Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh viết chữ đẹp, giữ vở sạch ở lớp 1c trường THTHCS thị trấn quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 22 trang )

S
Ở GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN QUAN SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH VIẾT CHỮ ĐẸP, GIỮ VỞ
SẠCH Ở LỚP 1C TRƯỜNG TH&THCS THỊ TRẤN QUAN SƠN –
QUAN SƠN – THANH HÓA

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường TH&THCS Thị trấn
SKKN môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2017


MỤC LỤC

Nội dung

Trang

A. Mở đầu

1

1. Lý do chọn đề tài


1

2. Mục đích nghiên cứu

1

3. Đối tượng nghiên cứu

1

4. Phương pháp nghiên cứu

1

5. Những điểm mới của SKKN

2

B. Nội dung

3

1. Cơ sở lý luận

3

2. Thực trạng

4


3. Các giải pháp thực hiện

5

4. Kết quả nghiên cứu

17

C. Kết luận và kiến nghị

18

1. Kết luận

18

2. Kiến nghị

18


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tiếng Việt và Toán là hai môn học công cụ vô cùng cần thiết cho mọi lứa
tuổi học sinh, là chìa khóa để học sinh có thể mở cánh cửa bước vào lâu đài tri
thức. Ở cấp Tiểu học, môn Tiếng Việt được học nhiều giờ nhất với yêu cầu là
học sinh nắm được một công cụ cơ bản để giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày,
để tư duy trong học tập và phát triển toàn diện. Vì thế, dạy và học tốt môn Tiếng
Việt là một yêu cầu quan trọng của cấp Tiểu học
Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì bậc Tiểu học là bậc nền móng. Ở

đây học sinh được trang bị những kiến thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã
hội.
Trong các môn học ở Tiểu học hiện nay, mỗi môn học đều có một vị trí
quan trọng riêng biệt. Song các môn học lại có quan hệ mật thiết với nhau, cùng
hỗ trợ nhau để thực hiện mục tiêu giáo dục.
Cùng với môn học khác môn Tiếng Việt là môn học quan trọng với trẻ.
Thông qua môn học Tiếng Việt học sinh được rèn luyện 4 kỹ năng cơ bản đó là:
nghe, nói, đọc, viết. Bốn kỹ năng trên được chương trình “Đổi mới giáo dục”
chú trọng phát triển, đồng thời để phát triển học sinh thành con người phát triển
toàn diện.
Để phát triển một trong 4 kỹ năng trên thì phân môn Tập viết là một phân
môn quan trọng. Thông qua phân môn tập viết học sinh được làm quen, được
trang bị những kiến thức cơ bản về chữ viết và kĩ thuật viết chữ. Tập viết trang
bị cho học sinh bộ chữ cái Tiếng Việt và những yêu cầu kĩ thuật để sử dụng bộ
chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này Tập viết không những có
quan hệ mật thiết tới chất lượng các môn học khác mà còn góp phần rèn luyện
một trong những khả năng hàng đầu của việc học Tiếng Việt trong nhà trường,
khả năng viết chữ. Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có
khả năng ghi bài tốt. Nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Nếu viết xấu, tốc độ
chậm thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập.
Chữ viết và dạy viết được cả xã hội quan tâm. Nhiều thế hệ thầy cô giáo
đã trăn trở, góp công, góp sức để cải tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương
pháp dạy học viết chữ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều học sinh viết chưa đẹp viết chậm.
Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới các môn học khác. Xuất phát từ vấn đề trên
tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh viết chữ đẹp - giữ vở sạch lớp
1C trường TH&THCS Thị trấn Quan Sơn - Quan Sơn - Thanh Hóa”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài “Giúp học sinh lớp 1 viết chữ đẹp- giữ vở sạch” là để
tìm ra những giải pháp hữu hiệu giúp học sinh viết chữ đẹp, giữ vở sạch.
3. Đối tượng nghiên cứu:

Học sinh lớp 1C trường TH&THCS Thị trấn Quan Sơn - Quan Sơn Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp trực quan.
1


+ Phương pháp đàm thoại (thuyết trình).
+Phương pháp luyện tập thực hành.
+ Phương pháp kiểm tra, đánh giá HS.
+ Phương pháp thống kê.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Điểm mới cơ bản nhất trong kết quả nghiên cứu là đưa ra kiến thức cần có
để hướng dẫn học sinh viết, các biện pháp tiến hành nâng cao chất lượng viết
chữ đẹp, giữ gìn vở sạch cho học sinh lớp 1. Để từ đó giúp các em viết bài
nhanh hơn, đẹp hơn, giữ vở sạch hơn.

2


B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết, để làm chủ tiếng nói về mặt văn bản người học phải
rèn luyện cho mình năng lực đọc thông, viết thạo văn bản đó. Hai năng lực này
có quan hệ mật thiết với nhau, song hành cùng nhau. Học sinh học Tiếng Việt
phải đọc thông, viết thạo chữ quốc ngữ. Ngoài ra Tập viết còn góp phần quan
trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như: tính
cẩn thận, tinh thần kỷ luật và khiếu thẩm mỹ. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
nói: “Chữ viết là biểu hiện của nết người”. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn
thận là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình
cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình. Đối với hiện nay vấn đề viết

đúng, viết đẹp chữ Việt đang được mọi người quan tâm, nhất là đối với học sinh
lớp 1, lớp học nền móng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Vì thế vấn đề dạy
chữ viết cho các em cần được xây dựng một cách chính xác, công phu và tỉ mỉ.
Nó đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, cẩn thận và chu đáo trong mọi thao
tác.
Phân môn tập viết trong nhà trường có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững
các quy tắc và hình thành kỹ năng viết, giúp hoc sinh hình thành năng lực và
thói quen viết đúng, viết đẹp. Ngoài ra còn rèn cho học sinh một số phẩm chất
như tính cẩn thận, óc thẩm mỹ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý tiếng việt.
Phân môn tập viết có nhiệm vụ củng cố và hoàn thiện tri thức cơ bản về
hệ thống chữ viết và hệ thống ngữ âm tiếng việt. Cung cấp cơ bản về hệ thống
quy tắc chuẩn, các quy tắc nhân biết và thể hiện chức năng của chữ viết…
Đặc biệt là viết đúng mẫu theo Quyết định số: 31/2002/QĐ-BGD ngày
14/6/2002 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngay từ bậc Tiểu học, việc dạy học sinh
viết, viết đẹp là một vấn đề hết sức quan trọng góp phần hình thành cho các em
những biểu tượng ban đầu về chữ Việt. Tập viết ở Tiểu học truyền thụ cho học
sinh những kiến thức cơ bản về viết và kỹ thuật viết chữ. Trong các tiết Tập viết,
học sinh nắm bắt được những tri thức cơ bản về cấu tạo bộ chữ cái Tiếng Việt,
ghi âm Tiếng Việt, sự thể hiện bộ chữ cái này trên bảng, trên vở. Đồng thời được
hướng dẫn yêu cầu kỹ thuật, viết nét chữ, chữ cái từ và câu. Đối với lớp 1, việc
dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với dạy học vần. Học sinh luyện tập viết
chữ dưới hai hình thức chủ yếu, luyện tập viết chữ trong các tiết học âm, vần và
tập viết trong các tiết Tập viết.
Trong những năm học gần đây, phong trào “Vở sạch - Chữ đẹp” đang
được các nhà trường quan tâm, chú trọng. Do đó tôi quyết định đi sâu tìm hiểu
việc dạy và học tập viết ở lớp một để thấy được hạn chế trong kiến thức của các
em. Từ đó chọn cho mình một phương pháp dạy cho phù hợp với từng đối tượng
học sinh. Việc suy nghĩ tìm ra, vận dụng những phương pháp dạy tập viết ở lớp
1 để rèn luyện chữ viết cho các em viết đúng, viết đẹp là góp phần vào việc gìn
giữ sự trong sáng của Tiếng Việt làm cho Tiếng Việt ngày càng trong sáng và

đậm đà bản sắc dân tộc và đó cũng là mục tiêu hướng tới của việc dạy học môn
Tiếng Việt ở trường Tiểu học.
3


Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn nội dung nghiên cứu: “Một số biện
pháp giúp học sinh lớp 1C viết chữ đẹp giữ vở sạch”.
2. Thực trạng:
* Thuận lợi:
Trường Tiểu học và THCS Thị trấn thuộc địa bàn Thị trấn Quan Sơn Huyện Quan Sơn -Tỉnh Thanh Hóa là trung tâm văn hóa, chính trị của huyện
nên so với các trường trong huyện thì đây là một trường có nhiều thuận lợi hơn
về nhiều mặt: chính quyền địa phương đã quan tâm và chú trọng cho sự phát
triển giáo dục; đường xá đi lại có phần thuận lợi hơn.
Năm học 2016-2017, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 1C với
tổng số là 22 em học sinh. Trong đó chủ yếu là con em gia đình cán bộ công
chức, hộ kinh doanh và một số gia đình làm nông nghiệp nên việc học tập của
các em được gia đình quan tâm, tạo mọi điều kiện trong việc học tập, mua sắm
đồ dùng, sách vở đầy đủ, các em được gia đình đưa đón đi học hàng ngày.
* Khó khăn:
Vốn hiểu biết ban đầu của các em còn hạn chế, trình độ học sinh không
đồng đều nên gặp nhiều khó khăn trong việc kèm cặp các em học tập, đặc biệt là
trong việc dạy viết.
- Vở tập viết của học sinh còn mỏng nên rất dễ bị quăn mép, bị nhoè.
- Mẫu chữ như các nét cơ bản, tiếng, từ, cụm từ không có mẫu sẵn trong
bộ chữ Tập viết.
- Một số học sinh khu 2 Thị trấn Quan Sơn đến trường còn gặp rất nhiều
khó khăn về đường xá và phương tiện đi lại.
- Với học sinh Tiểu học mà nhất là trẻ lớp 1 còn rất hiếu động, nhạy cảm,
thường hành động theo bản năng, thiếu tập trung nên khó khăn cho giáo viên khi
hướng dẫn tỉ mỉ một vấn đề.

- Đa số các em chưa có ý thức giữ gìn sách vở.
- Một số em viết xấu, nguệch ngoạc không đúng nét.
- Các em cầm bút nhưng chưa đúng, cầm sai ngòi bút, cầm bút chặt quá,
ngồi chưa đúng tư thế, chưa biết cách để vở đúng.
- Đa số phụ huynh chưa nắm được cấu tạo chữ viết theo đúng chương
trình mới.
- Còn một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của các em.
- Góc vở, mép vở quăn do các em thường lấy tay uốn góc vở để nghịch.
- Khi viết sai các em thường tẩy xóa nhiều, đến khi dùng bút mực các em
lại bôi ra.
* Khảo sát đầu năm:
Bước đầu năm học, khi dạy xong một số chữ tôi đã tiến hành khảo sát
mức độ viết và trình bày bài của các em, thu được kết quả cụ thể như sau:
Tổng số học sinh
Kết quả đầu năm
Số lượng
Tỷ lệ %
Loại A
4
18,5
22
Loại B
13
58,5
Loại C
5
23
4



3. Các giải pháp:
* Điều kiện để hoc sinh viết
đúng: a. Tư thế ngồi viết:

- Hướng dẫn học sinh rất kỹ về tư thế ngồi viết một cách thoải mái nhất,
không gò bó, hai tay phải đặt đúng điểm tựa.
- Không được ngồi quá cao, ngồi quá thấp.
- Tuyệt đối không quỳ, nằm, ngồi viết tùy tiện.
- Ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, vai thăng bằng, đầu hơi cúi và nghiêng
sang trái, mắt cách vở khoảng 20 – 30 cm.
- Tay trái giữ vở, tay phải cầm bút.
- Hai chân để song song cho thoải mái.
- Không tỳ ngực vào bàn.
b. Cách cầm bút

5


Học sinh lớp 1C đang trong giờ tập viết
- Khi viết, khi tô, các ngón tay cầm bút và khuỷu tay di chuyển mềm mại,
thoải mái từ trái sang phải.
- Không cầm bút viết bằng tay trái.
- Các chữ viết (tô) liền mạch, không nhấc bút từng nét, từng chữ cái.
- Nhìn mẫu chữ để biết điểm bắt đầu đặt bút, chiều rê bút, điểm dừng bút
và thứ tự viết các nét đều.
- Không để ngửa bàn tay quá, không úp quá nghiêng bàn tay về bên trái.
- Cầm bút xuôi theo chiều ngồi.
- Góc độ bút đăt so với măt giấy khoảng 45 độ.
- Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 90 độ
* Luyện cách viết đúng và viết đẹp cho học sinh:

Để thực hiện được thao tác viết chữ, việc đầu tiên là giáo viên cần hướng
dẫn để các em nắm được tên gọi 13 nét cơ bản. Khi nắm được tên gọi, độ cao,
độ rộng, điểm đặt bút, điểm dừng bút, quy trình viết, mỗi nét thật sự chính xác
sẽ là cơ sở để giúp học sinh phối hợp các nét tạo thành con chữ một cách thuận
tiện, đẹp và chính xác hơn.
- Khi hướng dẫn học sinh viết các nét cơ bản, giáo viên cần đưa ra các
nhóm nét để hướng dẫn giúp các em dễ nhớ và có thể tự so sánh, đối chiếu rồi
nêu tên gọi cũng như quy trình viết các nét tương tự.
Có thể phân 13 nét cơ bản thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các nét thẳng gồm: nét ngang, nét sổ, nét xiên phải, nét
xiên trái.
Nhóm 2: Nhóm các nét móc gồm: nét móc ngược, nét móc xuôi, nét móc
hai đầu.

6


Nhóm 3: Nhóm các nét cong gồm: nét cong - hở phải, nét cong - hở trái,
nét cong kín.
Nhóm 4: Nhóm các nét khuyết gồm: nét khuyết trên, nét khuyết dưới.
Nhóm 5: Nét thắt.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết các nét trong nhóm 2 (nhóm các nét
móc) giáo viên hướng dẫn kĩ về tên gọi, điểm đặt bút, điểm dừng bút, độ cao, độ
rộng, quy trình viết các nét móc ngược, sau đó cho học sinh tự quan sát các nét
móc xuôi để thực hiện các thao tác như các nét móc ngược. Hoặc nét móc hai
đầu học sinh sẽ biết cách phối hợp hai nét trên. Trường hợp học sinh còn vướng
mắc chỗ nào giáo viên gợi ý để các em chủ động, tích cực học tập. Qua đó giúp
cho các em so sánh, khắc sâu, nhớ lâu những nét đã học.
Đồng thời với việc dạy nét cơ bản giáo viên cần hướng dẫn các em đường
kẻ ngang, đường kẻ dọc.

* Hướng dẫn cho học sinh nắm cơ bản về cấu tạo, độ cao, vị trí đặt
dấu thanh, dấu phụ của các chữ cái và chữ viết:
- Để học sinh viết đúng cỡ chữ, giáo viên phải yêu cầu học sinh nắm cấu
tạo các nét chữ, dựa vào sắp xếp các chữ cái có hình dáng tương tự (nét cơ bản
chủ yếu) vào cùng bài dạy hoặc các bài kế tiếp nhau tạo điều kiện cho các em so
sánh chữ đã biết với chữ chưa biết, tìm sự giống nhau và khác nhau để sử dụng
kiến thức và kĩ nãng vào học chữ sau để giúp các em dễ nhớ, dễ đọc và phát huy
được tính tích cực trong quy trình học vần nói chung, tập viết nói riêng.
Bảng chữ cái Tiếng Việt được xếp theo các nhóm đồng dạng như sau:
- Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong là: c, o, ô, ơ, x.
- Nhóm 2: Nhóm các chữ cái nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc
hoặc nét thẳng là “a, ă, â, d, đ, q”.
- Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc (hoặc nét xiên phối
hợp với nét móc) là: “n, m, u, ư, i, t, p”.
- Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét khuyết
phối hợp với nét thắt hoặc nét cong phối hợp với nét khuyết hoặc nét khuyết
phối hợp với nét móc) là: “l, k, b, g, h, y, e, ê”
- Nhóm 5: Nhóm các chữ cái có nét xiên, nét thắt phối hợp với nét móc
hoặc nét cong là: “r, s, v”
Kỹ năng viết chữ được luyện ở hai mức độ.
Tập viết chữ cái yêu cầu đúng cấu tạo, hình dáng, quy trình viết.
Tập viết từ ứng dụng giáo viên phải hướng dẫn học sinh viết liền mạch
các chữ cái. Viết dấu phụ, đánh dấu thanh trên hoặc dưới chữ cái.
Khi viết chữ cái giáo viên phải phân tích và gợi ý đặt câu hỏi thông qua
chữ mẫu trên bảng lớp để học sinh nhận biết và phân tích hình dáng cấu tạo của
chữ cần dạy. Giáo viên gợi ý cho các em chữ gồm mấy nét, là những nét gì? Các
nét đó như thế nào? Sự liên kết phối hợp của các nét ra sao? Điểm đặt bút, điểm
dừng bút của chữ ở vị trí nào trên dòng kẻ. Muốn cho học sinh viết đúng cỡ chữ,
liền mạch các nét của chữ cái, giáo viên phải kiểm tra, hướng dẫn tỉ mỉ để học
sinh nhớ và viết.

7


Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều hình thức
kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện, điều này giúp các em chủ động phân tích
hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau
của các chữ cái đang học và các chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm
bằng thao tác so sánh tương đồng. Chữ mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các
bài tập viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đẹp, viết đúng, khi cho học
sinh quan sát chữ mẫu là phải đúng chữ mẫu quy định, rõ ràng và đẹp.
Qua việc quan sát chữ mẫu, giúp các em phân tích hình dáng kích thước
của các nét chữ cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học.
Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ
thống câu hỏi, gợi mở từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước
chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học
với chữ cái đang phân tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ ghi âm (a) giáo viên có thể dặt câu hỏi:
- Chữ (a) gồm mấy nét? Là những nét nào? Độ cao của chữ là mấy li, độ
rộng của chữ là bao nhiêu? nét nào viết trước, nét nào viết sau?.
- Chữ (a) giống chữ (o) đã học ở những nét nào?
Đối với các câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng trả lời cho các em để
các em hiểu và viết.
- Viết dấu phụ:
Dấu ở các chữ ă, â, ê, ô đặt ở vị trí trên đầu các chữ cái. Điểm cao nhất
của dấu không quá 1/3 đơn vị, điểm thấp nhất không chạm vào đầu các chữ cái
(cách đầu chữ cái một khe hở), chiều ngang của dấu bằng 1/3 đơn vị chữ.
- Viết dấu thanh:
Các dấu: dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng. Hướng dẫn học
sinh là điểm đặt bút và dừng bút cùng nằm trên một li ngang, chiều rộng 1/3 ô.
Quy trình viết dấu thanh được thực hiện sau khi viết dấu phụ. Nghĩa là cả dấu

thanh và cả dấu phụ đều được thực hiện ngoài vùng liên kết, nhưng dấu phụ
được thực hiện trước dấu thanh.
* Hướng dẫn học sinh kĩ thuật viết:
- Khi viết các chữ cái thì phải hướng dẫn cho học sinh nắm được cấu tạo
của chữ đó về độ cao, chiều rộng của chữ, gồm có mấy nét và cách viết; điểm
đặt bút, nét nối, nét lượn, điểm kết thúc.
Đối với những chữ một nét, hướng dẫn cho học sinh phân tích cấu tạo, độ
cao, chiều rộng của chữ sau đó hướng dẫn quy trình.
Đối với những chữ gồm nhiều nét cần hướng dẫn cho học sinh phối hợp
các nét theo các trường hợp: Nối thuận lợi, nối không thuận lợi giữa các nét.
Trường hợp nối thuận lợi giữa các điểm kết thúc của nét này thuận với điểm bắt
đầu của nét tiếp theo cần hướng dẫn các em viết liền chứ không nhấc bút.
Ví dụ: Chữ “h”

8


Giáo viên hướng dẫn học sinh tập viết chữ “b”
Cấu tạo: độ cao 5 ô li nhỏ, chiều ngang rộng nhất là 3 ô li nhỏ; chữ gồm
nét khuyết trên và một nét thắt.
Cách viết: Điểm bắt đầu từ dòng kẻ ngang thứ hai tính từ dưới lên: viết
nét khuyết trên từ điểm dừng bút ở đường kẻ ngang thứ 2 tính từ dưới lên của
nét khuyết trên kéo liền lên viết nét thắt, điểm dừng bút đường kẻ ngang 2.
Ví dụ: Chữ “a”

Giáo viên đang hướng dẫn học sinh tập viết chữ “a”
Trường hợp nối không thuận lợi giữa điểm kết thúc của nét này với điểm
bắt đầu của nét tiếp theo cần hướng dẫn các em lia bút đến điểm bắt đầu của nét
tiếp theo.
9



Cấu tạo: Độ cao 2 ô li, chiều ngang rộng nhất là 2 ô li rưỡi; gồm 2 nét:
nét cong kín và một nét móc ngược.
Cách viết: Điểm bắt đầu từ dưới dòng kẻ ngang số ba viết nét khuyết trên
từ điểm dừng bút của nét khuyết trên kéo liền lên viết nét móc hai đầu, điểm
dừng bút đường kẻ ngang số 2 tính từ dưới lên.
Đối với chữ ghi tiếng, để đảm bảo tốc độ viết, người ta không thể viết rời
rạc từng chữ mà phải di chuyển dụng cụ viết đưa nét liên tục theo kĩ thuật viết
liền mạch hoặc lia bút. Viết xong chữ cái đứng trước, viết tiếp chữ cái tiếp theo
(không nhấc bút khi viết). Đánh dấu ghi thanh cuối cùng. Đối với dòng ứng
dụng, giáo viên cũng phải hướng dẫn tương tự như vậy. Vì vậy ngay từ khi học
sinh viết ghi vần, giáo viên cần hướng dẫn các em thao tác thành thói quen viết
liền nét (đối với trường hợp nối thuận lợi), lia bút hay kéo nét phụ (với trường
hợp nối không thuận).
- Trong các trường hợp viết nối thuận lợi. Đây là trường hợp các chữ cái
đứng trước và đứng sau đều có nét liên kết (gọi là nét liên kết hai đầu). khi viết
giáo viên phải chú ý hướng dẫn học sinh chỉ cần đưa tiếp nét bút từ điểm dừng
bút của chữ cái đứng trước nối sang điểm đặt bút của chữ cái đứng sau một cách
thuận lợi theo hướng dịch chuyển của nét bút từ trái sang phải.
Trong trường hợp viết nối không thuận lợi. Đó là những trường hợp nối
các chữ mà ở vị trí liên kết không thể viết các nét nối từ nét cuối của chữ cái
đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau.
Ví dụ: viết chữ ghi vần uân (u sang â )

Giáo viên kiểm tra học sinh chữ viết trên bảng con của học sinh lớp 1C

10



Học sinh lớp 1C đang trong giờ tập viết
Khi viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước, cần "lia bút" đến
điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau, rồi viết sao cho nét cong trái chạm vào điểm
dừng bút của chữ cái đứng trước.
- Chữ cái đứng trước không liên kết, chữ cái đứng sau có nét liên kết. Khi
viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước thì lia bút đến điểm bắt đầu của
chữ cái đứng sau và viết tiếp theo quy trình viết liền mạch.
Đối với những chữ không có nét liên kết thì cần hướng dẫn các em viết
khoảng cách giữa hai con chữ không được dính liền nhau nhưng cũng không
cách quá xa mà chỉ cách nhau bằng 1/3 con chữ o.
Ví dụ: Chữ xanh (x sang a)

Giáo viên đang hướng dẫn học sinh viết chữ “xanh”
11


Những trường hợp điểm dừng bút của chữ cái đứng trước cách xa và
không thuận lợi với điểm dặt bút của chữ cái đứng sau, thì hướng dẫn học sinh
phải sử dụng kĩ thuật lia bút để đảm bảo viết liền mạch.
Ví dụ: Chữ ghi tiếng “loan”

Giáo viên kiểm tra học sinh viết bài trong bảng con
Các điểm liên kết được thể hiện trong chữ “loan” như sau:
Vùng liên kết được thể hiện trong chữ “loan” được tạo bởi ba chỗ nối các
chữ cái. Chữ nối thứ nhất giữa “l” và “o” là liên kết một đầu. Điểm liên kết là
điểm dừng bút của chữ: “l”, chữ nối thứ hai giữa “o” và “a”, ở đây giữa “o” và
“a” không liên kết vì thế cần viết thêm nét nối từ “o” sang “a”, nét nối này rộng
nửa li. Chỗ thứ ba liên kết một chiều giữa a và n. Vì thế kết thúc của a và điểm
bắt đầu của n không cùng vị trí, do đó liên kết bằng cách kéo dài điểm kết thúc
của a sao cho đi qua điểm bắt đầu của n. Điểm này dừng bút chữ "loan" là điểm

kết thúc của chữ n.
- Một đặc trưng tiêu biểu của chữ cái ghi âm Tiếng Việt là có dấu phụ và
dấu thanh. Do vậy quy trình viết dấu thanh (và dấu phụ) là một khâu không thể
thiếu trong quá trình chung viết chữ ghi âm Tiếng Việt. Kĩ thuật viết dấu phụ và
dấu thanh là cũng rất quan trọng.
Như vậy, giáo viên phải lưu ý quy tắc viết dấu phụ, quy trình viết một chữ
có các dấu phụ đảm bảo cho học sinh về tốc độ viết đúng, viết đẹp. Từ điểm
dừng bút của các chữ cái (chưa có dấu phụ) cần lia bút lên viết các dấu phụ và
dấu thanh theo nguyên tắc viết dấu phụ trước, viết dấu thanh sau và viết từ trái
sang phải.
Ví dụ: Chữ ghi tiếng “liên”

12


- Từ điểm dừng bút của con chữ “l” đưa bút lên viết dấu phụ của con chữ “i”,
sau đó lia sang viết dấu phụ của con chữ “ê”, con chữ “n” và cuối cùng mới viết
dấu dấu sắc.
- Khi dạy viết từ, các câu ứng dụng, giáo viên ngoài làm việc cho học
sinh hiểu được ý nghĩa của từ, câu sẽ viết bằng giải thích ngắn gọn, cần hướng
dẫn các em nối liên kết liền mạch các chữ cái. Đây là một việc làm quan trọng.
Viết liền mạch không chỉ làm cho tốc độ viết được nâng lên mà còn đảm bảo
tính cân đối và yêu cầu thẩm mĩ của chữ viết. Trên cơ sở quan sát chữ mẫu của
giáo viên cần giúp học sinh phân tích xem trong từ đó có bao nhiêu chữ cái có
độ cao như nhau, khoảng cách giữa các chữ như thế nào? Trong từ có bao nhiêu
điểm nối các chữ cái? Điểm xuất phát (điểm đặt bút), điểm nối và điểm dừng ở
đâu?
Trong khi viết từ giáo viên không quên việc hướng dẫn học sinh khoảng
cách giữa các chữ trong từ bằng chiều ngang của con chữ o để khi viết học sinh
trình bày đúng khoảng cách.

Ví dụ: Viết từ: Tuyệt đẹp

Giáo viên đang hướng dẫn học sinh viết khoảng cách giữa các chữ
13


Từ điểm dừng bút của con chữ “t”cách ra một khoảng bằng một con chữ
“o” để viết tiếp chữ “đẹp”.
Cách viết các chữ số:
- Việc dạy viết chữ số có liên quan rất nhiều đến việc dạy toán ở tiểu học
nhất là lớp 1.
- Để có thể đọc, viết được chữ số từ 0-100, các em cần đọc và viết được
các chữ số cơ bản từ 0-9.
- Các chữ số đều cao là 2 đơn vị.
Ví dụ: Viết chữ số 5

Số mẫu
- Từ điểm đặt bút trên dòng kẻ ngang số 5, viết một sét ngang, sau đó viết
một nét sổ thẳng có độ cao 2 ô li. Điểm dừng bút ở dòng kẻ số 3, lia bút sang
phía phải viết nét cong tròn hở trái kết thúc ở dòng kẻ số 2 tính từ dưới lên.
* Hướng dẫn, kiểm tra việc sử dụng đồ dùng học tập và uốn nắn tư
thế ngồi viết cho các em.
Trước mỗi buổi học hoặc tiết học giáo viên cần cho các em kiểm tra việc
chuẩn bị đồ dùng. Việc chuẩn bị đồ dùng là việc làm hết sức quan trọng nên các
em cần được nhắc nhở và chuẩn bị đầy đủ một cách thường xuyên.
Khi học sinh viết ở bảng con, giáo viên kiểm tra phấn, khăn lau bảng,
không được dùng phấn cứng quá, khi viết các em sẽ gặp khó khăn, chữ không rõ
ràng, không đẹp. Khăn lau phải sạch sẽ có độ ẩm, được gấp nhiều lần để học
sinh dễ cầm và xóa bảng thuận lợi.
Phấn viết phải có độ dài vừa phải. Cầm và điều khiển viên phấn đúng

cách. Đoc lại chữ đã viết trước khi xóa bảng con.
Trong quá trình viết chữ trên bảng con, các em có thể tự nhận xét chữ của
mình của bạn và có thể xóa ngay chỗ sai để viết lại cho đúng, hoặc giáo viên có
thể sửa chữ ghi âm, chữ viết sai của học sinh nên lưu ý các em không viết nhỏ
quá, không viết sang mép bảng.
Khi giơ bảng cần giơ bằng một tay, ngón cái và ngón út phía trước, ba
ngón còn lại phía sau kẹp để giữ bảng, khuỷu tay quỳ xuống mặt bàn để tiện lợi
cho việc giơ và quay bảng. Khi giơ bảng học sinh thực hiện theo 3 lần hiệu lệnh.
Lần 1: Giơ bảng quay lên trên để giáo viên quan sát, kiểm tra.

14


Lần 2: Quay bảng xuống dưới để các bạn phía dưới quan sát bài của bạn
bên trên và quan sát chéo nhau để nhận xét bài cho bạn.
Lần 3: Quay bảng lên để giáo viên quan sát lại và chọn một số bài điển
hình lên bảng để lớp nhận xét.
Sau mỗi lần viết, học sinh dùng giẻ xóa nhanh bài viết để thực hiện yêu
cầu tiếp theo.
Khi viết bài vào vở, nếu là giai đoạn viết bút chì thì bút của các em phải
lựa chọn sao cho phù hợp. Thông thường các em viết bằng bút chì 2B nhưng với
một số học sinh tay các em còn yếu, giáo viên cần hướng dẫn các em lựa chọn
bút chì có độ mềm hơn một chút (có thể là bút chì 3B, 4B) để các em viết được
thuận lợi hơn. Đồng thời bút cũng được vót đúng độ viết. Khi sang giai đoạn
viết bút mực cần nhắc nhở các em chuẩn bị bút và mực một cách đầy đủ và lựa
chọn bút sao cho phù hợp.
Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần chú ý uốn nắn để các em
cầm bút đúng tư thế, ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu
hơi cuối, mắt cách vở 25 - 30cm. Khi viết, hướng dẫn học sinh cầm bút và điều
khiển bằng ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu

ngón tay phải đặt phía trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu
bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. Ba điểm tựa này giữ bút và điểu khiển
ngòi bút dịch chuyển linh hoạt.
Ngoài ra, tư thế, cách cầm bút, để vở, cách trình bày bài viết cũng là một
kĩ năng đặc thù của việc dạy tập viết mà giáo viên cần thường xuyên quan tâm.
Trước mỗi giờ thực hiện viết bài vào vở, giáo viên cần gọi 1-2 em nhắc lại
tư thế ngồi viết. Việc làm này cần được thực hiện thường xuyên để nhắc nhở các
em thực ngồi đúng tư thế nhằm tránh được các bệnh học đường. Đồng thời giúp
các em viết chữ một cách thuận lợi và dễ dàng viết đúng, viết đẹp. Như vậy bài
viết đẹp với tư thế đúng là một việc rất quan trọng.
* Cách viết mẫu của giáo viên và hướng dẫn học sinh viết vào vở. Viết
mẫu là thao tác trực quan của giáo viên trên bảng giúp học sinh nắm
bắt được quy trình viết chữ. Do vậy giáo viên cần phải viết đậm đúng theo quy
trình viết chữ, khi viết mẫu cần tạo điều kiện để học sinh quan sát được tay viết
của giáo viên từng nét chữ. Đối với những chữ có nét nối khó, giáo viên cần viết
chậm và phối hợp giảng giải cách viết để học sinh hiểu.
Sau khi quan sát và hướng dẫn mẫu trên bảng, giáo viên cần cho học sinh
quan sát một số bài viết đẹp trong vở của học sinh lớp trước để các em học tập
về cách viết, cách trình bày bài, cách giữ gìn vở.
Vở tập viết là phương tiện luyện tập, thực hành quan trọng của học sinh.
Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung cần viết trong vở để học sinh quan sát.
Hướng dẫn học sinh điểm đặt bút, khung chữ, đường kẻ của từng nội dung. Vở
tập viết đã in sẵn chữ mẫu thể hiện nội dung và yêu cầu của bài viết.
Dạy học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm kĩ
năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái, liên kết chữ cái tạo chữ ghi tiếng. Đồng
thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở ô li để hình thành kĩ
15


năng viết đúng mẫu, rõ ràng và cao hơn là viết nhanh, viết đẹp. Việc hướng dẫn

học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dế tiếp
thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước các cỡ chữ, sau đó
là viết đúng dòng và tốc độ quy định. Cần nhắc nhở các em sau khi viết xong
một chữ nên dừng lại để so sánh, đối chiếu với mẫu để sửa chữa, điều chỉnh kịp
thời. Việc rèn luyện kĩ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng
như ở nhà và các môn học khác.
* Tổ chức cho học sinh nhận xét chữ viết luyện tập:
Giáo viên nêu các câu hỏi gợi ý để học sinh quan sát chữ viết của bạn ở
bảng con, bảng lớp hoặc đổi chéo vở để kiểm tra, nhận xét về độ cao, chiều
rộng, cấu tạo chữ, nét chữ, nét nối, khoảng cách các chữ trong từ, trình bày bài
viết ...
Từ đó các em phát hiện chữ viết đẹp để học tập, thấy chỗ viết sai để tự
điều chỉnh, sửa chữa.
Giáo viên chữa lại những sai sót của các em để giúp các em viết đẹp hơn.
* Nhận xét, đánh giá bài viết của học sinh.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra bài, chữa bài, nhận xét để học sinh cố
gắng vươn lên.
Giáo viên tuyên dương, khích lệ những học sinh có bài viết đẹp để học
sinh học tập. Đối với những em còn viết xấu, giáo viên nên động viên khích lệ,
hướng dẫn cách viết cho các em, không nên chê nhiều khiến các em chán nản,
ngại viết.
Giáo viên cũng cần thường xuyên chấm “Vở sạch - Chữ đẹp” tạo ra các
phong trào thi đua để các em cố gắng vươn lên.
Tóm lại: Có rất nhiều phương pháp dạy tập viết đạt chất lượng chữ viết
cao đối với học sinh. Nếu người giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt phù
hợp với đối tượng học sinh của lớp mình phụ trách. Điều đó còn phụ thuộc vào
khả năng của học sinh và khả năng diễn đạt, truyền thụ của giáo viên.
* Khắc phục những lỗi hoc sinh thường gặp:
a. Những lỗi học sinh thường mắc phải:
- Thiếu nét, thừa nét.

- Sai nét, sai dấu.
- Sai mẫu chữ, sai khoảng cách, sai cỡ chữ, sai lỗi chính tả.
- Cách trình bày chưa đẹp, chưa đúng.
- Tốc độ chưa đúng quy định.
b. Nguyên nhân:
- Thiếu nét: Do học sinh chưa viết hết các nét đã dừng lại.
- Thừa nét: do học sinh viết sai quy trình điểm đặt bút và điểm dừng bút
chưa đúng.
Cách khắc phục: Là giáo viên phải hướng dẫn lai quy trình viết các chữ
đó cho hoc sinh.
-Sai nét: Là do học sinh cầm bút sai quy định làm cho các nét bi cong vẹo.
Sai dấu là do học sinh đánh dấu quá to, quá cao không đúng vi trí, do các em
16


không cẩn thận. Sai khoảng cách: Là do hoc sinh viết hay nhấc bút, không viết
liền mạch, đưa tay khong đều.
Cách khắc phục: Giáo viên cần nhắc HS cầm bút cao tay lên vừa phải .
Giáo viên cần quy đinh lại cách đánh dấu chữ và dấu thanh nhỏ bằng ½
đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của phần vần.
Cách khắc phục: Giáo viên cần giúp học sinh kỹ thuật viết liền mạch đưa
bút đều tay, cần quy định lại cách đánh dấu chữ và dấu thanh nhỏ bằng ½ đơn vị
chữ.
* Cách giữ vở sạch:
Để các em có được bộ vở sạch đẹp tôi đã hướng dẫn cho các em tỉ mỉ
từng bước một.
Cách mở vở, cách gấp vở làm sao không bị quăn mép, nhàu nát.
-Khi mở vở tay của các em phải sạch sẽ, không dính bẩn, không bị mồ hôi
tay. Khi viết hướng dẫn các em cần phải có giấy kê.
- Tôi thường xuyên đều có đánh giá chất lượng “vở sạch – chữ đẹp” của

các em.
- Tuyên dương những học sinh có bộ vở sạch đẹp.
- Động viên những em chưa giữ gìn cẩn thận bộ vở của mình để các em
có hướng phấn đấu tốt hơn những lần kiểm tra sau.
4. Kết quả nghiên cứu:
Qua một thời gian nghiên cứu với việc vận dụng một số biện pháp dạy
học và những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình công tác để rèn luyện
chữ viết cho học sinh lớp 1C. Tôi đã thu được kết quả của học sinh như sau:
- Một số em đầu năm học viết chữ chưa đúng, chưa đẹp đến cuối năm học
các em tiến bộ lên rất nhiều.
- Nhiều em có bộ vở sạch đẹp, không nhàu nát, không bị bẩn.
- Lớp 1C đạt tỉ lệ như sau:
- Kết quả cuối năm học đạt tỷ lệ như sau:
Tổng số học sinh
Kết quả cuối
Số lượng
Tỷ lệ %
năm
Loại A
14
64
22
Loại B
8
36
Loại C
0
Như vậy nhìn vào bảng thống kê trên để so sánh tôi thấy kết quả được
đánh giá qua quá trình dạy, rèn chữ viết cho học sinh hàng kỳ đã được nâng lên
rõ rệt.

Chất lượng đầu năm chữ viết của các em chưa đẹp. Số học sinh đạt loại C
còn nhiều, nhưng đến cuối năm chất lượng chữ viết của các em đã vượt bậc. Đó
là cả một quá trình rèn chữ viết cho học sinh mà trong năm học qua tôi đã thực
hiện.

17


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Tôi thiết nghĩ để đạt được kết quả tốt đòi hỏi người giáo viên phải có
lòng yêu nghề, mến trẻ và có sự kiên trì khéo léo khi hướng dẫn học sinh viết,
luôn mềm dẻo, động viên khích lệ các em trong khi học viết.
Giáo viên cần phải nắm chắc chắn các kĩ năng, thao tác khi hướng dẫn
viết. Đồng thời cũng cần luyện chữ viết để chữ viết mẫu không những chính
xác, đẹp mà còn cần đúng tốc độ. Giáo viên phải nắm vững các phương pháp
dạy học tập viết, nghiên cứu kĩ nội dung từng phương pháp. Lựa chọn và biết
vận dụng các phương pháp hữu hiệu phù hợp với đối tượng của học sinh lớp
mình dạy.
Giáo viên phải nhận thức được “rèn chữ đẹp” cho học sinh là một nhiệm
vụ cần thiết trong việc nâng cao chất lượng dạy và học của bậc tiểu học nhất là
đối với học sinh lớp 1; Từ đó phải có quyết tâm thực hiện tốt việc rèn cho học
sinh có nề nếp giữ gìn “vở sạch chữ đẹp”.
Trong mỗi giờ học giáo viên nên tạo ra không khí thoải mái, vui vẻ để gây
hứng thú trong học tập của học sinh.
Luôn học hỏi đồng nghiệp, tham khảo sách, báo để có kinh nghiệm phục
vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy của bản thân.
Nghề sư phạm là một nghề khoa học, đồng thời cũng là một nghề mang
tính nghệ thuật, in đậm dấu ấn tài năng của người giáo viên. Tính khoa học được
thể hiện ở khả năng quy trình hóa hoạt động thành một thao tác sư phạm. Tính

nghệ thuật thể hiện ở việc áp dụng một cách linh hoạt các phương pháp tùy
thuộc vào các hoàn cảnh cụ thể của học sinh để nâng cao chữ viết của học sinh.
Là người giáo viên tiểu học, muốn rèn kỹ năng giữ vở sạch, viết chữ đẹp
cho học sinh trước hết giáo viên phải có lòng yêu nghề, yêu trẻ, có đức tính cẩn
thận, chịu khó, kiên trì trong quá trình dạy. Phải tự mình học hỏi kinh nghiệm.
Trong phương pháp dạy học phải luôn đổi mới, để nâng cao việc rèn chữ viết,
giữ vở sạch cho học sinh.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi nhằm giúp giáo viên
tham khảo kinh nghiệm rèn chữ viết-giữ vở sạch cho học sinh lớp 1. Mong các
thầy cô và đồng nghiệp góp ý, bổ sung để nâng cao chất lượng trong viết chữ
đẹp giữ vở sạch cho học sinh lớp 1.
2. Kiến nghị:
a. Đối với nhà trường:
- Nâng cao chất lượng vở tập viết: Vở tập viết giấy mỏng, học sinh viết
bút mực bị thấm, bị nhòe.
-Nên cho học sinh chuyển ngay sang viết chữ cỡ nhỏ ở tuần thứ 22, tuần
thứ 23 để làm tiền đề cho các em viết câu lời giải về bài toán có lời văn ở tuần
thứ 22 và các em viết chính tả ở tuần thứ 25.
b. Đối với Phòng giáo dục:
- Nên thường xuyên chấm vở sạch chữ đẹp cho các em.
c. Đối với phụ huynh:
18


- Cần quan tâm nhiều hơn đến việc giữ vở sạch, rèn chữ đẹp cho học sinh.
Thị trấn, ngày 16 tháng 4 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan: Đây là SKKN
của tôi viết không sao chép nội
dung của người khác
Người viết sáng kiến


Nguyễn Thị Thu

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT,
CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ
C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thu
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường TH&THCS Thị Trấn Quan Sơn

Cấp đánh

TT

1.

Tên đề tài SKKN

Kết quả
đánh giá
giá xếp loại xếp loại
(Phòng, Sở, (A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)


Khai phác và phát triển các
bài tập trong sách giáo khoa

Phòng

nhằm bồi dưỡng tư duy cho

GD&ĐT

Năm học
đánh giá xếp
loại

B

2007 - 2008

học sinh lớp 1
2.

3.

Rèn kỹ năng viết đúng chính
tả cho học sinh lớp 1

Phòng
GD&ĐT

B


2009 - 2010

Giải pháp nâng cao chất
lượng dạy phân môn tập viết

Phòng
GD&ĐT

B

2014 - 2015

cho học sinh lớp 1

20



×