Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số biện pháp dạy học cảm thụ văn học trong chương trình dạy học tiếng việt cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.15 KB, 22 trang )

PHẦN I : MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Cũng như các môn học khác, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt trong đời
sống của học sinh Tiểu học. Thông qua môn Tiếng Việt hình thành cho các em
những kĩ năng cơ bản : Nghe, nói, đọc, viết. Đây là công cụ để học sinh tìm kiếm
khám phá và nắm vững hệ thống tri thức của các môn học khác.Đặc biệt là với
chương trình dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN).Đây là một mô hình
trường học hỗ trợ học sinh nâng cao năng lực tự học.Đọc –hiểu văn bản bước đầu
giúp học sinh nhận biết được nhiều tri thức sơ giản ,cần thiết trong quá trình học
tập ở trường cũng như trong cuộc sống.Giúp các em biết sử dụng Tiếng Việt có
hiệu quả trong học tập ,suy nghĩ và giao tiếp.
Trước khi đến trường, học sinh tiểu học đã có vốn văn học nhất định. Đây
không phải là lần đầu tiên, các em được tiếp xúc với hình tượng văn học. Ngay từ
nhỏ, học sinh đã được nghe những câu chuyện cổ tích, bài đồng dao, ca dao ... qua
lời ru của bà, của mẹ...Khi đến trường, chữ viết tiếp tục đưa các em đi xa hơn trong
việc cảm thụ văn học. Các em bắt đầu làm quen với các thao tác tìm hiểu nội dung,
nghệ thuật thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập của các bài Tập đọc, Luyện từ và
câu, Tập làm văn...
Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt ở lớp 4, tôi đã thấy được tầm quan
trọng của dạy học Tiếng Việt nói chung và bồi dưỡng thêm cho các em khả năng
cảm thụ văn học thông qua các bài thơ ,bài văn học trong chương trình. Khi đọc
một tác phẩm văn học thì điều hết sức cần thiết phải có sự rung cảm. Bởi vì, cảm
thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp
đẽ của văn học được thể hiện trong tác phẩm hay một bộ phận của tác phẩm. Như
vậy cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc(nghe) một câu chuyện, một bài thơ...ta
không những hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi ,gắn bó với
những gì đã đọc. Ở học sinh tiểu học, tình cảm, tâm hồn của các em rất hồn nhiên,
1


trong sáng, dễ xúc động trước những kích thích trong đó có kích thích thẩm mĩ.


Tuy nhiên các em cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hiện những nội dung
trừu tượng, khái quát và kĩ năng diễn đạt. Muốn HS cảm nhận được cái hay, cái
đẹp, sự sâu sắc ,…ở ngôn từ, biện pháp nghệ thuật, ở ý nghĩa trong mỗi bài văn, bài
thơ, khổ thơ, đoạn văn mà các em đã được học thì người giáo viên phải rèn được
cho các em trước hết là kĩ năng cảm thụ văn học. Qua cảm thụ, HS được tăng
cường thêm vốn từ ngữ, biết sử dụng các biện pháp tu từ trong viết bài tập làm văn
như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, liên tưởng,…và từ đó giúp các em có kĩ năng đọc
diễn cảm hơn một tác phẩm văn học nếu các em cảm thụ tốt văn bản đó.
Mặt khác, từ trước đến nay chỉ trong các kì thi dành cho học sinh giỏi môn
Tiếng Việt ở bậc tiểu học thì học sinh mới có điều kiện tiếp xúc với kĩ năng cảm
thụ văn học.Nay không còn các kì thi này nữa vậy các em lại không hoặc rất ít khi
được tiếp xúc với cảm thụ văn học chăng ? Đó là sự trăn trở của những người giáo
viên như tôi khi đứng trên bục giảng . Từ những trăn trở đó, tôi mạnh dạn đề xuất :
“Một số biện pháp dạy học sinh cảm thụ văn học trong chương trình dạy –học
Tiếng Việt cho học sinh lớp 4 ” để góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn
Tiếng Việt cho học sinh học lớp 4 nói riêng và ở tiểu học chung .
2. M ục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt ở
lớp 4.
3. Đôi tượng nghiên cưu :
- Sach Hương dẫn Tiêng Viêt 4, tai liêu giang day TV4, cac bai làm cua HS lơp 4
trương Tiêu hoc Đông Cương – Thanh phô Thanh Hoa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu bài học của học sinh ở sách HD Tiếng Việt 4, tham khảo tài liệu liên
quan,tham khảo ý kiến của đồng nghiệp,các bài làm của học sinh lớp 4,…

2


PHẦN II: NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.
- Như chúng ta đã biết con người muốn tư duy được phải có ngôn ngữ, có giao
tiếp .Muốn có giao tiếp hay ,đễ đi sâu vào lòng người thì cần có sự tư duy ,trau
chuốt trong khi dùng từ đặt câu và hiểu được một cách sâu sắc văn cảnh mình cần
sử dụng là gì.Thông tư 30 mới được ban hành của Bộ Giáo Dục về đánh giá ở môn
Tiếng Việt cho học sinh có nói : …Nói đúng nội dung cần trao đổi ; biết giao tiếp
phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng ; ứng xử thân thiện ,…Với những yêu cầu như
vậy ta càng thấy rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ trong giao tiếp .Vậy môn Tiếng
Việt sẽ giúp các em giải quyết những vấn đề trên một cách hiệu quả nhất .Giúp các
em hiểu sâu sắc hơn về một văn bản để nói, viết hay hơn ,dễ đi vào lòng người hơn.
II. THƯC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HS LỚP
4.
1.Thực trạng dạy của giáo viên.
- Trong thực tế dạy học cho thấy nội dung chủ yếu của việc dạy học Tiếng
Việt hiện nay là : Trong tiết học Tiếng Việt các em cứ hoàn thành được mục tiêu bài
học đề ra là tốt rồi.Còn việc có cảm nhận được cái hay ,cái đẹp của một tác phẩm
văn học hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên ,qua tìm hiểu tôi thấy
nhiều GV vẫẫ̃n chưa thật sự chú trọng bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học thông
qua việc dạy học các phân môn tập đọc, luyện từ và câu... Việc dạy cảm thụ văn
học trong phân môn tập đọc ở lớp 4, 5 chưa được chú trọng vì nhiều lí do: thời
lượng một tiết tập đọc ngắn, giáo viên chỉ tập trung rèn các em đọc trôi chảy và tìm
hiểu nội dung bài đọc. Mặt khác, giáo viên lớp 4, 5 dạy quá nhiều môn nên thiếu
đầu tư cho việc cảm thụ bài tập đọc mà bản thân sắp dạy. Vì vậy nội dung truyền
thụ cho HS cũng đơn giản chưa đạt đến những rung động thẩm mĩ của bài học, do
đó các em nhanh quên
2. Thực trạng học của học sinh :

3



Qua những năm được nhà trưòng phân công dạy lớp 4,5 và giảng dạy
môn Tiếng Việt cho học sinh tôi thấy : Do việc trau dồi năng lực cảm thụ văn học
cho các em còn ít nên khi tiếp xúc với văn học các em trở nên khô khan, nhàm chán
và không phát huy được khả năng cảm thụ văn học của bản thân. Nhiều em còn
ngại học và cảm thấy dạng bài này quá khó. Các em chưa biết phát hiện và thể hiện
được sự tế nhị, kín đáo trong chi tiết và hình ảnh, chưa biết diễn đạt đoạn văn theo
cảm xúc riêng của mình, mà chỉ trình bày giống như hình thức trả lời câu hỏi. Điều
này cũng bị ảnh hưởng bởi đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học do tư duy lô-gic ở
các em chưa hoàn thiện. Ngày nay học sinh thích xem phim và truyện tranh hơn
đọc các sách văn học thiếu nhi, vì vậy các em thiếu cái nền cơ bản khi cảm nhận cái
hay, cái đẹp của một văn bản .Vì vậy việc bồi dưỡng thêm về năng lực cảm thụ văn
học là giúp các em trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn; tích luỹ vốn hiểu biết
về thực tế cuộc sống và văn học và đặc biệt là rèn luyện cho các em cách viết một
bài văn có cảm xúc … Để rèn luyện cho các em đạt được những kĩ năng trên thì
mỗi GV luôn tích cực đổi mới các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối
tượng học sinh của lớp mình phụ trách ,tìm ra hướng đi đúng đắn trong sự nghiệp
giảng dạy của mình.
3. Kết quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng dạy - học trên cho thấy việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn
học cho học sinh lớp 4 còn bộc lộ nhiều hạn chế. Bản thân người dạy chưa cảm
nhận được những điều hay và lí thú qua mỗi tiết dạy để lồng ghép phần cảm thụ
văn học vào trong các bài giảng của mình . Còn học sinh chưa thật sự ham học, vốn
từ và kinh nghiệm sống còn ít. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả bài làm
của các em. Trong 2 năm được nhà trường phân công giảng dạy cho học sinh lớp
4 .Tôi thấy chất lượng còn hạn chế và kết quả các kì thi cuối kì ,cuối năm khi học
sinh viết một bài văn tả hay nêu nội dung bài đọc đã cho ở phần đọc hiểu thì kết
quả đạt được như sau :
Năm học 2013-2014 đạt điểm 9-10 : 9/34 em
4



Năm học 2014- 2015 đạt điểm 9/10: 11/37em
Bản thân tôi rất trăn trở về kết quả đạt được của trường và cần phải mạnh dạn đề
xuất giải pháp khắc phục tình hình trên.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

Qua các năm được phân công dạy lớp 4, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp sau:
1. Thông qua các tiết tập đọc, luyện từ và câu , tập làm văn việc đầu tiên là
giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản của bài học đó,tiếp đến là dành thời gian để
hướng dẫẫ̃n thêm cho các em cảm nhận được cái hay ,cái đẹp trong từng từ ngữ,từng
câu văn ,câu thơ trong bài học và bồi dưỡng cho HS vốn hiểu biết về thực tế cuộc
sống và văn học .
2. Rèn học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu có hình ảnh , viết đoạn văn tả,bài văn tả
có sử dụng biện pháp nghệ thuật và hướng dẫẫ̃n thêm các dạng bài tập cảm thụ văn
học vào các tiết thực hành Tiếng Việt.
Để khắc phục tình trạng như trên, tôi đã tiến hành một số biện pháp sau để bồi
dưỡng cho các em ở nội dung cảm thụ văn học như sau:
IV. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

1.Dạy cảm thụ văn học thông qua các tiết dạy tập đọc, luyện từ và câu
1.1 Đối với phân môn tập đọc :
Tập đọc là phân môn có vị trí quan trọng bậc nhất trong việc bồi dưỡng năng lực
cảm thụ văn học cho HS, bởi phân môn này cung cấp một khối lượng ngữ liệu văn
chương rất lớn, thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều phạm vi khác nhau…Chúng đã được
biên soạn theo hệ thống chủ điểm và theo các kiểu văn bản. Nội dung cụ thể của
cảm thụ văn học trong các bài tập đọc là học sinh được đọc trực tiếp các ngữ liệu
văn chương, tìm hiểu nội dung và nghệ thuật, đồng thời diễn đạt những suy nghĩ và
cảm xúc của mình khi trả lời các câu hỏi trong phần tìm hểu bài. Phân môn Tập đọc
còn tạo điều kiện để học sinh rung cảm, thưởng thức vẻ đẹp của hình tượng ngôn từ

thông qua giọng đọc diễn cảm, giọng ngâm tùy thuộc vào nội dung từng bài.
5


Để có thể dạy cho học sinh lớp 4 cảm thụ văn học tốt qua môn tập đọc, chúng ta
có thể sử dụng các biện pháp sau:
- Hệ thống câu hỏi phải gợi được cảm xúc, gợi liên tưởng, phát huy trí tưởng
tượng của học sinh. Giáo viên cần phải phát huy tối đa năng lực điều chỉnh tài liệu
học phù hợp cho học sinh lớp 4 thông qua chương trình VNEN . Mỗi giáo viên
phải chủ động sáng tạo, tìm tòi để đặt những câu hỏi khơi gợi học sinh tìm hiểu về
vần điệu, từ ngữ, hình ảnh, nhân vật, hành động… trong bài tập đọc.
- Gợi ý cho học sinh so sánh, chọn lựa, đánh giá, phân tích, có cách hiểu khác,
góc nhìn khác về bài tập đọc đang học nhằm phát huy năng khiếu văn học các em.
- Giáo viên đưa ra lời bình luận đủ và đúng thời điểm. Sau khi hướng dẫẫ̃n học
sinh cảm thụ bài tập đọc, giáo viên có thể cho học sinh nêu lên cảm nhận của mình
rồi sau đó đưa ra lời bình của mình về bài tập đọc để học sinh thấy lời bình của
thầy cô khác ý mình, hay hơn mình, đồng thời có sự giao lưu tình cảm giữa giáo
viên và học sinh. (Cảm nhận của mọi người được bộc lộ ra một cách gần gũi thân
thiện). Tuy nhiên giáo viên không nên lạm dụng lời bình của mình đưa ra, khéo léo
tránh tình trạng học sinh cảm thấy cảm nhận của mình dở, không hay như giáo viên
từ đó các em ngại bộc lộ suy nghĩ của mình.
- Đối chiếu bài tập đọc với các loại hình nghệ thuật khác như ca nhạc, kịch, điện
ảnh, hội họa… Học sinh hết sức thích thú khi nghe bài hát được phổ nhạc từ bài thơ
( bài Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính,bài Khúc Hát Ru Nhũng Em Bé Lớn Trên
Lưng Mẹ… mình vừa học như bài hay bài tập đọc của mình là một tác phẩm văn
học được dựng thành phim thiếu nhi (bài Ở Vương Quốc Tương Lai..…).
- Diễn đạt thành văn xuôi từ bài thơ: Các bài tập đọc là văn vần, có thể cho học
sinh diễn đạt lại bằng văn xuôi vì có cảm nhận hết cái hay của bài thơ các em mới
có thể diễn đạt lại bằng văn xuôi một cách mạch lạc, trôi chảy như bài Nàng Tiên
Ốc, …

- Đọc diễn cảm: Là thể hiện sáng tạo bài tập đọc bằng giọng đọc, nhằm tác động
đến người nghe. Vì qua thưởng thức giọng đọc, người nghe sẽ sản sinh ra những ấn
6


tượng, xúc động tự nhiên về bài tập đọc. Chính vì thế, bằng giọng đọc diễn cảm của
giáo viên sẽ tạo cho học sinh những bất ngờ hứng thú dù các em đã đọc nhiều lần
nhưng vẫẫ̃n thấy mới lạ khi nghe. Và khi cho học sinh đọc diễn cảm, đó chính là dịp
các em bộc lộ cảm xúc của bản thân qua cảm thụ của chính mình. Cần lưu ý đọc
diễn cảm không phải là khoe chất giọng mà là thể hiện xúc động từ trái tim, từ cảm
nhận chính mình. Bởi thế, không nên gò ép học sinh theo một khuôn mẫẫ̃u nhất định
nào đó.
Qua thời gian lồng ghép dạy học sinh cảm thụ văn học qua môn phân môn
tập đọc, tôi cảm thấy học sinh tỏ ra rất yêu thích giờ tập đọc, tự tin phát biểu cảm
nhận của mình, tăng vốn hiểu biết về các biện pháp nghệ thuật được dùng trong văn
chương. Theo đó, học sinh làm tốt hơn các bài tập về cảm thụ văn học và quan
trọng nhất là các em nhận ra được cái nổi bật, sâu sắc, đẹp đẽ của bài tập đọc mình
đã học cũng như thể hiện rõ tính cách của bản thân khi bộc lộ yêu ghét, đánh giá
hình ảnh, hành động, nhân vật,… có trong bài tập đọc.
Sau khi hướng dẫẫ̃n HS tìm hiểu bài tập đọc, tôi cho HS bàn luận cùng nhau trong
nhóm để nêu lên cảm nhận của mình về cái hay của bài, sau đó nhận xét , bổ sung .
Ví dụ 1 : Khi dạy bài tập đọc : Cánh diều tuổi thơ- SHD học Tiếng việt 4 –
tập 1B- trang : tôi giúp HS xác định được nội dung cảm thụ văn học qua bài văn
đó là gì?. Trước hết là cảm thụ về nội dung: Đó là niềm sung sướng và những khát
vọng tốt đẹp mà trò chơi thả diều mang lại cho đám trẻ mục đồng khi các em lắng
nghe tiếng sáo diều,ngắm những cánh diều bay lơ lửng trên bầu trời. Cảm thụ về
nghệ thuật: Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, nhất là từ ngữ chỉ âm thanh, các từ ngữ
được dùng cho miêu tả âm thanh của tiếng sáo diều được tác giả sử dụng vô cùng
tinh tế và gợi cảm và biến hóa khôn lường : Tiếng sáo diều “ vi vu trầm bổng ”
tiếng sáo diều như “nâng lên” như “ gọi thấp xuống những vì sao sớm”.Tiếng sáo

không chỉ là những âm thanh du dương được nghe bằng tai mà tiếng sáo còn như
lời mời gọi ,sự vỗ về những tâm hồn trong sáng …. Và mỗi giáo viên phải giúp học
sinh hiểu được “ Nỗi khát khao cháy bỏng trong tâm hồn của những đứa trẻ mục
7


đồng từ một trò chơi dân gian hết sức bình dị.Nó đã làm cháy lên bao khát vọng
của tuổi ngọc ngà ,bao ước mơ hoài bão của một thời mới lớn..” Nếu trong giờ dạy
tập đọc GV giúp học sinh hiểu được điều này thì khi cảm thụ bài văn này các em sẽ
làm rất tốt.
Ví dụ 2: Khi dạy bài : Đường đi Sa Pa –SHD học Tiếng Việt 4 - Tập 2BTrang 4
Đối với bài này, khi dạy GV cần xác định trọng tâm cần cảm thụ là gì để dạy
xoáy sâu vào trong nội dung đó. Cụ thể trong phần tìm hiểu bài hệ thống câu hỏi
trong tài liệu điều chỉnh mỗi giáo viên cần nêu ra được hệ thống câu hỏi để làm nổi
bật lên được những bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp của Sa Pa mà tác giả đã vẽ nên
ở trong từng câu ,chữ của bài văn. VD ở câu hỏi số 3 nên thay bằng câu hỏi sau :
Những bức tranh phong cảnh bằng ngôn ngữ trong bài thể hiện sự quan sát rất
tinh tế của tác giả .Hãy nêu một quan sát thể hiện sự tinh tế đó? Sau khi đặt câu
hỏi, HS suy nghĩ ,thảo luận và trả lời, cần hướng cho HS cảm thụ được VD: Bức
tranh ngựa rất sinh động và đẹp: “ Tôi đang lim dim mắt ngắm mấy con ngựa…
chùm đuôi cong lướt thướt liễu rủ” Bằng cách sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế và
gợi cảm bộ lông bầy ngựa trở nên đẹp rực rỡ .Từ “dịu dàng , lướt lướt liễu rủ ” làm
cho hình ảnh một bầy ngựa hiền lành được chăm sóc rất chu đáo…
Hay ở câu văn :“ Hoàng hôn áp phiên của phiên chợ thị trấn ,người ngựa dập
dìu trong sương núi tím nhạt”.rất đẹp ,rất nên thơ gợi lên cuộc sống bình yên ,êm
đềm của thị trấn .Cách viết ,cách cảm ,cách sử dụng từ láy “dập dìu” ,từ chỉ màu
sắc “ tím nhạt” rất tinh tế ,rất gợi.
Hay chỉ trong một từ ngữ được lặp đi lặp lại “ thoắt cái” đã vẽ nên trước mắt
chúng ta một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp của Sa Pa với 4 mùa Xuân ,hạ ,thu ,đông
lần lượt hiện ra “ một nét thu : lá vàng rơi trong khoảnh khắc …; Một nét đại hàn mùa

đông : Trắng long lanh một cơn mưa tuyết ….; Một nét xuân phới phới : Gió xuân hây
hẩy nồng nàn …Hoặc ở câu hỏi 5 mỗi giáo viên phải gợi ra được cho học sinh hiểu
được : “ Phải tài hoa lắm ,phải quan sát một cách tỉ
8


mỉ ,tinh tế và yêu mến thiết tha cuộc sống ,con người ,thiên nhiên nơi đây lắm thì
sử dụng được những từ ngữ và những hình ảnh “ đắt giá” đến thế và mới viết hay
như thế”. Đến phần củng cố, có thể cho HS phát biểu cảm xúc và suy nghĩ của bản
thân khi đọc bài văn, giúp HS nắm được cách trình bày : Đây là bài văn xuôi ,
giọng văn tha thiết, trầm hùng, cách dùng từ ngữ giàu hình ảnh, biết sử dụng các
biện pháp tu từ,... và hiểu ý nghĩa bài văn : Đường đi Sa Pa có bao cảnh sắc hùng vĩ
,tráng lệ hữu tình .Thiên nhiên Sa Pa thật đẹp ,quả là món quà tặng diệu kì thiên
nhiên dành cho đất nước ta.
Ví dụ 3: Khi dạy bài: Tre Việt Nam - SHD học Tiếng Việt 4 - Tập 1A Trang
63 . Mỗi giáo viên cần khéo léo dẫẫ̃n dắt học sinh tìm hiểu được : Bài văn thể hiện
một cách tuyệt đẹp những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam,dân tộc Việt
Nam : giàu tình yêu thương ,ngay thẳng ,chính trực.Được thể hiện một cách khéo
léo qua hình tượng được nhân hóa của cây tre. Giọng thơ du dương ,truyền cảm ,lời
thơ mượt mà có nhiều hình ảnh đẹp.Ngay câu mở đầu đã giải thích cho chúng ta
thấy Cây tre đã gắn bó rất lâu đời với người Việt Nam ,từ bao giờ cũng không ai
biết .Tre đã chứng kiến mọi chuyện xảy ra với con người từ ngàn xưa: (Tre xanh/
xanh tự bao giờ?/Chuyện ngày xưa …đã có bờ tre xanh).Nhưng không kém phần
đanh thép hùng hồn thể hiện được tính ngay thẳng ,tinh thần bất khuất của nhân
dân ta:được diễn tả qua các câu thơ : “ …không đứng khuất mình bóng râm ,không
chịu mọc cong ,chưa lên đã nhọn như chông ,Măng non là …đã mang dáng thẳng
thân tròn của tre”.Hình tượng cây tre còn được nhân hóa ,tượng trưng cho đức hy
sinh ,tình thương con bao la của người mẹ hiền: “ Lưng trần phơi nắng ,phơi
sương / Có manh áo cộc tre nhường cho con”.Hình ảnh “Tre già măng mọc” là sự
thật ,là niềm tin về tuổi thơ về thế hệ tương lai .Ba tiếng “xanh” trong câu cuối bài

thơ cho thấy cách dùng từ thật “tài hoa” ,thật “đắt” của tác giả khi ca ngợi vẻ đẹp
của cây tre ,ca ngợi cảnh sắc làng quê đất nước bền vững trong dòng chảy thời gian
đến muôn đời .Cách dùng điệp từ ,điệp ngữ và dấu phẩy ( mai sau,xanh )-tạo

9


ra âm hưởng nối tiếp giữa các từ ngữ ,như các dấu luyến trong âm nhạc, thể hiện sự
trường tồn ,bền vững muôn đời của đất nước Việt Nam .
GV giúp học sinh cảm nhận được : Bài thơ đã khép lại trong màu xanh hi
vọng ,màu xanh của sự sống đang nảy nở ra cả chân trời .Ta đi trong màu xanh ấy
để đến với tương lai tốt đẹp đang ở phía trước ,với niền tin yêu vào đất nước của
mình.
Nói tóm lại, muốn rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học cho HS thông qua môn tập
đọc thì GV phải hiểu được nội dung, ý nghĩa và hình thức nghệ thuật của từng bài
thơ, bài văn để hướng dẫẫ̃n các em có khả năng cảm thụ tốt.
1.2. Đối với phân môn luyện từ và câu :
Một trong những biện pháp giúp các em có năng lực cảm thụ văn học tốt là
giúp cho HS nhận biết được các biện pháp nghệ thuật và tác dụng của nó được tác
giả sử dụng trong các tác phẩm văn học. Nắm vững kiến thức về ngữ pháp Tiếng
Việt, các em sẽ không chỉ nói - viết tốt mà còn có thể cảm nhận được nét đẹp của
nội dung qua những hình thức diễn đạt sinh động và sáng tạo. Muốn HS nắm được
các biện pháp nghệ thuật đó thì thông qua việc dạy môn Tiếng việc nói chung và
phân môn luyện từ và câu nói riêng để cung cấp và bồi dưỡng cho các em. Các biện
pháp nghệ thuật thường gặp ở tiểu học là: So sánh, nhân hóa, điệp từ, đảo ngữ, lặp
từ. GV phải giúp HS có kĩ năng nhận diện các biện pháp này trong đoạn văn, đoạn
thơ.
+ Biện pháp so sánh: Là cách đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc có cùng
một dấu hiệu chung nào đó nhằm diễn tả một cách đầy đủ các hình ảnh, đặc điểm
của sự vật, hiện tượng, giúp cho việc miêu tả trở nên sinh động, gợi cảm .

Ví dụ :

Sông La ơi sông La

Trong veo như ánh mắt
Bờ tre xanh im mát \
Mươn mướt đôi hàng mi.
( Bè xuôi sông La-Vũ Duy Thông)
10


Tác giả đã lấy “ánh mắt” ( thiếu nữ ) để so sánh với nước sông trong veo
,lấy “hàng mi “(giai nhân) để ví với bờ tre ,lá tre xanh “im mát”đôi bờ sông. Hình
ảnh đưa ra làm chuẩn để so sánh ( ánh mắt ,hàng mi) gợi sự suy nghĩ liên tưởng
đẹp và giàu ý nghĩa của dòng sông: Nước sông “trong veo”; đôi bờ sông là những
hàng tre xanh biếc tỏa bóng mát.
+ Biện pháp nhân hóa: Là lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính hay hoạt động
của con người chuyển sang đối tượng không phải con người( vật vô tri, vô giác)
làm cho chúng có hành động, suy nghĩ, cảm xúc, nói năng,…như người làm cho
đối tượng được miêu tả trở nên sinh động, hấp dẫẫ̃n.
VD : Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới .
( Đoàn thuyền đánh cá-Huy Cận)
Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa qua những từ ngữ: chạy đua,đội biển
để chỉ một vật vô tri vô giác như đoàn thuyền ,mặt trời có tâm trạng, hoạt động
giống như con người nhằm diễn tả niềm vui của người dân chài vui mừng ,phấn
khởi trong một chuyến ra khơi may mắn.
+ Nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ : Điệp ngữ là cách diễn đạt một từ, một ngữ
được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần nhằm mục đích nhấn mạnh ý, khẳng định, gây ấn
tượng mạnh hoặc gợi ra cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe.

Ví dụ :

Mai sau,

Mai sau.
Mai sau,
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
( Tre Việt Nam- Nguyễn Duy )
Điệp ngữ “ mai sau” nhấn mạnh, khẳng định sự bền vững trong dòng chảy đến
muôn đời của đất nước ta.Điệp từ “xanh” khẳng định một màu xanh hi vọng ,màu
xanh của sự sống đang nảy nở cả chân trời .Ta đang đi trong màu xanh ấy để đến
với một tương lai tràn đầy hứa hẹn
11


+Nghệ thuật đảo ngữ: Nghệ thuật đảo ngữ là hình thức đảo trật tự thông thường
của cụm chủ - vị trong câu nhằm mục đích nhấn mạnh hoạt động, tính chất, trạng
thái … và làm nổi bật ý nghĩa cần diễn đạt.
Ví dụ :

Thanh khiết bầu không gian
Thanh khiết lời chim nói …
( Nghe lời chim nói - Nguyễn Trọng Hoàn)

Cả hai dòng thơ đều diễn đạt theo cách đảo vị ngữ lên trước đã góp phần nhấn
mạnh lên ý nghĩa đẹp đẽ ,sự trong lành ,yên tịnh ,bình yên của một bầu không gian
tự do ,thoáng đãng. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học thông qua phân môn Tập
đọc và LTVC, kết hợp quá trình dạy bồi dưỡng trên lớp xen kẽ giữa các tiết học,
cần giúp HS thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:
- Xác định đúng những biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ .

-Xác định đúng những từ, cụm từ, hình ảnh thể hiện biện pháp nghệ thuật đó.
- Cảm nhận được giá trị nghệ thuật làm tăng giá trị nội dung, ý nghĩa của bài văn,
bài thơ .
2. Rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn về các dạng bài tập cảm thụ văn
học.
Bồi dưỡng để nâng cao năng lực cảm thụ văn là một trong những nhiệm vụ cần
thiết đối với người học sinh giỏi nói riêng và tất cả các em học sinh học lớp 4 nói
chung . Có năng lực cảm thụ văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều nét đẹp
của văn thơ, nói - viết Tiếng Việt thêm trong sáng và sinh động. Sau khi giúp HS
nắm được các biện pháp nghệ thuật, trong quá trình dạy tôi hướng dẫẫ̃n các em các
bước viết đoạn văn cảm thụ và cách làm từng dạng bài tập cảm thụ văn học. Ở mỗi
dạng bài tập, tôi ra theo mức độ từ đơn giản đến nâng cao hơn phù hợp với khả
năng của học sinh Tiểu học. Sau khi các em đã làm thành thạo dạng 1 thì tôi mới
chuyển sang dạng tiếp theo..
Các bước để làm tốt bài tập về văn cảm thụ văn học :

12


Bước 1: Đọc kĩ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập( phải trả lời được điều gì ?
Cần nêu bật được ý gì ?...)
Bước 2: Đọc và tìm hiểu về câu thơ( câu văn ) hoặc đoạn trích được nêu trong đề
bài.( Dựa vào yêu cầu cụ thể của bài tập để tìm hiểu. VD: cách dùng từ đặt câu;
cách dùng hình ảnh chi tiết; cách sử dụng biện pháp tu từ quen thuộc như so sánh,
nhân hóa,… đã giúp em cảm nhận được nội dung, ý nghĩa gì đẹp đẽ, sâu sắc .)
Bước 3: Viết đoạn văn về cảm thụ văn học hướng vào yêu cầu của đề bài.( Đoạn
văn có thể bắt đầu bằng một câu “mở đoạn” để dẫẫ̃n dắt người đọc hoặc trả lời thẳng
vào câu hỏi chính; tiếp theo đó cần nêu rõ các ý theo yêu cầu của đề bài; cuối
cùng , có thể “ kết đoạn” lại bằng một câu ngắn gọn để gói lại nội dung cảm thụ. )
* Sau đây là một số dạng bài cảm thụ văn học cho các em học sinh lớp 4:

2.1 : Bài tập về tìm hiểu tác dụng của cách dùng từ, đặt câu sinh động
Đối với dạng bài tập này, cần hướng dẫẫ̃n cho HS xác định được các từ ngữ gợi tả
và tác dụng của các từ gợi tả trong đoạn văn, đoạn thơ đã cho; xác định được cách
dùng từ, đặt câu đặc sắc nhằm nhấn mạnh ý gì? Từ đó các em sẽ phát hiện được vẻ
đẹp của nghệ thuật và nội dung cần đoạn văn cảm thụ.
Ví dụ 1: Đọc đoạn văn : Mặt trời lên cao dần .Gió đã bắt đầu mạnh.Gió lên
,nước biển càng dữ .Khoảng mênh mông ầm ĩ càng lan rộng mãi vào .Biển cả
muốn nuốt tười con đê mỏng manh như con mập đớp con cá chim nhỏ bé.
(Thắng Biển- Theo Chu Văn)
a)Hai câu ngắn ( in đậm ) ở gần đầu đoạn văn nhằm nhấn mạnh điều gì ?
b)Từ câu 1 đến câu 5, tính chất của cơn bão biển được diễn tả như thế nào ?
+HS nắm được cái hay của cách đặt câu làm cho đoạn văn sinh động :
- Hai câu ngắn đầu đoạn văn nhằm nhấn mạnh tính chất dữ dội của những cơn gió.
- Từ câu 2 đến câu 5, tính chất của cơn bão biển được diễn tả theo mức độ ngày
càng tăng tiến ( ngày càng dữ dội, cho đến cao điểm tột cùng ).
Ví dụ 2: Đoạn văn dưới đây có gì nổi bật trong cách dùng từ? Điều đó đã góp
phần miêu tả nội dung sinh động như thế nào?
13


Từ trong hốc đá ,một mụ nhện cái cong chân nhảy ra ,hai bên có hai nhện vách
nhảy kèm .Dáng đây là vị chúa trùm nhà nhện .Nom cũng đanh đá ,nặc nô lắm.Tôi
quay phắt lưng ,phóng càng đạp phanh phách ra oai.Mụ nhện co rúm lại rồi cứ rập
đầu xuống đất như cái chày giã gạo. ( Dế Mèn bênh vực kẻ yếu –Theo Tô Hoài )
+ HS nắm được sự độc đáo trong cách dùng từ
- Các từ,cụm từ : đanh đá ,nặc nô ,cong chân nhảy ra …thể hiện sự đanh đá ,quá
quắt sẵn sàng hiếp đáp kẻ khác.
- Các từ ,cụm từ : quay phắt, đạp phanh phách ,phóng càng ,..thể hiện sự nhanh
nhẹn ,mạnh mẽ ,oai vệ sẵn sàng quyết chiến với kẻ khác.
- Các cụm từ : co rúm lại ,cúi rập đầu xuống thể hiện sự sợ sệt của một kẻ yếu khi

đứng trước cái mạnh.
Điều đó góp phần miêu tả sinh động hình ảnh của một “mụ nhện” đanh
đá ,nanh ác .Một chú “dế Mèn” oai phong luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác.
Nói tóm lại, đối với dạng bài tập này, cần giúp HS nắm vững được kiến thức từ
ngữ, ngữ pháp về câu để các em xác định đúng cách dùng các từ ngữ, câu trong
đoạn văn, đoạn thơ để nêu được ý cần cảm thụ, hoàn thành các yêu cầu của bài tập.
2.2: Bài tập phát hiện những hình ảnh, chi tiết có tác dụng gợi tả :
Đối với dạng bài tập này, cần giúp HS nắm được nội dung ý nghĩa của đoạn văn,
đoạn thơ cần cảm thụ. Từ đó phát hiện ra những hình ảnh làm nổi bật một vấn đề
nào đó theo yêu cầu của đề cho. Giúp HS nắm được hình ảnh, chi tiết đó nói lên ý
gì, có tác dụng gì trong đoạn văn, và có gì hay ,…
Ví dụ 1: Trong đoạn văn sau đây, cây phượng ở mỗi mùa đều được gợi tả bằng
hình ảnh tiêu biểu nào ? Em thích nhất hình ảnh cây phượng vào mùa nào ? Vì sao
?Mùa xuân ,phượng ra lá .Lá xanh um,mát rượi … Ngày xuân gần hết ,số hoa tăng
,màu cũng đậm dần ….màu phượng mạnh mẽ kêu vang :hè đến rồi ! Khắp thành
phố bỗng rực lên như Tết đến nhà nhà đều dán câu đối đỏ.
( Hoa học trò -Theo Xuân Diệu )

14


B

+HS nắm được nội dung đoạn : Tả sự thay đổi của cây hoa phượng theo

mùa .
+Nêu được : Cây hoa phượng ở mỗi mùa đều được tả bằng những hình ảnh tiêu
biểu:
-


Mùa xuân : Phượng ra lá ,lá xanh um ,mát rượi.

-

Ngày xuân gần hết : số hoa tăng ,màu cũng đậm dần.
Mùa hè : màu phượng mạnh mẽ kêu vang ... Khắp thành phố bỗng rực lên

như đến Tết nhà nhà được dán câu đối đỏ.
2.3: Bài tập tìm hiểu và vận dụng một số biện pháp tu từ gần gũi với học
sinh tiểu học :
- Đối với dạng bài tập này, như đã trình bày ở phần trên :
+Trước hết cần phải cung cấp đầy đủ kiến thức về luyện từ và câu cho HS ( các
kiến thức về biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa , điệp từ, điệp ngữ ; đảo ngữ,…).

+ Phân tích các biện pháp nghệ thuật đã được tác giả sử dụng trong bài văn,
thơ, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật đó có tác dụng gì, muốn làm nổi bật ý
gì ? + Sau cùng viết đoạn văn cảm thụ theo yêu cầu đã cho .
Dạng 1: Bài tập tìm hiểu và vận dụng biện pháp so sánh :
Sau khi giúp HS xác định biện pháp nghệ thuật đã sử dụng, GV cần hướng dẫẫ̃n
các em viết đoạn văn cảm thụ chứ không dừng lại ở mức độ trả lời câu hỏi.
Ví dụ : Trong đoạn văn sau, hình ảnh so sánh đã góp phần diễn tả nội dung thêm
sinh động, gợi cảm như thế nào ?
.....Màu vàng trên lưng chú lấp lánh .Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng.Cái đầu
tròn và hai mắt long lanh như thủy tinh.Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng
của nắng mùa thu....Bốn cánh khẽ rung rung như còn đang phân vân.
( Chú chuồn chuồn nước –Nguyễn Thế Hội)
+Đối với bài tập này, HS không dừng ở chỗ nắm được hình ảnh so sánh: hình
ảnh một chú chuồn chuồn nước thật là đẹp với cách sử dụng các tính từ chỉ màu sắc
màu vàng”, các tính từ chỉ tính chất ‘ mỏng” và cách sử dụng các từ láy ‘lấp
15



lánh ,long lanh”để so sánh với các bộ phận trên cơ thể chú làm cho ta thêm yêu các
con vật trong tự nhiên ở dạng trả lời câu hỏi mà HS phải viết được một đoạn văn
cảm thụ ( lưu ý khi trình bày đoạn văn cảm thụ cần nêu được cảm nghĩ của bản
thân )
VD như: Trong đoạn thơ trên, tác giả đã miêu tả một chú chuồn chuồn nước
bằng những từ ngữ rất đẹp và tỉ mỉ .Nó còn được nhân hóa ,được gọi bằng ‘
chú”.Các bộ phận trên người chú ta như cánh ,đầu ,thân ,...được so sánh với những
hình ảnh thật đắt giá.Với cách so sánh và sử dụng các từ láy đã góp phần gợi tả
hình ảnh một chú chuồn chuồn nước thật đẹp ,thật đáng yêu và thật trong sáng .Qua
hình ảnh của chú chuồn chuồn nước giúp em cảm nhận được tình yêu quê hương
đất nước của nhà văn thật mãnh liệt và sâu sắc.Nó vừa đằm thắm vừa mặn mà vừa
đậm tình quê
Dạng 2: Bài tập tìm hiểu và vận dụng biện pháp nhân hóa :
Các bước làm cũng tiến hành tương tự như trên. Trước tiên cho HS xác định
được biện pháp tu từ( nhân hóa ) có trong đoạn văn, đoạn thơ, sau đó trình bày
đoạn văn cảm thụ :
Ví dụ : Cho đoạn thơ :
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
( Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Hãy nêu cảm nhận của em về hình ảnh con người Việt Nam được khắc họa
trong đoạn thơ trên?
+ HS xác định được : Nghệ thuật được sử dụng : nghệ thuật nhân hóa
Hình ảnh nhân hóa : cây tre
+


HS cảm nhận được : Học sinh cảm nhận được bên cây tre chập chờn một hình

ảnh ảo nữa đó là hình ảnh về những con người Việt Nam – những con người từ khi
16


sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay đều gắn bó với tre ,trúc ,vầu ,...những họ
hàng thân thích của tre ,măng.Một cách so sánh rút gọn thành nhân hóa ,ẩn dụ thật
sáng tạo .Hình ảnh cây tre ,măng tre để thể hiện tính ngay thẳng bất khuất của nhân
dân ta.Cây tre được nhân hóa ,tượng trưng cho đức hi sinh ,tình thương con bao la
của người mẹ hiền. Có thể nói đoạn thơ trên đã vẽ ra bức tranh gia đình với truyền
thống bất khuất ,ngay thẳng và tình thương ,đức hi sinh của người mẹ hiền dành
cho các con thật đẹp đẽ.
+ HS viết đoạn văn cảm thụ .
D ạng 3: Bài tập vận dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ :
-Trong những câu văn, câu thơ tác giả có sử dụng điệp ngữ nhằm mục đích nhấn
mạnh ý, khẳng định, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra cảm xúc trong lòng người đọc,
người nghe. Vì vậy đối với dạng bài tập này, cần giúp các em xác định được tác giả
sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ nhằm nhấn mạnh ý gì, gợi lên cảm xúc gì ?
Ví dụ : Trong đoạn thơ dưới đây, tác giả đã dùng những điệp ngữ nào?
Những điệp ngữ đó đã có tác dụng gây ấn tượng và gợi cảm xúc gì sâu
sắc trong lòng người

đọc?

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật ,bom rung ,kính vỡ đi rồi
....Không có kính ,ừ thì ướt áo
( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến


Duật) +HS nắm được: Biện pháp nghệ thuật sử dụng : Điệp ngữ
Từ ngữ được nhắc lại trong đoạn thơ : không có kính
Tác dụng : gây ấn tượng đẹp đẽ và sâu sắc về các chiến sĩ lái xe dũng
cảm ,gan dạ .
+HS cảm nhận được: Gợi cảm xúc cho ta về nhớ những người chiến sĩ lái xe gan
dạ ,can trường ung dung và đầy tự tin , vượt lên trên sự chết chóc ,hi sinh để hoàn
thành nhiệm vụ tổ quốc giao cho
Dạng 4 : Bài tập vận dụng biện pháp đảo ngữ :
17


Đối với dạng bài tập cảm thụ này, HS cần phải xác định đúng bộ phận chủ -vị
của câu đảo ngữ. Thông qua đó để hiểu được giá trị về nội dung, ý nghĩa của câu,
nắm được tác dụng của việc đảo ngữ nhằm nhấn mạnh ý gì ?
Ví dụ : Nêu tác dụng của biện pháp đảo ngữ được sử dụng trong đoạn thơ sau :
Sông La ơi sông La
Trong veo như ánh mắt
Bờ tre xanh im mát
Mươn mướt đôi hàng mi.
‘ Bè xuôi sông La- Vũ Duy Thông”
+HS nắm được: câu thơ thứ hai và thứ tư được dùng hình thức đảo ngữ, các tính
từ “trong veo”, “mươn mướt” làm vị ngữ lại đứng trước chủ ngữ “ ánh mắt”, “đôi
hàng mi”. Các tính từ này thường diễn đạt như sau : ánh mắt trong veo, đôi hàng
mi mươn mướt. Cách diễn đạt đảo ngữ (trong veo như ánh mắt , mươn mướt đôi
hàng mi) làm cho 2 tính từ được chuyển loại (trong veo ,mươn mướt mang đặc
điểm của động từ ) có tác dụng nhấn mạnh ý miêu tả và gợi cảm xúc .
Trên đây là một số bài tập điển hình ở các dạng, ngoài ra còn một số bài tập cần
cảm thụ qua việc tìm nghệ thuật gieo vần, phát hiện ra cách đọc diễn cảm hay và
sáng tạo từ đó HS cảm nhận được nét tinh tế và giá trị nghệ thuật mà tác giả gửi
gắm vào lời thơ.

3. Kết quả đạt đượợ̣c:
Qua một thời gian giảng dạy, tôi đã tiến hành khảo sát để đánh giá kết quả học
tập và sự tiến bộ của học sinh. Tôi tiến hành khảo sát chất lượng trên lớp học của
tôi bằng một bài kiểm tra như sau:
Bài 1: Cho đoạn thơ sau :
a. Hãy nhận xét ở đoạn thơ tác giả so sánh sự vật nào với sự vật nào ? Cách so
sánh như vậy giúp em cảm nhận được điều gì ?
b. Đoạn thơ dưới đây có từ nào là từ láy ? Hãy nêu rõ tác dụng gợi tả của
mỗi từ láy đó ?
18


Trăng ơi …từ đâu đến ?
Từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà
( Trăng ơi …từ đâu đến ? – Trần Đăng khoa)
- Với đề bài trên tôi thu được kết quả như sau:
- Học sinh đạt điểm 9,10 : 17 /36 em.
- Học sinh đạt điểm 7,8 : 10 /36 em.
Qua kết quả trên, tôi thấy chất lượng HS giỏi môn Tiếng Việt lớp 4 lớp do tôi
phụ trách có chuyển biến rõ rệt. Về kiến thức từ ngữ các em đã nắm chắc và đã
quen thuộc với các dạng đề bài , khả năng viết đoạn văn cảm thụ được nâng cao.
Đặc biệt, trong năm học 2015 – 2016 vừa qua, học sinh do lớp tôi phụ trách đạt
điểm 9,10 ở kì thi cuối kì I ở môn Tiếng Việt đạt 18 em/ 36 em . Đó là kết quả đáng
khích lệ cho cô trò chúng tôi tiếp tục cố gắng nỗ lực và hoàn thiện hơn trong các
năm tiếp theo.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện đề tài này, qua các năm được
phân công giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 4, tôi vừa làm vừa rút ra kinh nghiệm để

điều chỉnh cách dạy sao cho hoàn thiện hơn.
1. Kết luận :
* Từ thực tế áp dụng một số biện pháp dạy học nâng cao năng lực cảm thụ văn
học cho HS lớp 4 , bản thân tôi cũng rút ra được một số kết luận sau :
- Muốn HS học giỏi môn Tiếng việt nói chung và cảm thụ văn học nói riêng có
hiệu quả, trước hết GV phải nắm vững kiến thức - kĩ năng thực hành Tiếng việt,
phải có vốn sống, vốn cảm xúc phong phú.
- Tạo cho HS niềm say mê môn Tiếng việt và thói quen ham đọc sách. HS cần
nhiều loại sách để tham khảo .

19


- Phải cung cấp đầy đủ kiến thức về LTVC cho HS. Trong phân môn Tập đọc, cần
thực hiện tốt việc đọc diễn cảm và khai thác tốt nội dung tác phẩm, giúp HS cảm
nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm .
- Trong giai đoạn học tập và giảng dạy hiện nay của trường tôi theo mô hình trường
học mới VNEN ,mỗi giáo viên nên điều chỉnh tài liệu ,hệ thống câu hỏi trong các
tiết học Tiếng Việt một cách phù hợp nhất để trau dồi kiến thức và kĩ năng học
Tiếng Việt nói chung và cảm thụ văn nói riêng cho học sinh.
2.Kiến nghị:
* Mỗi giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, nội dung bài dạy,
soạn bài chu đáo trước khi lên lớp. Không ngừng nâng cao tay nghề, tự học , bồi
dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn.
- Nên tổ chức dạy lồng ghép tập cho học sinh cảm nhận cái hay ,cái đẹp của mỗi
tác phẩm văn học trong các tiết học Tiếng Việt cho học sinh từ lớp 2,3.
- Mặc dù khi nghiên cứu, bản thân tôi đã có những cố gắng để hoàn thiện song do
khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên tôi chỉ mới nêu được một số biện pháp
để góp phần điều chỉnh cách dạy học Tiếng Việt ở lớp 4 để nâng cao chất lượng
cảm nhận một văn bản nghệ thuật cho học sinh học để các em viết hay hơn và nói

hay hơn . Trong sáng kiến này còn có gì khiếm khuyết rất mong được sự góp ý
nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp, các cấp quản lí giáo dục và hội đồng khoa học
cấp trên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh hoá, ngày 10 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết ,không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

20


Lê Thị Cúc

MỤC LỤC
Phần I : Mở đầu
Phần II: Nội dung
I. Cơ sở lí luận của vấn đề.
II. Thực trạng của việc dạy học cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4.
III. Các giải pháp thực hiện
IV. Các biện pháp thực hiện
1. Dạy cảm thụ văn học thông qua các tiết dạy tập đọc, luyện từ và câu
2. Rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn về các dạng bài tập cảm thụ văn
học Phần III: Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị


21


22



×