Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Đồ án tốt nghiệp: Nghiên cứu tái sinh dầu nhờn thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 102 trang )

Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

MỞ ĐẦU
Chúng ta biết rằng: với bất kỳ một cơ thể sống nào muốn sống và hoạt
động được thì nhất thiết phải có nguồn thức ăn để nuôi cơ thể. Đối với các
trang thiết bị máy móc, động cơ cũng vậy, dầu nhờn chính là nguồn "thức ăn"
không thể thiếu và rất cần thiết cho chúng và cho một nền công nghiệp hóa
hiện đại hóa trên toàn thế giới. Và từ thuở xa xưa, các bậc thiên tài đã nghiên
cứu và đúc kết nghiên cứu của mình một cách ngắn gọn, song rất hàm xúc
dưới dạng ca dao tục ngữ lưu truyền cho đến ngày nay, đó là:
" Không bôi trơn thì không đi được".
Với câu nói trên, chúng ta đã nhận ra được vai trò và tầm quan trọng
không thể thiếu của dầu nhờn trong quá trình hoạt động của các loại máy
móc thiết bị và động cơ cũng như ý nghĩa và mục đích sử dụng dầu nhờn.
Hơn thế nữa, ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại của khoa học và
công nghệ, với nền công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển và xâm nhập
vào mọi hang cùng ngỏ hẻm trên toàn thế giới cũng như xu hướng quốc tế
hóa đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu thì dầu nhờn đòi hỏi cần
phải được nghiên cứu nhiều hơn để cho ra nhiều chủng loại dầu nhờn khác
nhau với số lượng và chất lượng ngày càng đáp ứng được nhu cầu sử dụng
hiện nay.
Theo thông kê năm 1997 [13], toàn thế giới sử dụng mỗi năm gần 40
triệu tấn dầu nhờn, trong đó có 60% là dầu nhờn động cơ. Khu vực sử dụng
nhiều dầu nhờn nhất là Châu Âu 34%, Châu Á 28%, Bắc Mỹ 25%, còn các
khu vực khác chiếm 13%. Với các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
hằng năm, sử dụng 8 triệu tấn. Tăng trưởng hằng năm là từ 5 - 6%. Đứng đầu
là Nhật Bản với 29.1%, tiếp theo sau là Trung Quốc 26%, ấn Độ 10%, Hàn
Quốc 8%, Úc 5%, Thái Lan 4.6%, Inđonesia 4.5%, Malaysia 1.8% và Việt
Nam chúng ta khoảng 1.5%.


Cụ thể, hàng năm thị trường Việt Nam tình hình tiêu thụ khoảng
110.000 - 120.000 tấn dầu nhớt các loại. Nhu cầu tiêu thụ của Việt Nam trong
những năm qua cụ thể như sau [13-trang 176, 15 - trang 117]:
Bảng 1:

Nhu cầu dầu nhờn Việt Nam (ngàn tấn).

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần1Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

Năm

Mức tiêu thụ (tấn)

1992

54.000

1993

65.000

1994


72.000

1995

85.000

2000

141.000

2005

207.000 (dự báo)

2010

316.000 (dự báo)

Như vậy, với một nước đang phát triển như nước ta thì với số liệu vừa
nêu trên thì không phải là một con số khiêm tốn. Và toàn bộ lượng dầu đã sử
dụng này là do nước ta nhập từ nước ngoài dưới dạng dầu nhờn gốc và phụ
gia về tự pha chế hoặc dầu nhờn thành phẩm. Và hầu như là toàn bộ lượng
dầu nhờn sau khi sử dụng thì lại bị thải trực tiếp ra ngoài môi trường. Đây
quả thật là một sự lãng phí rất lớn về mặt kinh tế, bởi vì, dầu nhờn thải hoàn
toàn có thể là một nguồn nguyên tốt cho việc tái sử dụng lại. Hơn thế nữa,
việc thải dầu nhờn trực tiếp ra ngoài môi trường lại gây nên sự ô nhiễm môi
trường rất lớn, trong khi hiện nay chiến lượt "bảo vệ môi trường" và khẩu
hiệu "trái đất là đại gia đình" là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và bức xúc của
toàn nhân loại, bởi lẽ nó là những việc làm để bảo tồn và phát triển bền vững
“cái nôi của con người".

Đứng trước hai vấn đề như vậy thì việc tái sinh dầu nhờn nhất thiết là
cần phải được nghiên cứu sao cho phù hợp với tình hình cụ thể của nước ta
và được áp dụng nhanh chóng vào trong thực tế để không những tiết kiệm
được đáng kể nguồn nguyên liệu, tiết kiệm kinh tế mà còn gốp phần giải quyết
nạn ô nhiễm môi trường, một vấn đề bức xúc của thế kỷ 21.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều phương pháp và công nghệ tái sinh
dầu nhờn khác nhau dựa trên các thiết bị phức tạp như : xử lý bằng hóa chất,
chưng cất chân không, trích ly và hydro hóa làm sạch. Tất cả những phương
pháp tái sinh dầu nhờn hiện đại đều cho ra dầu nhờn hoàn toàn có thể thay

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần2Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

thế dầu nhờn gốc ban đầu. Tuy nhiên nó đòi hỏi phải có chi phí xây dựng dây
chuyền tái sinh lớn, kỹ thuật cao và công nghệ phức tạp.
Từ trước đến nay, việc tái sinh dầu nhờn ở Việt Nam vẫn đươc thực
hiện bằng các phương pháp đơn giản và cũng chưa có một quy mô hoàn
chỉnh cho việc tái sinh dầu nhờn. Đứng trước tình hình đó, với đề tài tốt
nghiệp này em tiến hành nghiên cứu phương pháp tái sinh dầu nhờn thải với
công nghệ đơn giản, rẻ tiền và gốp phần hạn chế ô nhiễm môi trường do dầu
nhờn thải gây ra đồng thời đem lại hiệu quả kinh tế cao phù hợp với tình hình
đất nước ta hiện nay.

Phần I


TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ DẦU NHỜN
CHƢƠNG I :

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DẦU NHỜN

I.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA DẦU NHỜN [6]:
Khi con ngƣời lần đầu tiên chế tạo ra những chiếc xe có bánh và xe cổ
kéo thì chất bôi trơn cũng đƣợc tìm ra và sử dụng. Và kỹ thuật cùng với chất
bôi đã trở thành những yếu tố không thể tách rời nhau. Màng dầu mỏng đƣợc
bôi lên trên bề mặt làm việc đã tạo ra khả năng hoạt động nhịp nhàng và lâu
bền cho các cơ cấu do con ngƣời chế tạo ra.
Có rất nhiều chất liệu có thể dùng để bôi trơn nhƣ mở nƣớc, mở động
vật, dầu thực vật, dầu thảo mộc và các sản phẩm dầu mở tổng hợp, các loại
dầu mở quánh, các chất rắn kim loại nóng chảy và thậm chí cả không khí
nữa... Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ đề cập tới chất bôi trơn đang đƣợc chú ý

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần3Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

và sử dụng rộng rãi nhất trong kỹ thuật ngày nay, đó là chất bôi trơn đƣợc chế
biến từ dầu mỏ.
Nhà bác học Nga nổi tiến D.l.Mendeleep chính là một trong những
ngƣời đầu tiên đặt vấn đến đề dùng mazut để sản xuất ra dầu nhờn.

Từ năm 1867, ngƣời ta đã bắt đầu chế biến dầu mỏ thành dầu nhờn.
Năm 1870 ở Cream (Nga), tại nhà máy Xakhanxkidơ bắt đầu chế biến dầu
nhờn từ dầu mỏ. Năm 1876-1877, Ragorin đã xây dựng ở Bulakhan nhà máy
chế biến dầu nhờn đầu tiên trên thế giới có công suất 100.000 put/năm. Nhà
máy này đã sản xuất đƣợc 4 loại dầu nhờn: dầu cọc sợi, dầu máy, dầu trục cho
toa xe mùa hè và mùa đông. Đến năm 1879 thì Ragorzin cho xây dựng ở
Conxtantinop nhà máy thứ hai chuyên sản xuất dầu nhờn để xuất khẩu. Chính
Mendeleep cũng đã làm việc ở các phòng thí nghiệm và những phân xƣởng
của nhà máy này vào những năm 1880 - 1881. Dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của
ông, nhiều cơ sở khoa học của ngành sản xuất dầu nhờn đã xây dựng và trong
vòng mấy năm sau đó dầu nhờn đã thực sự phát triển và đánh dấu một bƣớc
ngoặc trong lịch sử chế tạo chất bôi trơn. Dầu nhờn đã có mặt khắp thị trƣờng
Pháp, Anh và các nƣớc châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á, thậm chí còn gây ra sự
cạnh tranh khá quyết liệt giữa dầu nhờn của Nga và của Mỹ. Sau đó, các nhà
máy còn có chất lƣợng cao hơn cũng đƣợc xây, mở rộng và đã đặt nền móng
cho sự thăng tiến hùng hậu của ngành chế tạo dầu nhờn cho đến tận ngày nay.
Cũng trong thời gian đó, do công nghiệp và ngành vận tải đƣờng sắt
phát triển mạnh mẽ, nhu cầu về dầu nhờn tăng lên rất nhiều. Những sản phẩm
dầu xuất hiện đầu tiên trên thị trƣờng là dầu nhờn gốc dầu mỏ màu đen, trong
khi mở động vật có màu xám và dầu thảo mộc có màu hơi vàng. Dầu đen thì
giá rẽ hơn dầu sáng từ 3 - 4 lần. Điều đó có tác dụng quyết định đối với số
phận của nó ngay từ buổi đầu tiên sử dụng loại dầu mới này tiết kiệm đƣợc rất
nhiều. Tuy nhiên ngay cái buổi ban đầu đó, mặt dù dầu khoáng rẽ hơn rất
nhiều và có trữ lƣợng lớn song nó chƣa thể cạnh tranh với dầu thảo mộc và
mở động vật.
Thời kỳ đầu, ngƣời ta không sử dụng ở dạng nguyên chất dầu này mà
phải pha lẫn với các chất bôi trơn nhƣ dầu ô liu, dầu thầu dầu, mở lợn grafit...
Mãi về sau ngƣời ta mới bắt đầu sử dụng dầu nhờn nguyên chất một cách thận
trọng hơn. Và lúc đầu do ngƣời ta sử dụng chƣa quen dầu nhờn nguyên chất
Trường ĐHBK Hà Nội


Trần4Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

cho nên việc sử dụng gặp nhiều khó khăn và kết quả xấu nhƣ tổn thất tăng do
ma sát các chi tiết máy bị nóng lên, xảy ra nhiều sự cố. Các công trình nghiên
cứu của nhà bác học Nga nổi tiến N.P.Petrop đã tạo điều kiện để dầu nhờn
đƣợc sử dụng rộng rãi hơn. Trong tác phẩm của mình, ông đã nêu lên khả
năng là hoàn toàn có thể dùng dầu nhờn để thay thế cho dầu thảo mộc và mở
động vật, đồng thời nêu lên những nguyên lý bôi trơn... áp dụng những
nguyên lý đó ngƣời ta đã thay thế việc sử dụng dầu nhờn và tất nhiên là nó đã
không làm máy móc hoạt động tồi hơn so với sử dụng dầu thảo mộc và mở
động vật mà ngƣợc lại nó mang lại những dấu hiệu tốt hơn.
Ngày nay, với những tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng con ngƣời
đã xây dựng đƣợc những tháp chƣng cất chân không hiện đại thay thế cho
những nhà máy chƣng cất củ kỷ với những tháp chƣng có công suất thấp và
tạo ra các sản phẩm có chất lƣợng kém.
Những phƣơng tiện tinh chế mới cũng đã đƣợc xây dựng để chuyên sản
xuất ra các loại phụ gia cho vào dầu nhờn nhằm cải thiện và nâng cao chất
lƣợng cho các loại dầu nhờn. Ngành sản xuất dầu nhờn tổng hợp cũng đã vào
cuộc và đang đƣợc phát triển không ngừng.
Chúng ta đang sống trong thời đại của khoa học và công nghệ, nền
công nghiệp hiện đại đã và đang xâm nhập vào mọi hang cùng ngỏ hẽm trên
toàn thế giới và xu hƣớng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới cũng ngày còn phát
triển mạnh mẽ. Tất cả những đặc điểm đã nêu trên của thời đại đã đặt ra sự
cần thiết là phải có nền công nghiệp bôi trơn tiên tiến, hiện đại và nó đang

đƣợc đặt ra một nhiệm vụ hết sức to lớn cho các quốc gia là phải xây dựng
cho đƣợc một nền công nghiệp dầu mỏ hiện đại, đáp ứng, thỏa mản nhu cầu
ngày càng tăng của nền kinh tế quốc dân đang không ngừng phát triển.
Các tập đoàn tƣ bản lớn liên quan đến dầu nhờn nhƣ PB, Castron,
Exson, Mobil, Total Esso... đã có mặt hầu hết trên các nƣớc trên thế giới và
hoạt động trong mọi lĩnh vực của công nghiệp dầu mỏ nhƣ nghiên cứu, thăm
dò, khai thác vận tải, lọc dầu, tiếp thị... Họ cũng đã và đang áp dụng thành tựu
mới nhất của khoa học, đƣa nền công nghiệp dầu mỏ hàng năm tăng trƣởng
không ngừng và sản xuất dầu nhờn không ngừng đƣợc tăng cao về mặt chất
lƣợng cũng nhƣ số lƣợng, sáng tạo thêm nhiều chủng loại mới.

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần5Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

Hiện nay, để đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng trƣởng
của nền kinh tế phát triển, trên thế giới đã sản xuất ra nhiều loại dầu nhờn
khác nhau. Và chỉ có những chuyên gia đi sâu về từng loại dầu nhờn thì mới
có thể hiểu sâu và hết đƣợc mọi chủng loại dầu nhờn hiện nay.
I.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA DẦU NHỜN :
Ngày xƣa, các bậc thiên tài đã tìm ra một nguyên lý rằng:
“Khi các bề mặt được bôi trơn so với không được bôi trơn thì tính
trược sẽ dễ dàng hơn và bề mặt ít nóng hơn khi làm việc”. [8-trang165]
Quả thật vậy, tất cả các bộ phận máy móc lớn hay nhỏ dù có tinh chế
kỹ đến thế nào thì những bề mặt của chúng vẫn không khỏi không có những

chổ gồ ghề rất nhỏ mà mắt thƣờng không nhìn thấy đƣợc. Khi hai bề mặt
phẳng chuyển động thì những chổ lồi lõm vô cùng bé đó cũng sẽ ngăn cản
nhau, tạo ra một lực cản gọi là lực ma sát, chính lực này đã làm cho các bộ
phận máy móc bị nóng lên, và khi nhiệt độ lên quá cao làm cho các mặt tinh
chế chảy dính lên trên các mặt của vật bị cọ sát. Do đó, lực ma sát tăng lên và
làm cho các bộ phận máy móc bị hƣ hỏng. Và có lực ma sát thì làm cho các
chi tiết máy móc bị mài mòn dẫn đến độ chính xác của máy móc giảm sút,
đồng thời ảnh hƣởng đến cả tính chính xác của công việc và năng suất của
máy móc đồng thời lại tiêu hao năng lƣợng (vì muốn vận hành đƣợc máy móc
cần phải có năng lƣợng nhƣng do có ma sát nên một phần năng lƣợng bị tiêu
hao vào việc chống lại lực ma sát). Nhƣ vậy, lực ma sát trong những trƣờng
hợp này là những lực ma sát có hại. Muốn giảm bớt lực ma sát này và hậu quả
của nó thì nhất thiết phải có dầu mỏ bôi trơn. Khi ta tra dầu mở bôi trơn vào
các bề mặt chi tiết thì các phân tử sẽ phân phối vào các chổ lồi lõm của mặt
phẳng cọ sát, làm cho sự ma sát giữa các phân tử sẽ hơn rất nhiều lần lực ma
sát giữa hai mặt phẳng của bề mặt chi tiết [16].
Trong đời sống hằng ngày cũng nhƣ trong công nghiệp, vấn đề ma sát
luôn luôn đƣợc chúng ta đối mặt. Bởi vì, trong thực tế có nhiều ngành kinh tế
chỉ sử dụng máy móc chỉ ở mức là 30% nhƣng vẫn có hao mòn máy móc.
Nguyên nhân chủ yếu gây ra hao mòn cho các chi tiết máy móc là do lực ma
sát. Không chỉ với những nƣớc đang phát triển nhƣ nƣớc ta mà ngay cả

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần6Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải


những nƣớc phát triển, tổn thất do ma sát và do mài mòn gây ra chiếm tới vài
phần trăm tổng thu nhập quốc dân. Chẳng hạn nhƣ là [4]:
 CHLB Đức: Thiệt hại do mài mòn và do ma sát các chi tiết hàng
năm từ 32-40 tỷ DM. Trong đó ngành công nghiệp là 8,3 - 9,4 tỷ, ngành năng
lƣợng là 2,67-3,2 tỷ. Ngành giao thông vận tải là 17-23 tỷ.
 Canada: Tổn thất hàng năm do ma sát là lên đến hơn 5 tỷ USD
Canada. Chi chí sửa chữa và bảo dƣỡng thiết bị tăng nhanh, chiếm 46% so với
chi phí đầu tƣ ban đầu. Riêng trong ngành lâm nghiệp, chi phí sửa chữa gấp
3,5 chi phí ban đầu đầu tƣ.
 Việt Nam: Theo ƣớc tính của các chuyên gia cơ khí thiệt hại do ma
sát, mài mòn và chi phí bảo dƣỡng hàng năm lên vài triệu USD.
Chính vì vậy, việc làm giảm tác động của lực ma sát luôn là mục tiêu
quan trọng của các nhà sản xuất máy móc, thiết bị cũng nhƣ ngƣời sử dụng
chúng. Để thực hiện điều này ngƣời ta đã dùng dầu bôi trơn. Khi hai mặt
phẳng của chi tiết chuyển động thì chúng đƣợc cách ly hoàn toàn bằng một
lớp màng dầu, nếu sử dụng loại dầu nhờn phù hợp với các điều kiện làm việc
của máy móc thì hệ số ma sát sẽ giảm đi 100 - 1000 lần so với khi chƣa có lớp
dầu ngăn cản.
I.3. CHỨC NĂNG CỦA DẦU NHỜN [3]:
Khi cho dầu nhờn vào động cơ ta nhận thấy rằng động cơ hoạt động
êm hơn, máy ít nóng hơn, lâu mài mòn hơn... vậy dầu nhờn có chức năng nhƣ
thế nào??? Chức năng dầu nhờn nhƣ sau:
I.3.1. Làm giảm ma sát, chống mài mòn và chống xƣớc:
Đây là mục đích chính của dầu nhờn, bởi vì khi máy móc làm việc thì
các bộ phận máy móc có các bề mặt chi tiết cọ sát nhau sinh ra sức cản làm
cho máy móc hƣ mòn. Với sự có mặt của dầu nhờn thì hai bề mặt tiếp xúc
nhau đƣợc tách ra chỉ còn ma sát nội tại của dầu nhờn, ma sát này nhỏ hơn rất
nhiều so với ma sát giữa hai bề mặt tiếp xúc của chỉ tiết máy. Do đó, ma sát
giảm đi đáng kể, dẫn đến độ mài mòn giảm và các bề mặt tiếp xúc đƣợc bảo

vệ khỏi bị xƣớc. Nhƣ vậy, dầu nhờn trong động cơ có tác dụng làm cho máy
trơn giảm đi sự cọ sát, giảm bớt sự mài mòn, bị xƣớc của máy giúp máy hoạt
động êm hơn và đảm bảo cho máy móc làm việc có công suất tối đa.

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần7Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

I.3.2. Tác dụng làm mát máy:
Một tác dụng quan trọng nửa của dầu nhờn là làm mát máy và chống lại
sự quá nhiệt ở các chi tiết. Khi động cơ làm việc thì nhiên liệu cháy và sinh
nhiệt, một phần nhiệt năng sinh ra thì biến thành công, một phần nhiệt năng
còn lại cần phải đƣa ra ngoài, hơn nữa ở bề mặt cọ sát giữa hai chi tiết vẫn
sinh ra nhiệt, những phần nhiệt này cần phải đƣa ra ngoài để tránh sự hƣ hỏng
máy móc. Ngƣời ta dùng dầu nhờn ngoài tác dụng bôi trơn giảm ma sát thì
dầu nhờn phải thu hút nhiệt năng và truyền ra nƣớc làm nguội.
Dầu nhờn đổ vào trong máy luôn luôn đƣa vào tất cả các bộ phận của
máy móc và lƣu động tuần hoàn trong máy. Cho nên khi độ nhớt của dầu
nhờn mà còn nhỏ thì dầu lƣu động trên bề mặt chi tiết càng nhanh và nhiệt
năng truyền ra càng nhiều. Trong điều kiện nhiệt độ giống nhau thì dầu nhờn
có độ dính cao, thì tính lƣu động kém hơn và nhiệt năng truyền ra tƣơng đối
ít. Và ngƣợc lại dầu nhờn có độ dính thấp có thể tản nhiệt tƣơng đối nhanh.
I.3.3 Tác dụng làm kín, khít:
Cho dù cố gắng đến mấy thì ngƣời ta cũng không thể nào khắc phục
những chỗ hở trong quá trình gia công và dù cố gắng đến mấy thì con ngƣời

vẫn không thể nào làm đƣợc cho bề mặt kim loại hoàn toàn nhẳn, và rồi khi
hoạt động thì các bề mặt chi tiết cũng không thể nhẵn đƣợc mãi. Chính những
chỗ hở này đã gây nên hiện tƣợng xì hơi ở buồng nổ của động cơ. Và ta hình
dung rằng nếu trong xilanh không có dầu nhờn thì hơi thừa sẽ từ buồng nổ
qua các khe hở nhỏ đƣa vào trong cacte. Khi ta cho dầu nhờn vào thì dầu
nhờn sẽ lắp đầy kít những khe hở nhỏ thành màng dầu có tác dụng ngăn hơi
thừa không đi qua đƣợc và đảm bảo đƣợc công suất cho động cơ.
Dầu nhờn có độ bám dính cao thì tính năng làm kín sát càng cao.
I.3.4. Tác dụng tẩy rửa:
Khi động cơ làm việc, do sự tiếp xúc của hai bề mặt kim loại sinh ra các
hạt mịn kim loại đồng thời khi máy móc hoạt động thì luôn luôn hút không
khí vào, bụi cát cũng theo không khí mà vào động cơ, khi hổn hợp đốt cháy sẽ
hình thành mụi than, bản thân dầu nhờn ở những nơi có nhiệt độ cao sẽ sinh
ra hiện tƣợng bốc hơi, tách ly tạo thành hydrocacbya nhƣ keo... Những chất
sinh ra này luôn luôn thanh trừ khỏi bề mặt cọ sát. Công việc này sẽ do dầu
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần8Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

nhờn đảm nhiệm. Nhờ vào trạng thái chảy lỏng dầu đƣợc lƣu chuyển qua các
bề mặt chi tiết và cuốn theo các tạp chất có hại nêu trên và đƣa cào cacte dầu,
rồi từ cacte đƣa vào bầu lọc, dầu nhờn qua bầu lọc đƣợc biến thành dầu sạch
còn các chất cặn bẩn thì ở lại trong bầu lọc.
I.3.5. Bảo vệ bề mặt kim loại:
Bề mặt chi tiết, máy móc khi làm việc thƣờng tiếp xúc với oxy, hơi

nƣớc làm cho kim loại bị ăn mòn. Nhờ dầu nhờn tạo thành màng mỏng phủ
kín lên bề mặt kim loại nên ngăn cách đƣợc kim loại với tác nhân gây ăn mòn,
nhờ vậy mà bảo vệ bề mặt kim loại khỏi bị ăn mòn. Dầu nhờn còn đƣợc dùng
để bảo quản dụng cụ kim loại trong bảo quản và vận chuyển để chống han rỉ.
Với những chức năng ƣu việt vừa nêu trên thì dầu nhờn ngày càng
khẳng định rõ vai trò vô cùng quan trọng của mình trong sự phát triển của
ngành công nghiệp trên thế giới.
I.4. CÁC TÍNH CHẤT SỬ DỤNG CỦA DẦU NHỜN :

Để dầu nhờn có đƣợc những chức năng vừa nêu trên thì dầu nhờn cần
phải có những tính chất sau:
I.4.1. Tính chất bôi trơn làm giảm ma sát:[1, 8]
Khi một vật chuyển động lên một vật khác thì xuất hiện lực ma sát.
Chính lực ma sát này cản trở chuyển động của các chi tiết đó. Để giảm đi sự
cản trở này ngƣời ta dùng dầu nhờn có tính bôi trơn tốt, tức là khả năng chảy
loãng ra trên bề mặt các chi tiết. Tính chất phức tạp này gọi là tính chất bôi
trơn của dầu nhờn [8-trang170].
Theo nguyên lý bôi trơn [8], thì khi dầu đƣợc đặt vào giữa hai bề mặt
tiếp xúc nhau, chúng sẽ chảy loang và bám chắc vào bề mặt tạo nên một màng
dầu rất mỏng đủ sức tách riêng hai bề mặt tiếp xúc nhau. Khi hai bề mặt này
chuyển động chỉ có các phân tử trong lớp dầu tiếp xúc trƣợt lên nhau tạo nên
ma sát chống lại lực tác dụng gọi là lực ma sát nội (hay ma sát lỏng của dầu
nhờn). Nhờ thế làm giảm ma sát của các chi tiết hoạt động trong động cơ máy
móc.
Đặc trƣng cho ma sát nội là độ nhớt, vì vậy việc nghiên cứu đến tính
chất sử dụng dầu nhờn phải bắt đầu từ độ nhớt và đây cũng là yêu cầu cơ bản
nhất đối với dầu nhờn .
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần9Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN



Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

Độ nhớt của dầu nhờn, đặc biệt là dầu nhờn động cơ là rất quan trọng
ở nhiều khía cạnh. Nó có ảnh hƣởng đến độ kín khít, tổn hao công ma sát, khả
năng chống mài mòn, và khả năng tạo cặn. Do vậy, trong các động cơ chuyển
động khứ hồi, độ nhớt của dầu có tác động chính đến lƣợng tiêu hao nhiên
liệu, khả năng tiết kiệm dầu, và hoạt động chung của cả động cơ.
Khi sử dụng dầu nhờn, thì cần phải chọn loại dầu nhờn có độ nhớt
thích hợp với môi trƣờng sử dụng. Khi sử dụng dầu nhờn có độ nhớt không
phù hợp sẽ gây ra những tác hại nhƣ sau:
 Nếu độ nhớt quá lớn:
Trở lực do ma sát nội tăng, động cơ phải tiêu tốn năng lƣợng lớn để
duy trì hoạt động bình thƣờng làm cho công suất của động cơ bị giảm.
Độ nhớt cao làm cho động cơ khởi động khó khăn, dầu khó lƣu thông
vào các bề mặt ma sát tạo ma sát bán khô, gây mài mòn nhanh chóng.
Dầu có độ nhớt lớn lƣu chuyển trong đƣờng ống khó khăn và khả
năng làm mát kém.
 Nếu độ nhớt quá bé:
Dầu có độ nhớt nhỏ dễ bị đẫy ra khỏi bề mặt ma sát do không chịu
đƣợc tải trọng, dễ dẫn đến ma sát giới hạn, gây mài mòn.
Dầu có độ nhớt nhỏ làm cho khả năng bám dính kém không có khả
năng che kín. Đặc biệt đối với những bề mặt ma sát đã dơ, mòn, dầu không
lấp đƣợc các khe hở dẫn đến bị dò lọt khí cháy, nhiên liệu.
Tăng lƣợng tiêu hao dầu nhờn do khả năng bay hơi cao.
I.4.2 Tính lƣu động:
Dầu nhờn, khi họat động trong môi trƣờng nhiệt độ thấp thì nhất thiết

phải có đƣợc tính lƣu động phù hợp để dầu nhờn có thể di chuyển từ nơi này
sang nơi khác, chẳng hạn nhƣ dầu nhờn động cơ thì duy chuyển từ thùng chứa
sang cacte và chảy ngay đƣợc vào bơm khi động cơ khởi động. Trong trƣờng
hợp này, nhiệt độ đông đặc của dầu nhờn không phải là một chỉ tiêu tin cậy để
cho biết là liệu dầu này có thể chảy đƣợc vào bơm dầu hay không mà cần phải
tiến hành thử nghiệm trực tiếp trên các thiết bị mô phỏng sự khởi động nguội
và thiết bị thử nhiệt độ giới hạn của bơm. Tuy nhiên trong điều kiện khí hậu
Việt Nam thì tính chất này không quan trọng lắm.
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần10Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

I.4.3 Tính ổn định chống oxi hóa:
Tính chất này rất đáng đƣợc lƣu tâm vì các sản phẩm dầu nhờn do bị
oxi hóa nên sinh ra các chất tạo cặn, tăng cƣờng ăn mòn các ổ đỡ kim loại,
hợp kim Pb/Cu. Hơn nữa, các sản phẩm của quá trình oxi hóa xuất hiện làm
cho dầu nhờn thay đổi màu và thay đổi một số tính chất hóa lý của dầu nhờn
nhƣ: không khí sẽ làm khuấy trộn dầu trong cacte (đối với dầu nhờn động cơ),
độ axit tăng lên, độ nhớt tăng lên, màu của dầu nhờn tối đi, trong dầu nhờn
xuất hiện các chất lắng ở dạng nhủ v.v... Đây là nguyên nhân chính làm cho
các chi tiết máy móc, động cơ và hệ thống bôi trơn bị bẩn do các lớp cặn
cacbon.
Khi động cơ làm việc ở nhiệt độ cao là điều kiện cho quá trình oxi hóa
xảy ra mạnh. Ngoài ra, còn một vài yếu tố khác cũng làm cho dầu nhờn bị oxi
hóa là:

- Lƣợng dầu chứa đƣợc trong cacte ít.
- Thời gian thay dầu lâu.
- Công suất ra của động cơ rất cao...
Do vậy, khả năng chống oxi hóa là một yêu cầu quan trọng đối với
dầu nhờn, đặc biệt là dầu nhờn động cơ đốt trong. Khả năng chống oxi hóa
của dầu nhờn thƣờng đƣợc tăng cƣờng bằng cách cho thêm vào dầu các loại
phụ gia chống oxi hóa.
I.4.4. Tính phân tán, tẩy rửa:
Trong quá trình làm việc, các loại cặn cơ học sinh ra luôn là mối hiểm
họa đối với các thiết bị các thiết bị máy móc đặc biệt là các động cơ đốt trong,
chúng là bụi, muội than, và các mạt kim loại. Các cặn này có thể bám trên bề
mặt cần bôi trơn làm tăng ma sát giữa các bề mặt và là nguyên nhân gây nên
hiện tƣợng mài mòn mạnh. Không những thế, mà lƣợng nhiệt do ma sát gây
ra có thể gây quá nhiệt cục bộ dẫn đến động cơ hoạt động thiếu chính xác,
hiệu suất cũng giảm.
Để chống lại những hiện tƣợng vừa nêu trên thì ngƣời ta cho vào dầu
nhờn các chất phụ gia tẩy rửa và phân tán phù hợp. Các phụ gia này ngăn
ngừa khả năng tạo cặn và duy trì hoạt động của động cơ.

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần11Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

Các phụ gia tẩy rửa có chức năng giữ cho bên trong động cơ đƣợc
sạch sẽ, còn các phụ gia phân tán giữ cho các cặn cứng ở dạng keo, ngăn

không cho chúng tạo thành cặn vecni, cặn lắc hay cặn bùn. Hơn nữa, các phụ
gia này còn có khả năng trung hòa, có trị số kiềm tổng TBN đạt tới 50 - 70, để
trung hòa các sản phẩm axit trong quá trình cháy nhiên liệu.
I.4.5 Khả năng chống gỉ và ăn mòn:
Dầu nhờn nói chung và dầu nhờn động cơ nói riêng thì cần phải có
một số khả năng sau đây:
- Ngăn ngừa hiện tƣợng gỉ và ăn mòn, do nƣớc ngƣng tụ và các sản
phẩm cháy ở nhiệt độ thấp cũng nhƣ chế dộ hoạt động không liên tục gây ra.
- Chống lại mài mòn do các sản phẩm axit trong quá trình cháy gây ra.
- Bảo vệ các ổ đỡ hợp kim đồng - chì khỏi sự ăn mòn do các sản phẩm
oxi hóa dầu gây ra.
Chỉ cần thiếu một trong các yếu tố trên cũng gây ra sự ăn mòn trong
các chi tiết máy móc động cơ, thiết bị. Do đó, các loại dầu nhờn cần phải
đƣợc pha chế bảo đảm tốt mọi tính năng chống mài mòn, ăn mòn. Đặc biệt
trong các trƣờng hợp dầu nhờn động cơ xăng, khả năng chống ăn mòn - nhất
là ăn mòn ổ đồng- chì và chống gỉ do nƣớc ngƣng tụ và các sản phẩm không
cháy đƣợc hoặc không cháy hết trong nhiên liệu gây ra là hết sức quan trọng.
Dầu sử dụng cho động cơ điezel phải có khả năng chống lại sự ăn mòn các ổ
đỡ hợp kim do các axit và các sản phẩm cháy gây ra. Trong trƣờng hợp này
thì các chức năng chống ăn mòn gắn liền với độ kiềm các phụ gia tẩy rửa.
I.4.6. Khả năng chống lại sự tạo muội than, tạo cặn:
Trong buồng đốt của động cơ, nhiệt độ tăng lên rất cao và mọi hợp
chất hữu cơ đều có thể rất dễ bị cháy, nhƣng thƣờng thì động cơ không đủ
thời gian (quá trình xảy ra trong khoảng thời gian 1% giây) và không đủ oxi
để cháy hoàn toàn nhiên liệu và dầu lọt vào buồng đốt luôn có điều kiện tạo
thành mồ hóng, các hạt cốc, các sản phẩm chƣa cháy hết.
Việc tạo thành muội than trên các chi tiết động cơ bắt đầu từ việc hình
thành lớp màng keo trên các chi tiết đó. Trong động cơ khi làm việc thì những
phân tử dầu mới, mồ hóng và các hạt cốc không ngừng rơi vào màng keo. Sự


Trường ĐHBK Hà Nội

Trần12Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

thay đổi đáng kể do màng dầu bị các sản phẩm cháy làm bẩn dẫn đến tạo
thành lớp than rắn trên bề mặt kim loại gọi là muội than.
Bề dày của lớp muội than không ngừng tăng lên và chỉ tăng lên đến
một độ dày nhất định vì khi bề dày lớp muội than tăng thì mép trên của nó sẽ
gần vùng nhiệt độ cao hơn và do bị nóng nhiều hơn, những phân tử dầu mới
sẽ gây ra sự thay đổi cũng nhiều hơn và cũng không có khả năng bám chắc
trên bề mặt muội. Đến một lúc nào đó lớp muội không tăng lên đƣợc nửa và
sẽ xuất hiện thế cân bằng cho tới khi do một số nguyên nhân nào đó mà vùng
nhiệt độ cao hoặc sẽ không tiến đến gần sát bề mặt lớp muội hoặc không tách
ra xa bề mặt đó.
Việc tạo muội trong buồng đốt làm giảm hoạt động lâu bền của động
cơ, tăng chi phí sử dụng do những nguyên nhân sau:
- Nhiệt độ các chi tiết phủ muội than tăng lên và khi lƣợng muội than
tăng lên thì thể tích buồng đốt bị thu hẹp, làm tăng tỷ lệ nén của động cơ, khả
năng trao đổi nhiêt kém đi sẽ tạo điều kiện xảy ra cháy kích nổ.
- Khi có muội than trên các chi tiết buồng đốt sẽ hạn chế lƣợng hổn
hợp nhiên liệu đi vào động cơ làm giảm công suất động cơ.
- Muội than có thể phá vỡ quá trình đốt cháy bình thƣờng nhiên liệu
trong bộ chế hòa khí động cơ, các hạt muối bị đốt cháy đỏ lên buồng đốt sẽ có
thể là nguyên nhân làm nguyên liệu cháy sớm.
- Muội đóng ở đế supap sẽ làm supap khó đóng, làm cháy supap.

- Muội than ở bugi đánh lửa sẽ làm cho nó không đánh lửa đƣợc.
- Các hạt muội than từ buồng đốt rơi xuống đáy cacte dầu sẽ làm
nóng vòng găng, tăng độ mài mòn các chi tiết làm việc và các chất lắng đọng
khác nhau trên các chi tiết động cơ cũng nhƣ trong hệ thống bôi trơn.
Nhƣ vậy, muội than rất có ý nghĩa quan trọng đối với dầu nhờn, chúng
gây ra rất nhiều tác hại. Khi dầu nhờn có chất lƣợng tốt thì trong quá trình sử
dụng sẽ không có hoặc ít có muội than hình thành trên bề mặt các chi tiết. Do
đó, dầu nhờn cần phải có tính chống lại sự tạo thành muội than.
Ngoài sự tạo muội than của dầu nhờn thì chúng còn có khả năng tạo
cặn. Việc tạo cặn của dầu nhờn cũng gây ra rất nhiều tác hại cho động cơ nhƣ
là: làm tắc các rãnh dầu, đƣờng dầu và các bầu lọc, làm cho các dầu mới bị
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần13Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

giảm phẩm chất, cặn có thể quánh và rắn lại đến mức không thể dùng phƣơng
pháp cơ học để làm sạch... do vậy dầu nhờn phải có tính chống lại sự tạo cặn.
Chƣơng II:

CÁC CHỈ TIÊU CHẤT LƢỢNG CỦA DẦU NHỜN
VÀ CÁCH XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU ĐÓ

Mỗi sản phẩm dầu nhờn lƣu hành trên thị trƣờng đều phải đạt một số
chỉ tiêu nhất định và dựa vào những chỉ tiêu này làm cơ sở cho việc đánh giá
chất lƣợng của các sản phẩm dầu nhờn. Việc phân tích và đánh giá chất lƣợng

các sản phẩm dầu nhờn thông qua các chỉ tiêu là điều rất quan trọng, nó giúp
cho chúng ta có thể có đƣợc đầy đủ những thông tin cần thiết và chính xác
của các loại dầu nhờn khác nhau cho phép chúng ta lựa chọn dầu nhờn phù
hợp cho từng mục đích sử dụng.
II.1 TRỊ SỐ AXIT VÀ KIỀM:
Trị số axit và kiềm có liên quan đến tới trị số trung hòa, dùng để xác
định độ axit và độ kiềm của dầu nhờn (trị số trung hòa là tên gọi chung cho trị
số axit tổng và trị số kiềm tổng).
 Chỉ số kiềm mạnh TBN (Total Base Number): là lƣợng axit đã
đƣợc tính chuyển ra số mg KOH tƣơng ứng, cần thiết để trung hòa lƣợng
kiềm có trong 1g mẫu và đƣợc xác định theo phƣơng pháp ASTM-D.2896 .
 Chỉ số axit mạnh TAN (Total Acid Number): là số mg KOH cần
thiết để trung hòa lƣợng axit có trong 1g mẫu và đƣợc xác định theo phƣơng
pháp ASTM-D.664. [8-trang 186].
Các chất mang tính axit có mặt trong dầu nhờn là: axit vô cơ, axit hữu
cơ, este, keo, nhựa và các chất phụ gia... Các chất mang tính kiềm có mặt
trong dầu nhờn là: các phụ gia tẩy rửa, muối kim loại...
Sự có mặt của axit trong dầu nhờn gây ra những tác hại nhƣ sau: khi
có nhiệt độ cao thì chúng gây ăn mòn các chi tiết kim loại của máy móc, động
cơ và ống dẫn, làm giảm tính ổn định chống oxi hóa của dầu. Ngoài ra, chúng
còn là những chất có hại cho chất lƣợng của dầu. Chính vì thế mà cần phải
xác định hàm lƣợng axit có trong dầu nhờn để tránh trƣờng hợp hàm lƣợng
của chúng quá giới hạn cho phép có trong dầu nhờn .
Có 3 phƣơng pháp dùng để xác định trị số trung hòa, đó là: [1]:
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần14Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp


Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

 Phƣơng pháp I: ASTM-D.974 (xác định trị số axit và kiềm bằng
phƣơng pháp chuẩn độ có dùng chất chỉ thị màu) đây là phƣơng pháp chủ yếu
thích hợp với các loại dầu màu sáng.
 Phƣơng pháp II: ASTM-D.664 (xác định trị số axit của các sản
phẩm dầu mỏ bằng phƣơng pháp chuẩn độ điện thế) phƣơng pháp này đƣợc
dùng cho các sản phẩm tối màu.
 Phƣơng pháp III: ASTM-D.2896 (xác định trị số kiềm của các sản
phẩm dầu mỏ bằng phƣơng pháp chuẩn độ điện thế dùng axit Percloric)
phƣơng pháp này đƣợc dùng để xác định các hợp chất kiềm có trong các sản
phẩm dầu mỏ.
Những phƣơng pháp ASTM-D.664 và phƣơng pháp ASTM-D.974 là
thích hợp cho việc xác định chỉ số kiềm tổng TBN và chỉ số axit mạnh TAN.
Phép xác định chỉ số axit và kiềm bằng phƣơng pháp chuẩn độ dùng
chỉ thị màu là phép xác định các hợp chất axit hay kiềm có trong dầu bôi trơn
với điều kiện là loại dầu bôi trơn này tan hoàn toàn hoặc gần nhƣ tan hoàn
toàn trong dung môi Toluen và alkol izo-propylic. Nó dùng để xác định lƣợng
kiềm hay axit cần thiết để trung hòa các thành phần axit hay kiềm có trong bất
kì loại dầu mỡ mới hay loại đã dùng rồi, trừ dầu động cơ đặc biệt là dầu
điezen.
Hiện nay, có rất nhiều loại phụ gia sử dụng nhằm nâng cao phẫm chất
dầu bôi trơn và tùy thuộc vào thành phần của phụ gia mà dầu cho vào có tính
axit hay kiềm. Trong một số trƣờng hợp có cả axit yếu và kiềm yếu, khi tan
vào trong dầu chúng không tác dụng với nhau mà chúng tác dụng với cả hai
loại axit mạnh và kiềm mạnh dùng để chuẩn độ cho cả hai trị số là axit và
kiềm. Cũng có những loại phụ gia khác có khả năng tham gia phản ứng trao
đổi ion với kiềm, cho nên trong quá trình trung hòa làm sai lệch các giá trị của
phép xác định. Những hiệu ứng của phụ gia đã che lấp mất sự thay đổi độ axit

của dầu có chứa chất phụ gia.
Rất nhiều phụ gia hiện đang sử dụng cho dầu động cơ có chứa các hợp
chất kiềm nhằm trung hòa các sản phẩm axit của quá trình cháy, lƣợng tiêu
tốn ở thành phần kiềm này là một chỉ số về tuổi thọ sử dụng của dầu. Phép đo

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần15Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

độ kiềm liên quan đến TBN hiện đang đƣợc áp dụng cho hầu hết động cơ,
đặc biệt là động cơ điezen.
Chỉ số axit tổng của dầu nhờn thải là một đại lƣợng đánh giá mức độ
biến chất của dầu do quá trình oxi hóa. Đối với hầu hết các loại dầu bôi trơn
thì chỉ số TAN ban đầu tƣơng đối nhỏ và tăng dần trong quá trình sử dụng,
điều đó phản ánh đúng sự mất dần chất chống oxi hóa. Tuy nhiên không nên
sử dụng chỉ số trung hòa nhƣ là một tiêu chuẩn duy nhất để xác định độ hƣ
hỏng của dầu do quá trình oxi hóa, bởi vì những chỉ tiêu khác nhƣ là độ nhớt,
hàm lƣợng tro và tạp chất cơ học v.v... phải đƣợc xem xét một cách thích
đáng.
Trong dầu có hàm lƣợng lƣu huỳnh S cao thì dầu đó phải có TBN
càng cao, thông thƣờng thì TBN = 20%S . Trong khi sử dụng nếu nhƣ TBN
thay đổi khoảng 50% thì thay dầu mới và trị TAN thay đổi khoảng 1% thì
thay đổi dầu mới [18-trang 96].
II.2 ĐỘ NHỚT:
Nhìn chung, mọi ngƣời đều công nhận rằng độ nhớt là một tính chất

quan trọng và cơ bản đối với các loại dầu bôi trơn. Độ nhớt là ma sát nội tại
trong lòng chất lỏng cản trở sự chảy của chất lỏng, đƣợc sinh ra bởi áp lực cơ
học giữa các hạt cấu tạo nên chất lỏng.
Độ nhớt, nó là một yếu tố quan trọng quyết định trong việc tạo thành
màng dầu bôi trơn ở hai điều kiện thủy động (màng dày) và bôi trơn thủy
động đàn hồi (màng mỏng). Thêm vào đó độ nhớt còn có thể xác định khả
năng khởi động động cơ dể dàng ở điều kiện lạnh và khả năng chịu đƣợc sự
sinh nhiệt trong ổ bi, bánh răng, xylanh, nó cũng đánh giá khả năng làm kín
khít của dầu cũng nhƣ mức độ tiêu hao và thất thoát [1-trang 31].
Riêng đối với dầu nhờn động cơ, đặc biệt là động cơ ô tô thì độ nhớt
cũng là yếu tố ảnh hƣởng đến sự dễ dàng khởi động và tốc độ trục khuỷu. Nếu
dùng dầu có độ nhớt không phù hợp, chẳng hạn nhƣ là độ nhớt quá cao so với
yêu cầu thì sẽ gây ra sức cản lớn khi nhiệt độ xung quanh thấp làm giảm tốc
độ động cơ và đó làm tăng lƣợng nhiên liệu tiêu hao kể cả ngay sau khi động
cơ đã khởi động, ngƣợc lại khi sử dụng loại dầu nhờn có độ nhớt thấp hơn so
với độ nhớt yêu cầu thì dẫn đến chống mài mòn và tăng lƣợng tiêu hao dầu [8trang 201]. Nhƣ vậy, đối với mỗi chi tiết máy điều cơ bản đầu tiên là phải
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần16Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

dùng đầu có độ nhớt thích hợp với những điều kiện vận hành máy móc khác
nhau.
Khi sử dụng các phƣơng tiện tải trọng nặng thì sử dụng loại dầu bôi
trơn có độ nhớt cao. Ngƣợc lại, những phƣơng tiện nhẹ, tốc độ cao thì dùng
dầu có độ nhớt thấp. Độ nhớt cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc theo

dõi dầu trong suốt quá trình sử dụng. Nếu biểu hiện độ nhớt tăng lên thì là dấu
hiệu của dầu bị oxi hóa còn nếu là độ nhớt giảm thì có thể là do nguyên liệu
lẫn vào hoặc là do các tạp chất khác lẫn vào [1].
Thông thƣờng sử dụng 3 loại độ nhớt sau: độ nhớt động học, độ nhớt
động lực, độ nhớt quy ƣớc [15-trang 16].
II.2.1 Độ nhớt động lực (kí hiệu là  hoặc là  ): là lực cản tác động lên chất
lỏng khi có hai lớp chất lỏng chuyển động tƣơng đối nhau trong khoảng cách
1cm, diện tích 1cm2, dƣới tác động của một lực là 1din, vận tốc chuyển động
1cm/giây [17- trang16].
Đơn vị độ nhớt động lực thông thƣờng là Pa.s.
Theo Newton: độ nhớt động lực là chính là số đo khả năng chống lại
sự chảy của dầu nhờn đƣợc xác định bằng tỷ số giữa ứng xuất trƣợt  và tốc
độ trƣợt S theo phƣơng trình nhƣ sau:
   s
Trong đó:
Ứng suất trƣợt  là lực trƣợt trên một đơn vị diện tích vuông góc với
phƣơng thẳng đứng (Pa).
Tốc độ trƣợt S là sự chêng lệch tốc độ trên một đơn vị khoảng cách
theo phƣơng thẳng đứng (gy).
Theo hệ đơn vị SI : độ nhớt đƣợc định nghĩa là lực tiếp tuyến trên một
đơn vị diện tích (N/m2) cần dùng trong quá trình chuyển động tƣơng đối (m/s)
giữa hai mặt phẳng nằm ngang đƣợc ngăn cách nhau bởi một lớp dầu dày
1mm, đó đƣợc gọi là độ nhớt động lực, tính bằng pascal giây (Pas).
Theo hệ đơn vị CGS: độ nhớt động lực lại tính bằng poazơ P
(dyn.s/cm2) 1Pas = 10P và 1P =1g/1cm.s
Công thức tính độ nhớt động lực nhƣ sau:
    t
Trong đó: -  là mật độ dầu ở cùng nhiệt độ đo trong thời gian chảy t, g/cm3
Trường ĐHBK Hà Nội


Trần17Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

-

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

t là thời gian chảy, s

 là độ nhớt động lực tính bằng cP hay mPas.

II.2.2 Độ nhớt động học (kí hiệu là  ):
Là tỷ số giữa độ nhớt động lực và mật độ của chất lỏng. Nó là số đo
lực cản chảy của một chất lỏng dƣới tác dụng của trọng lực [17-trang 16].
Nguyên tắc xác định độ nhớt động học là đo thời gian (tính bằng giây)
của một thể tích xác định của chất lỏng chảy qua mao quản của nhớt kế
chuẩn, dƣới tác dụng của trọng lực ở nhiệt độ xác định. Độ nhớt động học là
tích số giữa hằng số nhớt kế và thời gian chảy của dầu. Hằng số nhớt kế thu
đƣợc bằng cách chuẩn trực tiếp với các chất chuẩn đã biết trƣớc độ nhớt hoặc
từng bậc với nƣớc cất. Nƣớc cất có độ nhớt chuẩn ở 0oC là 1,79 cP và ở 20oC
là 1,002 cP.[17]
Trong hệ số đơn vị SI: độ nhớt động học đƣợc tính bằng m2/s hay
mm2/s (1mm2/s = 1cSt).
Trong hệ CGS: độ nhớt động học biểu thị bằng St = cm2/s nhƣng trong
thực tế thƣờng dùng đơn vị là centiStôc (cSt) :
1 cSt = 0,01 St = 1 mm2/s
Độ nhớt động học tính theo công thức sau:


  C t
Trong đó:
-  là độ nhớt động học, tính bằng cSt hay mm2/s.
- C là hằng số của nhớt kế, mm2/s2.
- t là thời gian chảy, s.
II.2.3. Độ nhớt quy ƣớc:
Độ nhớt quy ƣớc là tỷ số giữa thời gian chảy qua nhớt kế (tính bằng
giây) của 200 ml sản phẩm dầu cần thử nghiệm ở nhiệt độ cần thiết, và thời
gian chảy của 200 ml nƣớc cất ở 20oC. Giá trị của tỷ số này biểu thị thành dộ
nhớt quy ƣớc Engle (0E). Nhớt kế Engle đƣợc dùng để đo độ nhớt qui ƣớc.
Nguyên tắc: dựa trên cơ sở so sánh thời gian chảy của 200ml chất lỏng
cần xác định với thời gian chảy của 200ml nƣớc cất ở 20oC qua nhớt kế
Engle.
Giữa độ nhớt quy ƣớc và độ nhớt động học có mối quan hệ thực
nghiệm, nó đƣợc biểu thị bởi công thức gần đúng nhƣ sau:
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần18Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

- Nếu độ nhớt động học  từ 1 đến 120 mm2/s thì:

6,31
o
E
- Nếu độ nhớt động học  >120 mm2/s thì:

 t  7,31o E 
 t  7,4o E

hay

o

E  0,0135   t

Chú ý: công thức trên có thể dùng để tính chuyển độ nhớt động học
thành độ nhớt quy ƣớc dùng trong thực tế. Việc tính chuyển ngƣợc lại thì
không nên do việc xác định độ nhớt quy ƣớc không chính xác và chủ yếu là
độ nhớt quy ƣớc là không phản ánh tính chất vật lý của chất lỏng.
Nhiều phƣơng pháp và thiết bị đƣợc dùng để đo độ nhớt, nhƣng quan
trọng nhất vẫn là những dụng cụ mao quản, mà trong mao quản đó thời gian
chảy của dầu tỷ lệ với độ nhớt động học. Nhiều hình dạng mao quản khác đã
đƣợc sử dụng, các chỉ tiêu kỹ thuật và các qui trình sử dụng của tất cả các loại
nhớt kế động học mao quản làm bằng thủy tinh đƣợc dẫn ra ở ASTM-D.446.
Có những phƣơng pháp xác định độ nhớt nhƣ sau [1, 8]:
 ASTM-D.445: dùng để xác định độ nhớt động học của các chất
lỏng có màu trong suốt và mờ đục, hay các sản phẩm dầu mỏ lỏng, đặc biệt là
dầu bôi trơn, thƣờng đo ở nhiệt độ 40 và 100oC.
 ASTM-D.1532: dùng để xác định độ nhớt của những chất lỏng bôi
trơn hàng không ở nhiệt độ thấp và số % chuyển đổi độ nhớt sau khoảng thời
gian là 3h và 72h mẫu đƣợc đặt ở nhiệt độ thấp.
 ASTM-D.2893: đo độ nhớt ở nhiệt độ thấp của các chất bôi trơn
hay dùng cho ôtô, dùng nhớt kế quay Brookfield.
 Đồ thị sự phụ thuộc độ nhớt động học vào nhiệt độ đƣợc dẫn ra
trong tiêu chuẩn D-341 (các độ nhớt - nhiệt độ dùng cho các sản phẩm dầu
lỏng) là những phƣơng tiện thuận lợi để xác định chính xác độ nhớt động học

của một loại dầu khoáng hay hydrocacbon lỏng ở bất kỳ nhiệt độ nào nằm
trong vùng giới hạn đã cho. Các đồ thị của sự phụ thuộc độ nhớt động học vào
nhiệt độ sẽ đƣợc thiết lập khi ta biết độ nhớt động học ở hai nhiệt độ khác
nhau.
 ASTM-D.2162: hƣớng dẫn dùng những nhớt kế mẫu và dầu có độ
nhớt chuẩn để kiểm tra các nhớt kế đo hàng ngày.

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần19Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

 Thông thƣờng ngƣời ta xác định độ nhớt của dầu nhờn ở nhiệt độ là
40 và 100oC thì ngƣời ta có thể đánh giá đƣợc là loại dầu nhờn đó là tốt hay
xấu, có còn đƣợc sử dụng đƣợc hay không. Ngƣời ta còn dùng độ nhớt để
phân loại dầu bôi trơn nói chung và dầu nhờn động cơ nói riêng.
II.3. CHỈ SỐ ĐỘ NHỚT [1, 6, 8, 15]:
Độ nhớt của dầu nhờn thay đổi theo nhiệt độ, áp suất. Tuy vậy, mối
tƣơng quan giữa nhiệt độ và độ nhớt gọi là tính nhớt nhiệt của dầu nhờn có ý
nghĩa quan trọng hơn cả.
Chỉ số nhớt kế VI (Viscosity Index) là con số ở trên thang đo qui ƣớc,
là một trị số chuyên dùng để đánh giá sự thay đổi độ nhớt của dầu bôi trơn
theo nhiệt độ. Chỉ số độ nhớt cao chứng tỏ là dầu đó ít thay đổi theo nhiệt độ,
và ngƣợc lại. Đối với dầu bôi trơn thì khi nhiệt độ càng tăng thì độ nhớt càng
giảm. Mức độ giảm độ nhớt của dầu nhờn khi nhiệt độ tăng là phụ thuộc vào
thành phần hóa học của dầu nhờn.

Tiêu chuẩn ASTM-D.2270 đƣa ra cách tính chỉ số độ nhớt của dầu bôi
trơn và các sản phẩm tƣơng tự từ giá trị độ nhớt động học của chúng đo ở
40oC và ở 100oC. Tiêu chuẩn này đƣa ra hai cách tính, phƣơng pháp thứ nhất
(A) áp dụng cho các sản phẩm có giá trị VI đến 100 còn phƣơng pháp thứ hai
(B) áp dụng cho các sản phẩm có giá trị VI bằng 100 hay lớn hơn. Chỉ số VI

là một giá trị bằng số đánh giá sự thay đổi độ nhớt theo nhiệt độ dựa trên cơ
sở so sánh khoảng thay đổi độ nhớt theo nhiệt độ của hai loại dầu chọn lọc
chuyên dùng, hai loại dầu này khác nhau rất lớn về VI.
Loại dầu có chỉ số độ nhớt thấp thì độ nhớt của dầu thay đổi rất nhiều
theo nhiệt độ (các loại dầu Naphten), ngƣợc lại các loại dầu có chỉ số độ nhớt
cao thì độ nhớt của dầu ít thay đổi theo nhiệt độ (các loại dầu Parafin).

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần20Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

L-H

§ é nhí t ®éng häc

L-U

VI cña dÇu U = 100.(L-U)/(L-H)


L (VI=0)

U

40

H (VI=100)
NhiÖt ®é, oC

100

Hình 2.1. Sự thay đổi độ nhớt của dầu bôi trơn theo nhiệt độ;
lý giải về chỉ số độ nhớt (VI).
L - độ nhớt của dầu có VI = 0 (dầu có VI thấp – dầu naphten).
H - độ nhớt của dầu có VI = 100 (dầu có VI cao – dầu Parafin).
U - độ nhớt của dầu cần phải tính chỉ số độ nhớt
Phƣơng pháp I: dùng cho các sản phẩm có chỉ số độ nhớt nhỏ hơn
hoặc bằng 100.
 Nếu độ nhớt động học ở 100oC mà nhỏ hơn hoặc bằng 70mm2/s
thì chỉ số độ nhớt đƣợc tính theo công thức nhƣ sau:
( L  U)
VI 
 100
( L  H)
Trong đó:
- U: độ nhớt động học ở 40oC của dầu mà ta cần tính chỉ số độ nhớt,
tính bằng mm2/s.
- L: độ nhớt động học đo ở 40oC của một loại dầu có chỉ số độ nhớt
bằng 0 và cùng độ nhớt động học ở 100oC với dầu mà ta cần tính chỉ số độ
nhớt, tính bằng mm2/s.

- H: độ nhớt động học ở 40oC của loại dầu có chỉ số độ nhớt bằng 100
và có cùng độ nhớt ở 100oC với dầu mà ta cần phải tính chỉ số độ nhớt,
mm2/s.
Những giá trị đó không đƣợc ghi trong bảng nhƣng nó vẫn nằm trong
phạm vi của bảng, thì bằng phƣơng pháp nội suy tuyến tính ta nhận đƣợc
những giá trị cần tìm.

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần21Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

 Nếu độ nhớt động học của dầu ở 100oC nhỏ hơn hay bằng 70
mm2/s thì các giá trị tƣơng ứng của L và H cần phải tra trong ASTM-D.2270.
Sau đây là bảng trích một phần trong ASTM-D.2270:
Bảng II.1

Những giá trị của L và H ứng với độ nhớt động học

ở 40oC và 100oC [1-trang 37, 17-trang 26]
Độ nhớt động học ở 100oC

Giá trị L

Giá trị H


2,00

7,994

6,394

2,10
5,00

8,640
40,23

6,894
28,49

5,10

41,99

29,48

15,00

296,5

149,7

 Nếu độ nhớt động học ở 100oC lớn hơn 70 mm2/s thì công thức
tính chỉ số độ nhớt nhƣ sau:
VI 


LU
 100 ,
D

với D = L – H

Trong đó:
- L đƣợc tính theo công thức sau: L = 0,8353 Y2 + 14,67 Y - 216...
- D đƣợc tính theo công thức nhƣ sau: D = 0,6669Y2 + 2,82Y - 119...
Phƣơng pháp II: dùng cho các dầu có chỉ số độ nhớt bằng 100 hoặc
lớn hơn 100.
Chỉ số độ nhớt đƣợc tính theo công thức nhƣ sau:
VI 

(anti log N)  1
 100
0,00715

N

lg H  lg U
lg Y

Trong đó :
- U và Y là những chỉ số độ nhớt đo đƣợc tƣơng ứng ở 40 và 100oC
của chất lỏng cần xác định chỉ số độ nhớt .
- H là độ nhớt động học ở 40oC của loại dầu có chỉ số độ nhớt bằng
100 và có cùng độ nhớt động học ở 100oC với dầu mà ta cần phải tính chỉ số
độ nhớt, mm2/s. Nếu độ nhớt động học ở 100oC mà nhỏ hơn hoặc bằng 70


Trường ĐHBK Hà Nội

Trần22Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

mm2/s thì giá trị H tƣơng ứng đƣợc tra từ ASTM-D.2270. Nếu độ nhớt động
học ở 100oC lớn hơn 70 mm2/s thì H đƣợc tính theo công thức nhƣ sau:

H  0,1684Y2  11,85Y  97
Ở các bảng trong tiêu chuẩn ASTM DS 39B cho phép đọc thực tiếp
chỉ số độ nhớt của các loại dầu mỏ. Các bảng đƣợc sắp xếp theo độ nhớt động
học ở 100oC. Bảng ASTM DS 39B bao gồm các chỉ dẫn độ nhớt từ 0 đến 300
đối những loại dầu có độ nhớt thấp và từ 0 đến 200 đối với những loại dầu có
độ nhớt cao. Vùng có độ nhớt đo ở 100oC là từ 2 đến 74,90 mm2/s và đo ở
40oC là từ 5,251 đến 5,569 mm2/s. Nếu độ nhớt chính xác của một loại dầu
không tìm thấy trong bảng thì có thể dùng phƣơng pháp nội suy giữa các giá
trị có trong bảng.
Trong nhiều trƣờng hợp, nếu nhiệt độ làm việc của máy mà ít thay đổi
thì ngƣời ta ít chú ý đến chỉ số độ nhớt. Còn trong trƣờng hợp nhiệt độ chạy
máy thay đổi trong khoảng rộng, nhƣ động cơ ôtô, thì cùng với một số tính
năng khác chỉ số độ nhớt cũng đƣợc coi trọng.
Trong quá trình sử dụng dầu có biểu hiện thay đổi chỉ số độ nhớt thì
đó là dầu nhiễm bẩn có lẫn các sản phẩm khác. Đôi khi quá trình oxi hóa cũng
là nguyên nhân làm tăng chỉ số độ nhớt trong quá trình sử dụng. Việc giảm
chỉ số độ nhớt VI cũng có thể là có những lực phá vỡ cấu trúc phân tử của các

phụ gia Polyme có mặt trong dầu bôi trơn.
II.4. MÀU SẮC [1, 8] :
Sự khác nhau về màu sắc của dầu bôi trơn có nguồn gốc từ sự khác
nhau về dầu thô dùng chế biến ra nó, về khoảng nhiệt độ sôi, về phƣơng pháp
và mức độ làm sạch trong quá trình tinh luyện, về hàm lƣợng và bản chất của
phụ gia pha vào trong dầu.
Màu dầu rất khác nhau: từ trong suốt đến màu sẫm hoặc màu đen kịt.
Ngƣời ta nhận thấy rằng dầu bị tối màu dần trong quá trình sử dụng là dấu
hiệu của sự nhiễm bẩn hay sự bắt đầu của quá trình oxi hóa. Sự sẫm màu của
dầu kèm theo sự thay đổi không lớn chỉ số trung hòa và độ nhớt thƣờng là dấu
hiệu của sự nhiễm bẩn các chất lạ. Các tạp chất có màu có thể làm thay đổi
màu dầu một cách rõ rệt, nhƣng không ảnh hƣởng đến các thuộc tính khác. Ví
dụ nhƣ màu dầu ít có ý nghĩa đối với dầu động cơ. Rất nhiều các dầu mới có

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần23Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

pha phụ gia tối màu và thông thƣờng trong quá trình sử dụng thì dầu của động
cơ tối màu rất nhanh.
Nói chung, các phƣơng pháp so màu đều dựa trên cơ sở so sánh bằng
mắt thƣờng, lƣợng ánh sáng truyền qua một bề dày xác định của một loại dầu
với lƣợng ánh sáng truyền qua của một trong số các dãy kính màu. Theo
ASTM-D.1500 (màu của các sản phẩm dầu mỏ) thì phƣơng pháp thử là
phƣơng pháp xác định bằng mắt màu của các loại dầu bôi trơn và một số

lƣợng lớn các sản phẩm dầu mỏ khác, các loại sáp cũng nằm trong số đó.
Ngƣời ta dùng một nguồn ánh sáng tiêu chuẩn, còn mẫu thì đƣợc đặt
trong buồng thử rồi so sánh màu với các đĩa thủy tinh, màu có giá trị từ 0,5
đến 8,0.
Phép xác định màu của các sản phẩm dầu mỏ đƣợc sử dụng chủ yếu
cho các mục đích kiểm tra trong quá trình sản xuất và đối với ngƣời tiêu dùng
thì màu dầu cũng là một chỉ tiêu chất lƣợng quan trọng, vì ngƣời ta nhìn thấy
đƣợc. Ví dụ, trong quá trình chế biến dầu gốc, màu sắc của dầu là dấu hiệu
hƣớng dẫn cho ngƣời tinh luyện biết rằng quá trình hoạt động sản xuất có tốt
không. Tuy nhiên, thuộc tính này ít có ý nghĩa vì chúng không nói lên đƣợc
chất lƣợng của dầu, trừ các trƣờng hợp dầu trắng trong y học và công nghiệp,
vì chúng thƣờng dùng để pha chế hay đƣợc dùng làm các sản phẩm mà độ bẩn
hay màu bẩn là không đƣợc ƣa chuộng.
II.5. KHỐI LƢỢNG RIÊNG VÀ TỶ TRỌNG [1]:
Khối lƣợng riêng là khối lƣợng của một đơn vị thể tích của một chất ở
nhiệt độ tiêu chuẩn. Tỷ trọng là tỉ số giữa khối lƣợng riêng của một chất lỏng
đã cho ở nhiệt độ qui định với khối lƣợng riêng của nƣớc ở cùng điều kiện
nhiệt độ đó. Nhƣ vậy, nếu khối lƣợng riêng của nƣớc là bằng 1 thì tỷ trọng
của dầu và khối lƣợng riêng của dầu là bằng nhau ở nhiệt độ quy định đó.
Trọng lƣợng API là một hàm đặc biệt của trọng lƣợng riêng chúng liên quan
với nhau theo phƣơng trình:
Trọng lƣợng API

=

141.5

- 131.5
o


Trọng lƣợng riêng 60/60 F
Nhƣ vậy giá trị API sẽ tăng khi trọng lƣợng của dầu thay đổi theo
nhiệt độ và đƣợc xác định ở nhiệt độ nhất định, sau đó đƣa về nhiệt độ chuẩn.
Có các phƣơng pháp xác định khối lƣợng riêng và tỷ trọng nhƣ sau:
Trường ĐHBK Hà Nội

Trần24Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


Đồ Án Tốt Nghiệp

Nghiên Cứu Tái Sinh Dầu Nhờn Thải

 Tiêu chuẩn ASTM-D.1250 cung cấp những bảng cho phép tính
chuyển khối lƣợng riêng và tỷ trọng đo đƣợc ở bất kỳ nhiệt độ nhiệt độ nào
trong khoảng từ -17,8oC (oF) đến 160oC (500oF) về nhiệt độ tiêu chuẩn ở
15,6oC (60oF).
 Phƣơng pháp đo ASTM-D.941 (khối lƣợng riêng và tỷ trọng của
chất lỏng đo bằng Pycnomet Lipkin có hai capila) dùng cho các phép đo khối
lƣợng riêng của chất lỏng bôi trơn bất kỳ có độ nhớt nhỏ hơn 15 mm/s ở
12oC.
 Phƣơng pháp ASTM-D.1298 thƣờng dùng trong phòng thí ngiệm.
Ngƣời ta sử dụng một tỷ trọng kế bằng thủy tinh để xác định khối lƣợng
riêng, tỷ trọng, hay trọng lƣợng API của tất cả các sản phẩm dạng lỏng.
Phép xác định khối lƣợng riêng khá nhanh và dễ dàng vì các sản phẩm
của phân đoạn dầu thô nhất định thì chúng có khoảng nhiệt độ sôi và độ nhớt
nhất định cho nên chúng có khối lƣợng riêng trong một khoảng xác định. Ta
biết rằng với các loại dầu nhờn gốc khác nhau thì có khối lƣợng riêng khác
nhau ở cùng điều kiện nhiệt độ nhƣ nhau. Ví dụ nhƣ các loại dầu gốc parafin
có khối lƣợng riêng nhỏ hơn các loại dầu gốc có chứa thành phần naphten và

aromat. Chính vì vậy, ngƣời ta sử dụng khối lƣợng riêng trong việc nhận biết
các loại dầu nếu ta biết đƣợc khoảng nhiệt độ chƣng và độ nhớt của dầu.
Phép đo khối lƣợng riêng kết hợp với các phép đo khác cho phép nhận
biết thành phần hydrocacbon có trong dầu nhờn gốc, nhƣ thành phần parafin,
naphten và aromat.
Khối lƣợng riêng của một chất bôi trơn ít có ý nghĩa trong vịêc đánh
giá chất lƣợng. Khối lƣợng riêng của dầu đã sử dụng cũng gần bằng khối
lƣợng riêng của dầu mới. Một giá trị khối lƣợng riêng bất thƣờng cho thấy
rằng dầu bị lẫn các sản phẩm khác hay một dung môi hay một chất khí. Chẳng
hạn, sự thay đổi khối lƣợng riêng của dầu động cơ có thể là do dầu bị nhiễm
chất bẩn hoặc có lẫn nhiên liệu vào. Tuy nhiên, khối lƣợng riêng và tỷ trọng
đƣợc dùng chủ yếu là để xác lập các chỉ tiêu về trọng lƣợng và thể tích trong
vận chuyển, tồn chứa và mua bán. Nhƣ vậy, ứng dụng chủ yếu của khối lƣợng
riêng là để chuyển đổi trọng lƣợng sang thể tích hay từ thể tích sang trọng
lƣợng.

Trường ĐHBK Hà Nội

Trần25Thị Thanh Hiên, Lớp HD-K44QN


×