinh nói riêng không hề xa lạ đối
với các chủ thể tham gia thị trường, mà còn được coi là “một ngành công
nghiệp”. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối phái sinh vừa cung cấp dịch
vụ cho khách hàng, vừa phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho chính mình và đầu cơ kiếm
lời. Do đó, thị trường ngoại hối phái sinh toàn cầu phát triển cả về quy mô giao
dịch, chủ thể tham gia, sản phẩm ngoại hối phái sinh truyền thống và sản phẩm
phái sinh ngoại lai.

13


Thị trường ngoại hối phái sinh ở Việt nam tuy ra đời sau, chưa thực hiện
được chức năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá theo đúng yêu cầu của doanh nghiệp.
Nhưng hiện nay các giao dịch ngại hối phái sinh đã và đang phát triển, cải tiến

cả về quy mô và chất lượng.
Tỷ trọng giao dịch ngoại hối phái sinh đã có những thay đổi đáng kể, từ
mức 12,74% năm 2005 tăng lên mức hơn 20% vào năm 2008. Sở dĩ giao dịch
phái sinh có mức độ tăng đáng kể không hẳn là giao dịch phái sinh giữa ngân
hàng với khách hàng nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro ro tỷ giá, mà còn bao
gồm các giao dịch phái sinh phục vụ nhu cầu hoán đổi USD/VND đáp ứng yêu
cầu thanh khoản và một số sản phẩm phái sinh mới của ngân hàng. Hai năm
2007 - 2008, doanh số giao dịch phái sinh tăng mạnh với sự kiện các NHTM sử
dụng giao dịch quyền chọn ngoại tệ với mục đích đầu cơ. Tỷ trọng giao dịch
phái sinh tăng lên 29,31% vào năm 2010 là do từ cuối tháng 4 đến tháng 10,
NHNN thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các NHTM. Ba năm gần đây 2011 2013, các NHTMCP chú trọng tới lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, trong đó có giao
dịch phái sinh, coi đó là nguồn kiếm lời trong khi lợi nhuận từ lĩnh vực tín dụng
bị thu hẹp.
Bảng 3.3: Tỷ trọng giao dịch ngoại hối phái sinh (%)
Năm

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011


2012

2013

Spot

87,26 91,56 81,25 77,28 76,16 70,69 80,67 78,19 75,47

Derivativ
es

12,74

8,44 18,75 22,72 23,84 29,31 19,33 21,81 24,53

100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Tổng

0

0

0

0

0

0


0

0

Nguồn: Tại chí khoa học và đào tọa ngân hàng – số 154 – 12/2014

14

0


Bảng 3.4: Một số quy định về sản phẩm ngoại hối phái sinh của Việt nam
Tiêu chí

Forward

Swap

Khách hàng

- Doanh nghiệp

Doanh - Doanh nghiệp

- Doanh nghiệp và


nhân:

nghiệ

p

(Eximbank, ACB,

Option

- Doanh nghiệp và cá nhân:
(Eximbank, ACB, SCB, PG
bank)

SCB, PG bank)
Loại tiền giao 7 ngoại tệ mạnh AUD, 7 ngoại tệ mạnh AUD, GBP,
dịch

GBP, JPY, CAD, EUR, JPY, CAD, EUR, CHF, USD.
CHF, USD với VND

Không bao gồm quyền chọn
giữa USD và VND

Số lượng ngoại Không quy định

Giá trị hợp đồng tối thiểu là

tệ giao dịch

200.000 USD hoặc tương
đương với các ngoại tệ khác
(HSBC);
(Eximbank);


100.000
50.000

USD
USD

(Maritime Bank, ACB, Ocean
Bank); tương đương 10.000
USD hoặc 100 triệu VND
(Techcombank)
Thời hạn hợp Từ 3 đến 365 ngày
đồng
Mức ký quỹ

- Từ 0 - 10% trị giá hợp - Tính theo tỷ lệ % trị giá hợp
đồng

đồng

- Tính theo tỷ lệ % trị giá
15


hợp đồng (Sacombank)
Nguồn: Tại chí khoa học và đào tọa ngân hàng – số 154 – 12/2014
Bảng 3.5: Chủ thể trên thị trường ngoại hối phái sinh Việt nam
Chủ thể

Mục đích tham gia giao dịch phái sinh


NHTM

NHTM đóng vai trò truyền thống là nhà tạo lập thị trường với các
sản phẩm phái sinh ngoại hối OTC; cung cấp sản phẩm phục vụ
nhu cầu khách hàng doanh nghiệp và các định chế tài chính khác.
Mục đích tham gia giao dịch của các định chế tài chính cũng khác
nhau: với định chế tài chính nước ngoài thì mục tiêu hàng đầu là
kiếm lời; còn các định chế trong nước thì nhu cầu cơ bản lại là đa
dạng hóa danh mục đầu tư.
NHTM cũng sử dụng giao dịch ngoại hối phái sinh để kinh doanh
cho chính mình, hoặc quản trị TSC, TSN, các sản phẩm cấu trúc
bằng ngoại tệ.

NHTW

NHTW tham gia thị trường phái sinh ngoại hối cũng rất hạn chế,
chủ yếu là sử dụng nghiệp vụ SWAP, đảm bảo thanh khoản cho hệ
thống ngân hàng trong nước

Doanh

Sử dụng hợp đồng ngoại hối phái sinh để bảo hiểm rủi ro tỷ giá

nghiệp

cho các dòng tiền bằng ngoại tệ. Doanh nghiệp có thể là các công
ty XNK, doanh nghiệp vay ngoại tệ sản xuất hàng xuất khẩu hoặc
nhập khẩu hàng hóa


Cá nhân

Cá nhân có thể ký kết hợp đồng quyền chọn tiền tệ.

Nguồn: Tại chí khoa học và đào tọa ngân hàng – số 154 – 12/2014
Tại Việt Nam, các nghiệp vụ phái sinh tiền tệ đã được áp dụng trong khoảng
gần 20 năm nhưng lại bị hạn chế bởi các quy định pháp lý của NHNN chưa thực
16


sự hoàn thiện. Các giao dịch ngoại hối phái sinh chủ yếu hiện nay như kỳ hạn,
giao ngay, quyền chọn,hoán đổi vẫn còn chưa thưcj hiẹn được hết chức năng của
nó. Riêng với hợp đồng tuơng lai, trên thị trường ngoại hối Việt Nam chỉ mới
xuất hiện hợp đồng tương lai về hàng hóa qua NHTM là trung gian. Cho nên
trong phần này chúng em chỉ nghiên cứu thực trạng về việc ứng dụng các giao
dịch phái sinh kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn, giao ngay.
3.2.

Thực trạng về nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn

Ở Việt Nam giao dịch hối đoái kỳ hạn chính thức ra đời từ khi Ngân hàng
Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái kèm theo Quyết định
số 17/1998/QĐ-NHNN7 ngày 10/1/1998. Đây là thời điểm nền kinh tế Việt Nam
vừa trải qua giai đoạn tăng trưởng ngoạn mụcvà chủ trương hội nhập kinh tế
thành công vượt bậc. Ngoại thương Việt Nam phát triển khiến cho nhu cầu bảo
hiểm rủi ro ngoại hối của các doanh nghiệp cũng như ngân hàng tăng cao. Đây
là tiền đề giúp hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ phát huy hiệu quả và được chú trọng sử
dụng.
Tuy nhiên nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn vẫn chưa phát triển mạnh, chiếm tỷ
lệ rất nhỏ so với nghiệp vụ ngoại hối giao ngay. Theo thôngd kê của Ngân hàng

thanh toán quốc tế (BIS), tỷ trọng giao dịch kỳ hạn của thế giơií tăng liên tục từ
4.58% năm 1989 đến 12,08% năm 2009. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng doanh
số giao dịch kỳ hạn trong 2 năm đầu không thay đổi nhiều. Năm 1999 doanh số
giao dịch kỳ hạn chỉ đatk 425 tỷ VND, giảm 5% so với năm 1998 là 444,1 tỷ
VND. Sang năm 2000, doanh số giao dịch lỳ hạn tăng vọt 139% so với năm
1999, đạt 1015,1 tỷ VND. Từ năm 2001 tốc độ tăng trưởng giao dịch kỳ hạn
tương đối ổn định nhưng tăng không đáng kể. Năm 2008 doanh số giao dịch kỳ
hạn đạt 3428 tỷ VND chỉ tăng 16% so với năm 2007 đạt 2943 tỷ VND.
Bảng 3.6 Tỷ trọng của giao dịch kỳ hạn trên Vinforex
17

Đơn vị:%


Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011


Tỷ trọng kỳ hạn/
tổng doanh thu mua
bán.
10,6
2,8
5,5
5,6
5,6
4,9
5,2
5,5
5,6
5,7
5,9
6,0
6,5
6,9

Tỷ trọng mua bán kỳ hạn
Tổng mua bán kỳ
Mua kỳ hạn
Bán kỳ hạn
hạn
100
38
62
100
39
61
100

24
76
100
19
81
100
14
86
100
17
83
100
18
82
100
22
78
100
23
77
100
28
72
100
31
69
100
27
73
100

26
74
100
25
75

Nguồn:Tạp chí ngân hàng – số 13 – 7/2012
Tỷ trọng giao dịch kỳ hạn trên tổng doanh số mua bán chỉ có sự thanh đổi
rất nhỏ qua các năm. Giai đoạn 2007-2012 tỷtrọng này chỉ khoảng 5,5% - 6%.
Tỷ lệ mua và bán kỳ hạn có sự thay đổi qua các năm nhưng khoảng cách vẫn rất
rộng. Tính tới thời điểm ngầy 01/07/2010, nghiệp vụ mua bán ngoại tệ kỳ hạn đã
được thực hiện ở hầu hết các NHTM Việt Nam, nghiệp vụ này thường do phòng
kinh doannh ngoại tệ phụ trách và được thực hiện với tất cả các ngoại tệ ạnh như
USD, EUR, CAD, GBP, JPY, CNY, ...và các ngoại tệ chuyển đối khác theo yêu
cầu của khách hàng
Tóm lại, các giao dịch kỳ hạn được ra đời vào thời điểm nhu cầu bảo hiểm
rủi ro tỷ giá trên thị trƣờng ngoại hối tăng cao nên sớm phát huy được vai trò
của mình. Nhưng nghiệp vụ kỳ hạn tại các NHTM hầu như lại chỉ diễn ra một
chiều. Hơn nữa, giao dịch kỳ hạn vẫn chưa được áp dụng nhiều so với giao dịch
giao ngay. Điều này đặt ra vấn đề cần khắc phục những khó khăn khi sử dụng
hợp đồng kỳ hạn để nó thực sự trở thành một công cụ phòng ngừa,bảo hiểm rủi
ro ngoại hối hiệu quả.
3.3.

Thực trạng về nghiệp vụ ngoại hối hoán đổi

Tại Việt Nam, giao dịch hoán đổi tiền tệ được thực hiện theo Quyết định số
17/1998/QĐ – NHNN7 ngày 10 /01/1998. Theo đó quy định giao dich hoán đổi
ngoại tệ là giao dịch giữa hai bên, bao gồm một giao dịch mua và một giao dịch
18



bán cùng một lượng ngoại tệ, trong đó ngày thanh toán của hai giao dịch là khác
nhau, và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại ngày giao dịch. Tháng
12/2004 Giao dịch hoán đổi tiền tệ đầu tiên trên tị trường Việt Nam được thực
hiện giữa hai đồng USD và VND kày hạn 3 năm do HSBC thực hiện cho một
công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD.
Thực hiện nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ thực chất chỉ là sự kết hợp của 2 giao
dịch: giao dich 1: giao dịch giao ngay;giao dịch 2: là giao dịch giao ngay khác
ngày thực hiện hoặc giao dịch kỳ hạn. Xét trƣờng hợp cụ thể giữa 2 NHTM A và
B thực hiện một giao dịch hoán đổi đồng thời: NHTM A sẽ mua giao ngay
10.000 USD và bán lại cho NHTM B 10.000USD đó sau 3 tháng. Để thực hiện
giao dịch hoán đổi này, NHTM A sẽ mua 10.000 USD giao ngay của NHTM B
ứng với tỷ giá giao ngay. Sau 3 tháng, NHTM A sẽ bán lại số USD này cho
NHTM B với “Tỉ giá kì hạn hoán đổi = Tỷ giá giao ngay trung bình +/- swap
rate”
Eximbank thực hiện hoán đổi ngoại tệ với mức ký quỹ yêu cầu là 3% giá trị
hợp đồng cho cá giao dịch USD/VND; 7 – 10% giá trị hợp đồng cho các giao
dịch có loại ngoại tệ khác với giao dịch USD/VND. Doanh số giao dịch hoán đổi
tại VCB đã tăng lên đáng kể từ năm 1998, từ 293,59 triệu USD năm 2001 đến
542,81 triệu USD trong năm 2008, với tốc độ tăng 18,19% so với năm 2007 là
459,25 triệu USD. Tại Vietcombank (VCB) năm 2010, thu nhập từ giao dịch
hoán đổi tiền tệ chiếm 52.492 triệu đồng, tương ứng với 8,88% lãi thuần từ hoạt
động kinh doanh ngoại hối là 591.402 triệu đồng. Năm 2011, tổng giá trị hợp
đồng hoán đổi tiền tệ do VCB thực hiện lên đến 3.670.400 triệu đồng. Những
hợp đồng này đã góp phần đẩy doanh thu từ các công cụ tài chính ohái sinh tiền
tệ tại VCB năm 2011 lên 4.075 triệu đồng.
Nhìn chung, hợp đồng hoán đổi ngoại tệ vẫn giữ một mức doanh số rất
khiêm tốn trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Khi so sánh với các hợp đồng
kinh doanh ngoại tệ khác, hợp đồng hoán đổi chiếm tỉ trọng nhỏ so với hợp đồng

kì hạn, do đó, vị thế của hợp đồng hoán đổi trong tổng doanh số mua bán ngoại
tệ vẫn chưa có bước tiến rõ rệt.
Thực trạng về nghiệp vụ ngoại hối quyền chọn:
Để thực hiện được nghiệp vụ quyền chọn, bao giờ cũng cần phải có hai bên
tham gia với tƣ cách là ngƣời phát hành Option và ngƣời mua Option. Ngƣời
mua quyền chọn phải trả phí quyền chọn (premium) để hưởng quyền chọn. Mặc
3.4.

19


dù các ngân hàng cung cấp dịch vụ quyền chọn từ năm 2014 nhưng cho đến nay
loại hình này vẫn chưa phát triển mạnh.
Về quyền chọn ngoại tệ với nội tệ: tháng 4/2005, NHNN cho phép thí điểm
thực hiện quyền chọn ngoại tệ tại BIDV, ACB, VIB, với mức tối đa giá trị hợp
đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu là 10.000 USD (quy đổi ra ngoại tệ khác
tương đương mức này cho giao dịch quyền chọn giữa các ngoại tệ khác và
VND). Tính đến tháng 5/2008 đã có 7 ngân hàng (ABC, VIB, BIDV, Eximbank,
VCB, GP Bank) được phép thực hiện quyền chnj giữa ngoại tệ và VND. Mặc dù
được triển khai từ năm 2005, nhưng doanh số mua bán thực tế của các ngân
hàng thương mại không đáng kể, hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo
kiểu Mỹ vì điều kiện thanh toán linh hoạt hơn. Qua kết quả thăm dò, các ngân
hàng như ACB, Techcombank, BIDV, VIB dù là những ngân hàng tham gia các
nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ chỉ mới thực hiện được một số hợp đồng với
doanh số không đáng kể. Riêng Vietcombank và Eximbank được xem là hai
ngân hàng mạnh về lĩnh vực này nhưng doanh số hoạt động vẫn không cao. Tính
trong năm 2006 – 2007 Vietcombank chỉ đạt khoảng 3,53 triệu USD (chiếm
chưa đến 0,1% tổng doanh số giao dịch ngoại tệ), Eximbank đạt 128,12 triệu
USD (chiếm khoảng 0,8% trong tổng số giao dịch ngoại tệ). Ngày 18/3/2009,
Ngân hàng Nhà nước ban hành Văn bản số 1820/NHNN - QLNH, yêu cầu tất cả

các ngân hàng thương mại kể từ 23/3/2009 dừng thí điểm nghiệp vụ quyền chọn
ngoại tệ và VND.
Về quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, trong giai đoạn thí điểm, các NHTM
muốn thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ phải là ngân hàng đã được cấp
phép kinh doanh ngoại hối, có vốn tự có tối thiểu là 200 tỷ VNĐ, kinh doanh
ngoại tệ có lãi trong ít nhất 5 năm gần nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của
năm trước tối thiểu là 1 tỷ USD. Ngoài ra, NHTM phải lập ra quy trình nghiệp
vụ quyền chọn ngoại tệ và trình cho thống đốc NHNN chấp thuận bằng văn bản
cho thực hiện thí điểm. Theo công văn số 135/NHNN-QLNH, cho phép
Eximbank là ngân hàng đầu tiên trong cả nước được thực hiện thí điểm nghiệp
vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ. Sau Eximbank, NHNN cũng cho phép 7
ngân hàng khác thực hiện thí điểm nghiệp vụ này, gồm có hai ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam là Citibank, HSBC chi nhánh TPHCM và 5 ngân
hàng trong nước là BIDV, ACB, Vietcombank, ICB, và Agribank. Tính đến
tháng 6/2004, số lượng hợp đồng được ký kết chỉ dừng lại con số 50 hợp đồng
quyền chọn với doanh số thực hiện hơn 50 triệu USD của Eximbank ký với các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời gian thí điểm nghiệp vụ
20


quyền chọn, còn 6 ngân hàng còn lại không ký được hợp đồng nào. Từ 2004 đến
2007, mặc dù không còn giới hạn về số lượng NHTM tham gia giao dịch quyền
chọn ngoại tệ với ngoại tệ nhưng thực tế cho thấy các hoạt động mua bán này
chưa thực sự sôi động, chỉ tập trung vào chi nhánh các ngân hàng nước ngoài
như HSBC hay Citibank và một số ít NHTM Việt Nam như Eximbank,
Techcombank, còn lại các ngân hàng vẫn không có giao dịch. Từ 2007 đến nay
nghiệp vụ quyền chọn này đã mở rộng và phát triển. Điểm đáng chú ý là giới
hạn tổng lượng ngoại tệ không có giao dịch đối ứng được quy định cho VCB
trong việc thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn được tăng gấp đôi so với các
ngân hàng trước đó, và tối đa bằng 1 triệu đôla Mỹ. Các quyền chọn ngoại tệ

hiện nay được thực hiện với các ngoại tệ mạnh có khối lượng giao dịch lớn như:
USD, EUR, GBP, JPY, AUD, CNY, CHF,....

Chương 3: Thực trạng thị trường ngoại hối Trung
Quốc
Sự ra đời của thị trường ngoại hối Trung Quốc.
Năm 1994 là năm tạo bước chuyển biến quan trọng trong sự cải tổ thị
trường hối đoái Trung Quốc. Trong đó, sự duy trì và tuân theo một hệ thống tỷ
giá hối đoái tồn tại trong 15 năm qua nay đã được thay thế bởi việc thanh toán
bắt buộc (người kiếm được ngoại tệ bị buộc phải bán ngoại tệ cho NHNN còn
người sử dụng ngoại tệ có thể mua từ NHNN). Sự quản lí hệ thống tỷ giá hối
đoái thả nổi dựa trên cung cầu của thị trường đã bị bỏ qua. Vào ngày 4/4/1994,
hệ thông kinh doanh tỷ giá hối đoái CFETS bắt đầu đi vào hoạt động với dấu
hiệu là sự khai trương thị trường hối đoái liên ngân hàng có tính hợp nhất. Thành
công việc cải tổ năm 1994 khuyến khích việc hoán đổi có điều kiện của đồng
nhân dân tệ dưới tài khoản vãng lai và đưa thị trường ngoại hối thực sự đi vào
hoạt động. Vào năm 1994, Trung Quốc kết thúc việc lưu hành chứng chỉ ngoại
tệ. Vào tháng 6/1996, việc giao dịch ngoại hối của công ty đầu tư nước ngoài
được phép thâm nhập vào hệ thống mua và bán ngoại tệ, cho phép họ được mua
tự do ngoại tệ tại thị trường liên ngân hàng. Vào ngày 27/11/1996, Trung Quốc
thông báo cho Quỹ tiền tệ thế giới về việc hoán đổi đồng Nhân dân tệ dưới tài
khoản vãng lai. Vào năm 2001, hoạt động kinh doanh đồng đôla trên thị trường
cổ phiếu Trung Quốc được mở cửa đối với thị trường Trung Quốc. Hoạt động
kinh doanh đối với đồng EURO được giới thiệu vào tháng 4/2002. Sau đó vào
tháng 10/2002, tất cả công ty có đủ tư cách kinh doanh quốc tế hoặc có thu nhập
thường xuyên trên tài khoản vãng lai, được phép mở tài khoản vãng lai cho việc
nắm giữ 20% thu nhập hối đoái năm trước đó. Năm 2005 là một năm đánh dấu
1.

21



khác cho sự phát triển của thị trường ngoại hối Trung Quốc với nhiều chính sách
giải quyết khó khăn: 8 cặp ngoại tệ được bắt đầu kinh doanh giao ngay trên thị
trường liên ngân hàng vào tháng 5/2005. Đồng Nhân dân tệ bị mất giá so với
đồng đô la Mỹ và việc ghim tỷ giá đối với đồng đôla Mỹ đã được thay thế thay
đổi theo rổ các ngoại tệ vào tháng 6/2005. Sự cải tổ tháng 6 được theo sau đó là
một loạt biện pháp cải tổ thành công vào tháng 8 làm mở rộng phạm vi mua bán
ngoại tệ kì hạn và hoán đổi giữa đồng nhân dân tệ và các đồng ngoại tệ khác,
cho phép các công ty và định chế phi tài chính tham gia vào thị trường liên ngân
hàng, đồng thời bổ sung luật kinh doanh trên thị trường đấu giá ngoại tệ hiện tại
và giới thiệu hoạt động kinh doanh kì hạn, hoán đổi ngoại tệ trên thị trường liên
ngân hàng như hệ thống tạo lập thị trường. Thêm vào đó, một hệ thống tạo lập
thị trường với hi vọng dài lâu đối với việc kinh doanh giữa đồng nhân dân tệ
CNY và USD cuối cùng được giới thiệu vào 11/2005 dựa trên nền tảng của
CFETS.
Quá trình phát triển của thị trường ngoại hối Trung Quốc
Trung tâm kinh doanh ngoại hối (CEFT) bắt đầu thử nghiệm việc giao dịch
kì hạn CNY vào tháng 4/1995.
2.

“Biện pháp hành chính đối với việc thăm dò đối với hợp đồng kì hạn CNY”
vào ngày 18/1/1997 giúp điều chỉnh một cách rõ ràng hơn đối với việc kinh
doanh ngoại hối kì hạn đồng Nhân dân tệ sau đó. Đây có thể coi là bước đầu tiên
trong việc phát triển thị trường ngoại hối phái sinh trên thị trường Trung Quốc.
Việc ra đời của ngoại hối kì hạn Nhân dân tệ giúp cho các nhà xuất nhập khẩu
trong việc phòng ngừa rủi ro hối đoái.
Từ sự khởi đầu hoạt động giao dịch kì hạn vào 1997, khối lượng giao dịch
kỳ hạn ngoại hối lên tới đỉnh điểm vào năm 2000 với 11.5 tỷ đôla. Sự tăng
trưởng này phản ánh nhu cầu phòng ngừa rủi ro ngoại tệ đối với hoạt động kinh

doanh trong suốt thời kì đồng Nhân dân tệ chịu sức ép lên giá trị theo sau khủng
hoảng tài chính diễn ra ở Châu Á. Trước tình hình đó, Ngân hàng Trung ương
Trung Quốc (PBOC) đã phản ứng lại cuộc khủng hoảng bằng cách thắt chặt mức
thả nổi. Điều này đã dẫn tới mối quan hệ mang tính ổn định cao giữa đồng CNY
và USD. Dưới những điều kiện đó, nhu cầu đối với việc phòng ngừa rủi ro được
giảm bớt, kể cả với kì hạn ngoại hối. Khối lượng giao dịch kì hạn của PBOC bị
giảm bớt chỉ còn khoảng 2/3 so với đỉnh điểm của nó là 4,9 tỷ USD vào năm
2002.

22


Trong khi thị trường phái sinh các đồng tiền và lãi suất ở Châu Á vẫn còn
giai đoạn rất sớm của sự phát triển, thị trường này ở nước ngoài rất phát triển với
hàng loạt sản phẩm phái sinh. Ở đó tồn tại quan hệ rất lớn giữa sự phức tạp của
thị trường và ngăn cản của luật pháp. Hai trung tâm giao dịch lớn nhất là ở Hồng
Kông và Singapore, không nghi ngờ đó là thị trường có sản phẩm phái sinh rất
phát triển cũng như hạn chế của luật đối với thị trường này là rất thấp, trong khi
đó, tại Trung Quốc và Indonesia – các quốc gia đi sau đối với các hàng xóm
Châu Á của mình có rào cản luật pháp lớn đối với sự phát triển thị trường phái
sinh. Tại Trung Quốc, chính sách ngoại hối được quyết định bởi PBOC và
SAFE. Mặc dù trở thành người có vai trò quan trọng trong thương mại toàn cầu,
kinh tế Trung Quốc vẫn là tập thể duy trì đóng cửa đối với các nước khác. Tuy
nhiên dưới sức ép của toàn cầu vào tiền tệ quốc gia này sẽ đưa tới hệ thống tiền
tệ thả nổi tại Trung Quốc không sớm thì muộn. Tại thời điểm bấy giờ, ngân hàng
nội địa được chỉ định và ngân hàng nước ngoài đã được cho phép tham gia vào
thị trường ngoại hối giao ngay. Đối với tài khoản vãng lai, những chứng từ tài
liệu liên quan được yêu cầu cho giao dịch có trị giá được tích luỹ lại trên 1 triệu
$, trong khi tài khoản vốn yêu cầu có sự đồng ý trước tiên của cục quản lý ngoại
hối địa phương. Chỉ PBOC mới được phép cung cấp hợp đồng kì hạn ngoại hối

với kì hạn không được quá 6 tháng.
Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường ngoại hối Trung Quốc (20052010)
3.1. Một số diễn biến.
Thị trường ngoại hối Trung Quốc bị giới hạn trong phạm vi sản phẩm chủ
yếu là việc kinh doanh giao ngay đồng đôla. Trong một khoảng thời gian dài kể
từ khi được thành lập, thị trường liên ngân hàng đã đưa ra giao dịch giao ngay,
đến tháng 8/2005 thị trường liên ngân hàng kì hạn và hoán đổi chính thức được
giới thiệu. Tại thị trường bán lẻ, PBOC được phép đưa ra kì hạn ngoại hối bắt
đầu từ năm 1997, trong khi đó các ngân hàng khác được phép kinh doanh sau
năm 2002. Đến năm 2010, hoạt động kinh doanh ngoại tệ tồn tại trong 8 loại
ngoại tệ (Đồng Đôla, đôla HồngKông, Euro, Yên, đồng Bảng Anh, Đồng Frăng
Thuỵ Sỹ, đôla Úc và đôla Canada) cùng với 14 điều kiện khác nhau, thời hạn từ
7 ngày cho tới 12 tháng. Hoạt động hoán đổi ngoại tệ trên thị trường bán lẻ chỉ
được phép kinh doanh vào tháng 8/2005. Trong khi đó, việc kinh doanh quyền
chọn ngoại tệ chỉ được thực hiện trên thị trường phi tập trung OTC với doanh số
giao dịch chiếm khoảng 8% so với thị trường phái sinh phi tập trung tại Trung
Quốc.
3.

23


Trung Quốc cũng đã thực hiện một số biện pháp đẩy mạnh sự phát triển của
thị trường ngoại hối nói chung và thị trường ngoại hối phái sinh nói riêng như
việc Trung Quốc bắt đầu từ bỏ việc ghim chặt đồng nhân dân tệ, thả nổi thị
trường, giới thiệu kinh doanh ngoại hối kì hạn trên thị trường liên ngân hàng
(2005) hay Trung Quốc và CME đồng ý việc cho phép kinh doanh điện tử của
các sản phẩm ngoại hối CME và lãi suất tới các định chế tài chính Trung Quốc
và các nhà đầu tư (2006).
Một vài kết quả đạt được.

− Đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối kì hạn:
Trong nửa đầu năm 2006, có 704 giao dịch trên thị trường liên ngân hàng,
bao gồm 687 giao dịch kì hạn CNY/USD và 17 giao dịch đối với CNY/JPY. Tới
cuối năm 2006, thị trường phái sinh kì hạn ngoại hối chứng kiến sự thay đổi
doanh thu hàng tháng. Có 3 loại kì hạn ngoại hối được kinh doanh trên thị
trường, bao gồm: CNY/USD, CNY/JPY và CNY/EUR. Đồng thời, có 1476 giao
dịch trị giá 14.062 tỷ USD được tiến hành, cùng với doanh số giao dịch hàng
ngày tăng 107.14% so với năm trước đó, trị giá 58 triệu USD. Từ tháng 1 tới
tháng 6 năm 2017, doanh số giao dịch trên thị trường kì hạn ngoại hối liên ngân
hàng được mở rộng. Thị trường có 1271 giao dịch kì hạn ngoại hối trị giá 10.674
tỷ USD, tăng 69.97% so với kì này năm ngoái và 61.72% so 56 với nửa cuối
năm 2006.
3.2.

− Thị trường hoán đổi ngoại tệ liên ngân hàng:
Kể từ khi thị trường liên ngân hàng công khai thị trường hoán đổi CNY/FX
vào ngày 24/4/2006, thị trường hoán đổi chứng kiến sự phát triển nhanh chóng.
Vào cuối năm 2006, thị trường hoán đổi ngoại tệ chứng kiến tất cả 2732 giao
dịch trị giá 50.856 tỷ USD, bao gồm 2729 giao dịch CNY/USD và 3 giao dịch
CNY/EUR. Sang nửa năm đầu 2007, doanh số của thị trường hoán đổi ngoại tệ
tăng vượt bậc. Thị trường dừng lại ở 6638 giao dịch, trị giá 133.37 tỷ USD, tăng
4284.3% so với cùng kì năm ngoái và 181.37% so với nửa cuối năm 2006. Có 3
loại hoán đổi được kinh doanh trong 6 tháng: CNY/USD, CNY/HKD và
CNY/EUR. Các giao dịch tập trung vào các hoán đổi dưới 1 tháng.
Bên cạnh đó, Số lượng và trị giá các hợp đồng giao dịch kì hạn và hoán đổi
ngoại tệ tăng nhanh chóng. Cụ thể, đối với loại hình hoán đổi ngoại tệ, số lượng
và giá trị đạt tới đỉnh điểm vào cuối năm 2008 với giá trị lần lượt là 24000 giao
dịch và 440.3 tỷ USD. Còn đối với loại hình kinh doanh kì hạn ngoại hối, con số
cao nhất đối với số lượng và trị giá giao dịch lần lượt là 2952 và 22.387 tỷ USD.
24



Có thể nói thị trường ngoại hối phái sinh của Trung Quốc đã đạt thành công
rất to lớn, đặc biệt là hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng với 2 loại giao dịch kì hạn và hoán đổi ngoại tệ. Một nguyên nhân có thể
giải thích cho sự gia tăng bất ngờ này chính là kết quả của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu diễn ra vào năm 2008 khiến cho nhu cầu của các nhà kinh doanh
đối với công cụ phòng ngừa rủi ro nói chung và công cụ phòng ngừa rủi ro đối
với biến động tỷ giá tăng lên. Bên cạnh đó, các nhà quản lí của Trung Quốc cũng
đã tích cực ban hành những quy định, hiệp định để tăng cường tính thanh khoản
trên thị trường ngoại hối nói chung và thị trường ngoại hối phái sinh nói riêng
bằng việc đưa ra những điều kiện đối với các thành viên để được tham gia thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng. Điều đó đã góp phần giúp cho các giao dịch đạt
hiệu quả và chất lượng, tránh hiện tượng phá ngang hợp đồng, đảm bảo quyền
lợi giữa các bên tham gia.
Diễn biến thị trường ngoại hối phái sinh ở Trung Quốc gần đây ( 20112018)
4.1. Đối với thị trường hoán đổi tiền tệ
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008, Trung Quốc đã có những
bước đi mới nhằm thúc đẩy việc quốc tế hóa (QTH) đồng Nhân dân tệ (NDT) và
đã đạt được những bước tiến mạnh mẽ. Đến cuối năm 2014, TQ đã ký 29 thỏa
thuận hoán đổi tiền tệ song phương với các nước trên thế giới; đến tháng
10/2014, đồng NDT đã vượt qua đồng đô-la Úc và đô-la Canada để trở thành
đồng tiền được sử dụng thanh toán nhiều thứ 5 trên thế giới, gần tiếp cận với
đồng Yên Nhật. Mức độ sử dụng đồng NDT trong thanh toán quốc tế trong 2
năm qua (2012-2014) đã tăng trên 321%. Riêng năm 2014, mức tăng trên đạt
102% so với mức tăng chung 4,4% của tất cả các loại tiền tệ khác trong thanh
toán quốc tế.
4.

Lý do:

1.
2.
3.
4.
5.
6.

Giảm thiểu rủi ro về tỷ giá cho các doanh nghiệp TQ
Tăng khả năng cạnh tranh và sức mạnh của các tổ chức tài chính quốc tế
của TQ, giúp hình thành các trung tâm tài chính quốc tế tại TQ đại lục.
Thúc đẩy giao dịch kinh tế qua biên giới.
Thu lợi thông qua thuế phát hành tiền
QTH đồng NDT sẽ giúp TQ duy trì giá trị kho dự trữ ngoại hối khổng lồ
của mình.
Gia tăng ảnh hưởng chính trị của TQ tại khu vực Châu Á.

25


×