Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bài tập nhóm luật hình sự việt nam 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.44 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÀI TẬP NHÓM

HỌC PHẦN: LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1
NHÓM THẢO LUẬN HÌNH SỰ 1
THÀNH VIÊN NHÓM:
1. HOÀNG THỊ DIỆU LINH – LKT K24 A2 – 19A51010113
2. VŨ KIM NGÂN – LKT K24 A1 – 19A51010086
3. ĐINH ĐỨC PHÚC SƠN – LKT K24 A2 – 19A51010006
4. HOÀNG THỊ THOA – LKT K24 A2 – 19A51010270
5. HÀ THỊ SIM TÍM – LKT K24 A2 – 19A51010255
6. NGUYỄN THỊ KIỀU TRINH – LKT K24 A2 – 19A51010027
7. NGUYỄN NGỌC TUÂN – LKT K24 A2 – 19A51010159
8. LÊ THỊ NGUYỆT VI – LKT K24 A2 – 19A51010236


Câu 1.
a, Hiệu lực BLHS Việt Nam 2015 theo thời gian:
Bộ luật Hình sự số: 100/2015/QH13 (hay còn gọi là Bộ luật hình sự 2015)
và Luật số: 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình
sự số: 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
Hiệu lực theo thời gian:
- Khái niệm: Là phạm vi áp dụng BLHS 2015 đối với hành vi phạm tội
trong khoảng thời gian nhất định.
- Cơ sở pháp lý: Điều 7 BLHS Việt Nam 2015
- Nội dung:
1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có
hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.


2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình
tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm
hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa
án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được
áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu
lực thi hành.
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng,
quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng
phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện,
xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng
đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi
hành.
Ví dụ: Công văn 80/TANDTC-PC năm 2016 về xử lý hành vi đánh bạc
trái phép dưới 5.000.000 đồng do Tòa án nhân dân tối cao ban hành. Công
văn quy định áp dụng Điều 25 Bộ luật Hình sự 1999 nếu vụ án đang trong
giai đoạn xét xử kể từ ngày 09-12-2015 (ngày công bố Bộ luật hình sự năm
2015) đến hết ngày 30-6-2016 đối với người thực hiện hành vi đánh bạc trái
phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới
5.000.000 đồng.
Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Tội tổ chức
mang thai hộ vì mục đích thương mại nhưng Bộ luật Hình sự 1999 thì
không.


Một người thực hiện hành vi tổ chức mang thai hộ vào trước thời điểm có
hiệu lực của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 (trước ngày
01/01/2018) thì người đó sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.

b, Thời điểm xảy ra vụ án là ngày 7/11/2016, việc áp dụng BLHS 1999 và

BLHS 2015 trong cùng một vụ án khi quyết định hình phạt là phù hợp.
Bởi vì:
Vụ án xảy ra ngày 7/11/2016, tức là khi BLHS năm 1999 đang có hiệu lực
và BLHS năm 2015 chưa có hiệu lực nên đương nhiên phải áp dụng BLHS
1999 để giải quyết vụ việc và quyết định hình phạt.
Tuy nhiên sau đó BLHS 2015 được áp dụng vào vụ án bởi vì tại BLHS
2015 các quy định mới có lợi hơn đối với người phạm tội. Đây gọi là hiệu
lực trở về trước. Trong pháp luật hình sự hiện hành, không quy định hiệu
lực trở về trước đối với điều luật mới không có lợi cho người phạm tội.
Riêng đối với điều luật mới có lợi cho người phạm tội thì áp dụng hiệu lực
trở về trước. (Cụ thể tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.)
Khoản 1 Điều 152Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy
định: "1-Chỉ trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của
xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định
trong luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan trung ương mới được quy địnhhiệu lực trở về trước".
Quy định cho phép áp dụng hiệu lực trở về trước này, một mặt mang tính
nhân đạo đối với người phạm tội; mặt khác, khi tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội không còn hoặc giảm đáng kể nên tội
phạm đó đã được đã xoá bỏ trong BLHS mới hoặc quy định hình phạt nhẹ
hơn thì việc trừng trị người phạm tội như trước đây không còn cần thiết.
 Như vậy, việc áp dụng cả 2 BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 trong vụ án này
để quyết định hình phạt là hợp lí và phù hợp.
Ví dụ: Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì người tham gia
đánh bạc với mức tiền từ 2 triệu đồng trở lên là phải chịu trách nhiệm hình
sự (phạm tội đánh bạc). Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì
người tham gia đánh bạc với mức tiền 5 triệu đồng trở lên mới phải chịu
trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự năm 2015 được công bố ngày
19/12/2015 và ngày có hiệu lực là ngày 01/01/2018. Kể từ ngày bộ luật



hình sự mới được công bố, 2 năm tiếp theo tuy chưa có hiệu lực nhưng quy
định mới về mức tiền 5 triệu đồng là quy định có lợi cho những người có
hành vi đánh bạc nên nếu họ đã tham gia với mức tiền 2 triệu đồng trở lên
nhưng chưa tới 5 triệu đồng thì họ không bị kết tội đánh bạc. Quy định này
được áp dụng cho cả những người đã tham gia đánh bạc trước ngày công bố
luật mới mà sau ngày công bố luật mới mới bị phát hiện hoặc bị xem xét xử
lý.
Câu 2.
a,
* Các vấn đề trong khái niệm tội phạm:
- Thứ nhất, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội :
Có thể nói đây là dấu hiệu quan trọng nhất của tội phạm. Bởi vì tội phạm trước hết
phải là hành vi, không có hành vi thì không có tội phạm. Đối với luật hình sự Việt
Nam không truy cứu trách nhiệm đối với những âm mưu, ý nghĩ, dự định chưa được
thể hiện ra thế giới bên ngoài bằng hành vi.Đồng thời tội phạm phải là hành vi nguy
hiểm đáng kể cho xã hội thể hiện ở mặt đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho xã hội.Thiệt
hại ở đây có thể là thiệt hại về vật chất, tinh thần, thể chất hoặc những thiệt hại khác
mà hành vi gây ra cho xã hội.
- Thứ hai, hành vi của tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện:
Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng của tội phạm. Năng lực trách nhiệm hình sự là
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.Một hành vi được coi là tội phạm
khi hành vi đó do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện và đạt độ tuổi nhất
định do luật định. Như vậy người thực hiện hành vi dù có nguy hiểm đáng kể cho xã
hội nhưng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện Như người bị tâm thần
hoặc mất khả năng nhận thức thì không phải là tội phạm và không phải chịu trách
nhiệm hình sự.
- Thứ ba, hành vi của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự có nghĩa là

tội phạm phải được quy định trong Bộ luật hình sự:
Đây còn được gọi là dấu hiệu hình thức của tội phạm. Theo quy định tại điều 2 Bộ luật
Hình sựnăm 2015 thì chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này nhằm bảo đảm cho đường lối đấu
tranh phòng chống tội phạm được thống nhất, bảo đảm cho quyền chính đáng của
công dân tránh sự tùy tiện nghi phạm từ các cơ quan có thẩm quyền.
- Thứ tư, tội phạm phải chịu hình phạt:
Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng bị áp dụng một hình phạt đã được quy định
trong Bộ luật hình sự.


Một người thực hiện các hành vi có đủ 4 dấu hiệu trên thì được coi là tội phạm.
* Các yếu tố của tội phạm:
- Thứ nhất, tính nguy hiểm cho xã hội: hành vi có tính nguy hiểm cho xã
hội được hiểu là hành vi đó gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội…” Như vậy, tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất để
xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không. Một hành vi bị coi là tội phạm
bản chất trong hành vi ấy đã chứa đựng tính nguy hiểm cho xã hội.
Để xác định tính nguy hiểm cho xã hội, thường dựa vào các căn cứ sau:
Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại;
Phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội
Mức độ gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội;
Tính chất và mức độ lỗi;
Động cơ và mục đích của người phạm tội;
Các căn cứ khác như hoàn cảnh xã hội, nhân thân người phạm tội,...
- Thứ hai, tính có lỗi: lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của chủ thể đối với
hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả của hành vi
đó dưới hình thức vô ý hoặc cố ý. Bản chất của lỗi thể hiện ở việc người thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được nguy hiểm đó nhưng tự mình lựa chọn
và quyết định thực hiện hành vi trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn một xử sự khác
phù hợp với lợi ích của xã hội.
Lỗi được phân loại thành lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Theo đó lỗi cố ý bao gồm:
Cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong
muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Lỗi vô ý bao gồm:
Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy
ra hoặc có thể ngăn ngừa được.


Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước
hậu quả đó.
- Thứ ba, tính trái pháp luật hình sự: Một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
coi là tội phạm nếu “... được quy định trong luật hình sự”.
Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ
luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Như vậy hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự hay tính trái
pháp luật hình sự là một dấu hiệu của tội phạm. Bất cứ hành vi nào không được quy
định là một tội trong Bộ luật Hình sự thì việc thực hiện hành vi đó không bị xem là tội
phạm.

- Thứ tư, tính phải chịu hình phạt: Tính phải chịu hình phạt thể hiện ở chỗ
bất cứ tội phạm nào cũng đều bị áp dụng hoặc đe dọa áp dụng biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất là hình phạt. Hình phạt được coi là cơ chế răn đe, giáo dục đối với
tội phạm.
* Yếu tố của cấu thành tội phạm:
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ ,bị tội
phạm xâm hại,gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
- Mặt khách quan của tôi phạm là những biểu hiện của bên ngoài tội
phạm.Mặt khách quan bao gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội ,hậu quả
tác hại do tội phạm gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả
do hành vi đó gây ra ; thời gian, địa điểm; công cụ phương tiện thực hiện tội phạm. v.v
- Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của tội phạm,là
thái độ tâm lý của người phạm tội.Mặt chủ quan của tội phạm gồm các dấu hiệu
lỗi,động cơ, mục đích cuả tội phạm.
- Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi phạm tội ,mà
theo quy định của Luật Hình sự họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đó.Chủ thể của
tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định
của pháp luật Hình sự.


* Phân loại tội phạm và cấu thành tội phạm:
- Tội phạm: 4 loại:
+ Tội phạm ít nghiêm trọng
+ Tội phạm nghiêm trọng
+ Tội phạm rất nghiêm trọng
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
- Cấu thành tội phạm:
• CTTP cơ bản.
• CTTP tăng nặng.
• CTTP giảm nhẹ.

• CTTP vật chất.
• CTTP hình thức.
• CTTP cắt xén
b, Trong vụ án trên thì:
- Tội phạm là tội giết người và cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng.
- Các yếu tố của tội phạm:
+ Tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi cho xã hội: Giết người.
+ Tính có lỗi: Lỗi cố ý trực tiếp.
+ Tính trái pháp luật hình sự: Đã xâm phạm tới khách thể mà luật hình sự
bảo vệ đó là quan hệ nhân thân.
+ Tính phải chịu hình phạt: Hình phạt 11 năm tù.
- Tội phạm trong vụ án là loại tội phạm rất nghiêm trọng.
- Cấu thành tội phạm loại cơ bản vì nó thoả mãn đủ các dấu hiệu của 1 CTTP đó là
tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật.
Câu 3:
a)
1. Khái niệm: Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước của quá trình thực
hiện tội phạm cố ý được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biển hiệu nhằm
đánh giá sự diễn biến mức độ thực hiện ý định phạm tội, làm cơ sở cho việc
xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt.
2. Dấu hiệu: Các giai đoạn phạm tội chỉ diễn ra trong các tội được thực hiện bằng
lỗi cố ý trực tiếp. Đối với tội vô ý, người phạm tội không có ý định phạm tội,
không mong muốn hậu quả xảy ra cho nên tội vô ý chỉ có thể là những tội đã
hoàn thành, không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt.


3. Phân loại: quá trình thực hiện tội phạm (lỗi cố ý) có ba giai đoạn:
- Giai đoạn chuẩn bị phạm tội;
- Giai đoạn phạm tội chưa đạt;

- Giai đoạn tội phạm đã hoàn thành.
Các giai đoạn phạm tội chỉ diễn ra trong các tội được thực hiện bằng lỗi
cố ý trực tiếp.
Đối với tội vô ý, người phạm tội không có ý định phạm tội, không mong
muốn hậu quả xảy ra cho nên tội vô ý chỉ có thể là những tội đã hoàn thành,
không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt.
Cụ thể các giai đoạn phạm tội như sau:
Nội dung

Chuẩn bị phạm
tội

Phạm tội chưa
đạt

Tội phạm hoàn
thành

Khái niệm

Căn cứ khoản 1
Điều 14, chuẩn
bị phạm tội là
tìm kiếm,
sửa
soạn công
cụ,
phương
tiện
hoặc tạo

ra
những điều kiện
khác để
thực
hiện tội phạm
hoặc thành lập,
tham gia nhóm
tội phạm
trừ
trường hợp quy
định tại
Điều
109, điểm
a
khoản 2
Điều
113 hoặc điểm a
khoản 2
Điều
299 của Bộ luật
hình sự 2015.
-Thứ
nhất,
chuẩn bị phạm
tội tồn tại dưới

Căn cứ Điều 15,
phạm tội chưa
đạt là cố ý thực
hiện tội phạm

nhưng
chưa
thực hiện được
đến cùng

những
nguyên
nhân ngoài
ý
muốn của người
phạm tội.

Tội phạm đã
hoàn thành khi
hành vi phạm
tội đã thoả mãn
đầy đủ các dấu
hiệu được mô
tả trong
cấu
thành tội phạm.

Đặc điểm

Tự ý nửa
chừng chấm
dứt hành vi
phạm tội
Căn cứ Điều 16,
tự ý nửa chừng

chấm dứt việc
phạm tội là tự
mình
không
thực hiện
tội
phạm đến cùng,
tuy không có gì
ngăn cản.

-Thứ
nhất, Đã
có đầy đủ -Nửa chừng: tức
người phạm tội các dấu hiệu phải xảy ra ở
đã trực tiếp thực của cấu thành giai đoạn chuẩn


dạng “hành vi”
và hành
vi
chuẩn bị liên
quan trực tiếp
đến quá trình
thực hiện
tội
phạm như: tìm
kiến công cụ,
phương
tiện
phạm tội; tạo

điều kiện cần
thiết
khác
(nghiên
cứu,
xem xét
địa
hình nơi dự định
thực hiện
tội
phạm,..),..

hiện tội phạm
qua việc:
thực
hiện hành
vi
khách
quan
được mô
tả
trong cấu thành
tội phạm,
hoặc
thực hiện hành
vi đi liền trước
hành vi khách
quan.

tội phạm cụ thể

quy định trong
Bộ luật Hình
sự, các
dấu
hiệu đó là dấu
hiệu điển hình
phản ánh bản
chất của
tội
phạm, các dấu
hiệu đó đều là
dấu hiệu bắt
buộc.

bị phạm tội
hoặc phạm tội
chưa đạt.
-Tự ý, tức phải:
+Tự
nguyện
chấm dứt hành
vi phạm tội.

+Chấm dứt một
cách dứtkhoát:
triệt để, từ bỏ
-Thứ hai, người
hẳn
ý định
phạm tội chưa Như vậy,

tội phạm tội.
thực hiện
tội phạm
hoàn
phạm đến cùng thành chỉ cần
(tức chưa hành đáp ứng
các
vi của họ chưa dấu hiệu cấu -Thứ
hai, ý định thỏa mãn hết thành tội phạm phạm tội đã
các dấu hiệu về mà không cần
được biểu hiện mặt khách quan phải xét đến
ra bên ngoài. trong cấu thành thời điểm hành
Thời
điểm tội phạm (dấu vi phạm tội đó
muộn nhất của hiệu phân biệt đã hoàn toàn
giai đoạn chuẩn với tội phạm chấm dứt trên
bị phạm tội là hoàn thành).
thực tế hay
thời điểm trước
chưa.
lúc người phạm -Thứ ba, nguyên
tội thực hiện nhân
không Cần phân biệt
hành vi khách thực hiện
tội tội phạm hoàn
quan được quy phạm đến cùng thành với tội
định trong cấu là do:
phạm kết thúc:
thành tội phạm khách
quan + Tội phạm

(là những dấu ngoài ý muốn hoàn
thành:
hiệu chung cho hoặc sai lầm của hành vi phạm
loại tội phạm cụ người phạm tội tội thỏa mãn
thể được
quy (về đối tượng hết các dấu
định trong luật) tác động hay hiệu về mặt
hoặc hành vi đi công
cụ, pháp lý quy
liền trước hành phương tiện,…) định trong luật.


vi khách quan.

Phạm vi
trách
nhiệm
hình sự

Mức độ
trách
nhiệm
hình sự

như: bắn nhưng
đạn không nổ,
+Thứ
ba, thuốc độc không
nguyên
nhân đủ liều lượng,…

không thực hiện
tội phạm được
đến cùng là do
khách
quan
ngoài ý muốn
(yếu
tố giúp
phân biệt với tự
ý
nửa chừng
chấm dứt phạm
tội).

+ Tội phạm kết
thúc:
hành vi
phạm tội thực
sự chấm dứt
trên thực tế.

Chỉ phải
chịu
trách
nhiệm
hình sự đối với
những
tội quy
định tại khoản 2
Điều 14 Bộ luật

hình sự 2015.

Người phạm tội
chưa đạt phải
chịu
trách
nhiệm hình sự
về tội
phạm
chưa đạt (Điều
15).

Mọi hành vi tội
phạm
hoàn
thành
về
nguyên tắc đều
phải chịu trách
nhiệm hình sự.

Hình phạt được
quyết định trong
phạm vi khung
hình phạt được
quy định trong
các điều luật cụ
thể (Khoản
2
Điều 57 Bộ luật

hình sự 2015).

Nếu điều luật
được áp dụng có
quy định hình
phạt cao nhất là
tù chung
thân
hoặc tử hình thì
áp dụng hình
phạt
tù không
quá 20 năm; nếu
là tù có thời hạn
thì mức
hình

Áp dụng theo
quy định
tại
từng điều luật
của
tội phạm
cụ thể.

 Hai

thời

điểm

trên

thể
trùng nhau
hoặc
không
trùng nhau.

Được
miễn
trách
nhiệm
hình sự về tội
định
phạm.
(Điều 16)
Lưu ý: chỉ là
người phạm tội
được miễn trách
nhiệm hình
sự,
tức vẫn bị coi là
tội phạm.
Người tự ý nửa
chừng chấm dứt
việc phạm tội
được miễn trách
nhiệm hình
sự
về

tội
định
phạm; nếu hành
vi thực tế đã
thực hiện có đủ
yếu tố cấu thành
của một
tội


Ví dụ

Đ biết gia đình
anh M thường
không có
ai ở
nhà vào
buổi
sáng. Khoảng 9
giờ ngày
26
tháng 7
năm
2019, Đ
phá
khóa nhà anh M
để lấy tài sản. Đ
đang dắt chiếu
xe máy của anh
M ra sân (chiếc

xe máy trị giá
30 triệu đồng),
đúng lúc đó anh
M quay về nhà,
phát hiện và hô
hoán. Đ bị mọi
người bắt
giữ. Đ bị Tòa xử
phạt 3 năm tù về
tội trộm cắp tài
sản.. Mặc

chưa thực hiện
hành vi trộm xe
máy của anh M
nhưng hành vi
của Đ đã thoả
mãn các
dấu
hiệu cấu thành
tội phạm của tội
trộm cắp tài sản

phạt không quá
ba phần tư mức
phạt tù mà điều
luật quy định.
(khoản 3 Điều
57 Bộ luật hình
sự 2015).

Do S có mâu
thuẫn với anh T
từ trước trong
quá trình buôn
bán vải ở chợ
đầu mối, S đã
bàn bạc với C
cách thức trả thù
T. S và C thống
nhất đêm 01/6
sẽ mua 03 lít
xăng hất vào
cửa hàng
vải
của T rồi châm
lửa đốt cháy cửa
hàng của
T.
Thực hiện đúng
kế hoạch đã bàn
bạc, tối 01/6 S
và C cùng đi
mua xăng cho
vào can nhựa rồi
lên xe máy đem
đến cửa hàng
vải của anh T, S
và C đã tưới
xăng châm lửa
đốt cửa hàng

nhưng đúng lúc
trời mưa rào rất
to nên lửa mới
bùng lên đã bị
dập tắt
ngay,

khác, thì người
đó phải
chịu
trách
nhiệm
hình sự về tội
này.

Dựa vào đặc
điểm của các
loại cấu thành
tội
phạm, có
thể rút ra được
kết luận về thời
điểm
hoàn
thành của các
loại tội có cấu
thành vật chất,
cấu thành hình
thức và
cấu

thành cắt xén
như sau:
- Tội phạm có
cấu thành vật
chất:
hoàn
thành
khi
người phạm tội
đã gây hậu quả
của tội phạm
(Ví dụ: đối với
tội giết người
thì tội phạm
hoàn thành khi
hậu quả chết
người đã xảy
ra).
- Tội phạm có
cấu thành hình
thức:
hoàn

T là
Trưởng
phòng maketing
của Công
ty
kinh doanh bất
động sản. Ông

V là Giám đốc
Công ty
cho
rằng T không có
năng lực phát
triển thị trường
và là
nguyên
nhân chính làm
Công ty
kinh
doanh thua lỗ
nên đã
quyết
định cho T nghỉ
việc, cắt toàn bộ
chế độ lương,
thưởng,
không
cho T
hưởng
chế độ trợ cấp
thôi việc. T bực
tức lên cửa khẩu
Tân Thanh
Lạng Sơn mua
01 khẩu
súng
K54 và 12 viên
đạn với ý định

khi gặp dịp sẽ
tìm gặp Giám
đốc Công ty bắn
cảnh cáo
vào
chân Giám đốc


quy định
tại
Khoản 1 Điều
173 Bộ
luật
hình sự,
vẫn
phải chịu trách
nhiệm hình sự
về tội định thực
hiện này.

cửa hàng
vải
không bị cháy,
không bị hư hại
gì. Cửa hàng vải
của
anh
T
không bị
huỷ

hoại do trời mưa
to là
nguyên
nhân xảy
ra
ngoài ý chí chủ
quan của S và
C, tuy nhiên S
và C đã thực
hiện đầy
đủ
hành vi
cấu
thành tội phạm
nên vẫn đủ điều
kiện bị khởi tố,
điều tra, truy tố,
xét xử ở tội huỷ
hoại tài
sản
hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản
quy định
tại
Điều 57 Bộ luật
Hình sự ở giai
đoạn phạm tội
chưa đạt.

thành ngay khi

người phạm tội
đã thực hiện
được hành
vi
phạm tội
(Ví
dụ: tội cướp tài
sản, chỉ
cần
thực hiện hành
vi dùng vũ lực
nhằm
chiếm
đoạt tài sản là
tội phạm hoàn
không cần hậu
quả chiếm đoạt
thành công tài
sản).
- Tội phạm có
cấu thành cắt
xén:
hoàn
thành
khi
người phạm tội
đã có những
hoạt động bất
kì nhằm thực
hiện hành

vi
phạm tội
(Ví
dụ: đối với tội
hoạt
động
nhằm lật
đổ
chính
quyền
nhân dân, tội
phạm
hoàn
thành ngay khi
người phạm tội
có hoạt động
thành lập tổ
chức nhằm lật
đổ chính quyền
nhân
dân,

để trả thù.
10
ngày sau T lắp
đạn vào súng rồi
đến Công ty tìm
gặp Giám
đốc,
tuy nhiên khi

đứng đối diện
với Giám đốc, T
đã suy nghĩ lại,
quyết
định
không trả
thù
nữa vì biết việc
làm này sẽ phải
chịu hậu
quả
trước pháp luật.
T đem súng và
đạn đến chợ sắt
Hải Phòng để
bán
lại
cho
người
khác
nhưng đã
bị
Công an
phát
hiện, bắt giữ.
Như vậy T đã tự
nhận thức
ra
hành vi dùng
súng gây thương

tích cho người
khác là trái pháp
luật,
tự giác
không tiếp
tục
thực hiện hành
vi
dùng súng
gây thương tích
nên sẽ không bị
truy cứu hình sự
ở tội Cố ý gây
thương
tích.
Tuy nhiên hành


không cần việc
thành lập tổ
chức đã hoàn
thành).

vi mua súng,
tàng trữ súng
của T lại thoả
mãn đầy đủ các
yếu tố cấu thành
tội phạm của tội
Mua bán, tàng

trữ trái phép vũ
khí quân dụng
quy định tại
Điều 304 Bộ
luật Hình sự
2015, T sẽ phải
chịu
trách
nhiệm hình sự
về tội này.

b)
- Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước của quá trình thực hiện tội phạm cố ý
được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biển hiệu nhằm đánh giá sự diễn biến mức
độ thực hiện ý định phạm tội, làm cơ sở cho việc xác định phạm vi và mức độ trách
nhiệm hình sự và hình phạt.
Xác định giai đoạn phạm tội của Hồ Văn T:
- Trong tình huống đã nêu trên, ta có thể xác định được giai đoạn phạm tội của T
là giai đoạn tội phạm hoàn thành. Sở dĩ nói như vậy là bởi những nguyên nhân
sau đây:
Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có cơ sở để xác định phạm vi
trách nhiệm hình sự của người phạm tội, luật hình sự Việt Nam phân biệt ba mức
độ thực hiện tội phạm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành (Điều 14, Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015).
Có thể thấy trong tình huống đã nêu, hành vi của T đã thỏa mãn các dấu hiệu để
xác định đó là trường hợp tội phạm hoàn thành. “Tội phạm đã hoàn thành khi hành
vi phạm tội đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội
phạm.”
Trước hết cần hiểu hành vi dùng dao để chống trả là trường hợp một hành vi cấu
thành 2 tội phạm tội giết người và tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng. Ta khẳng định tội giết người và tội cố ý gây thương tích do
phòng vệ chính đáng là tội có cấu thành tội phạm vật chất; như đã biết, dựa vào
đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể chia cấu thành tội
phạm thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức:


– Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có dấu hiệu của mặt khách
quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả;
– Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt
khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Thứ nhất, T đã bắt đầu thực hiện tội phạm – đã thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong cấu thành tội phạm tội “cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng” (áp dụng khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và điểm b, s khoản 1 , khoản 2 Điều 51 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 - sửa đổi, bổ sung năm 2017), đó là hành vi dùng dao nhọn
đâm đâm một nhát trúng vào bụng của Trần T1 để chống trả và đâm một nhát vào
lưng anh S khi mà anh S ra can ngăn.
Thứ hai, T đã bắt đầu thực hiện tội phạm – đã thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong cấu thành tội phạm tội “giết người” (áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm
b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015), đó là hành vi dùng dao
nhọn đâm một nhát trúng vào vùng ngực của anh S, toàn bộ phần lưỡi dao ngập
vào người anh S, còn phần cán dao và tay của T chạm vào da thịt của anh S. Sau
đó T vì sợ hãi mà rút dao ra và bỏ chạy về nhà. Dù được mọi người đưa đi cấp cứu
ngay sau đó nhưng do vết thương quá nặng nên anh S đã tử vong (tỉ lệ thương tật
83%). T đã thực hiện được hành vi khách quan là đâm nhát dao vào ngực của S và
đã gây ra hậu quả của tội phạm.
Như vậy, hành vi của T đã thực hiện là giai đoạn tội phạm hoàn thành ở cả 2 tội
danh là tội “cố ý gây thương tích do vượt quá phòng vệ chính đáng” và tội “giết
người”.

Câu 4.

a, Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về phòng vệ chính đáng như sau: “1.
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính
đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức
mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích
nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Ý nghĩa của việc phòng vệ chính đáng: Đảm bảo cho mọi công dân có điều kiện
để bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình,của người khác, của xã hội, đồng
thời phát huy quyền làm chủ tập thể của công dân trong quản lý Nhà nước, quản
lý xã hội. là cơ sở để hướng dẫn hành vi xử sự của mọi người một cách hợp lý
phù hợp với những trường hợp cụ thể không vượt quá quyền và nghĩa vụ của
công dân cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức khác.
Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng:


Là sự tấn công đang hiện hữu, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập
thể, quyền hoặc lợi ích chính đáng của công dân.Như vậy, chỉ có thể nói đến
phòng vệ chính đáng khi có hành vi của con người đang gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi này có thể xâm phạm quyền và lợi ích của
Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của công dân khác mà không
nhất thiết phải xâm phạm đến quyền hoặc lợi ích chính đáng của người phòng
vệ. Quyền hoặc lợi ích chính đáng bị xâm phạm có thể là an ninh trật tự quốc
gia, quyền nhân thân, quyền sở hữu.
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức
cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định của Bộ luật này”.
Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết

khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị
phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng
đến 02 năm:
3. a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31%
đến 60%;
4. b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên.
5. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì
bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
Ví dụ: “A cầm gậy đánh B nhưng B túm được cây gậy và tước được cây gậy từ
A, do bực tức, B cầm gậy đánh vào đầu A và khiến A thương tích nặng” . Như
trong tình huống này, hành vi A cầm gậy đánh B là hành vi vi phạm pháp luật và
hành vi tước cây gậy của B là phòng vệ chính đáng tuy nhiên khi đã tước được
cây gậy tức là hành vi xâm phạm của A không còn đe doạ đến B nữa nhưng do
tức giận B lấy cây gậy tước được từ A đánh vào đầu và khiến A bị thương nặng
là hành vi vượt quá mức cần thiết của phòng vệ và được coi là vượt quá giới hạn
của phòng vệ chính đáng. Trong thực tế, xảy ra rất nhiều trường hợp người
chống trả sau khi đã thoát khỏi sự đe doạ xâm phạm hay đã chống trả khiến
người xâm phạm không còn khả năng đe doạ xâm phạm đến


quyền, lợi ích của mình, của người khác, lợi ích xã nội nữa nhưng vẫn tiếp tục
thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người xâm phạm. Đây được coi là hành vi
chống trả không cần thiết hay quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất

mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm.
b, Những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ của anh
Hồ Văn T:
Khách thể cần bảo vệ: bảo vệ tính mạng.
Mức độ thiệt hại: thiệt hại về sức khoẻ (84%).
Vũ khí: + bị cáo( Hồ Văn T ): dao. + bị hại( Trần T1): tay, chân đấm.
Cường độ sự tấn công với phòng vệ: Hành vi dùng dao đâm của anh T rõ
ràng là nguy hiểm hơn hành vi dùng tay chân đấm của a Trần T1.
Hoàn cảnh nơi xảy ra sự việc: tại đám cưới nhà ông Huỳnh Văn B ( nơi
đông người ).
Tâm lý người phòng vệ: trong trường hợp này anh Hồ Văn T bị chặn lại
bất ngờ nhưng a có đầy đủ các điều kiện để lựa chọn được chính xac
phương pháp và phương tiện chống trả thích hợp. Vd: hô hoán, bỏ chạy...
 Từ các mặt trên ta nhận thắy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra,
người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện phương pháp quá đáng
và gây thiệt hại quá mức (anh Trần T1 thương tích 84% ) đối với anh
Trần T1 là người có hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không
tương xứng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Do anh Hồ Văn T gây thương tích và tổn hại sức khoẻ anh Trần T1 mà tỉ lệ tổn
thương cơ thể từ 61% trở lên thì bị phạt tù từ 3 tháng đến hai năm. ( Đ106
BLHS 1999).
Chính vì vậy, việc xác định vượt quá giới hạn phòng vệ chính đág của toàn án
cấp sơ thẩm hoàn toàn đúng.
Câu 5.
a, Căn cứ quyết định hình phạt bao gồm những nội dung sau:
 Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự;
Theo Luật hình sự Việt Nam thì nội dung các quy định của Bộ luật Hình sự mà
Toà án phải tuân thủ nghiêm chỉnh khi quyết định hình phạt bao gồm:
o Các quy định có tính nguyên tắc về tội phạm và hình phạt trong Phần
chung của Bộ luật Hình sự.

o Điều luật quy định hình phạt đối với tội phạm cụ thể trong Phần các tội
phạm của Bộ luật Hình sự.


Trước khi quyết định hình phạt, Toà án phải xác định xem bị cáo bị xét xử về
tội gì và trên cơ sở điều khoản nào của Bộ luật Hình sự.
Sau khi định tội, Toà án quyết định hình phạt đôi với người phạm tội và việc
quyết định hình phạt phải căn cứ vào các qui định của Phần chung Bộ luật Hình
sự như “nguyên tắc xử lý” (Điều 3 Bộ luật Hình sự), vấn đề chuẩn bị phạm tội
(Điều 17 Bộ luật Hình sự), phạm tội chưa đạt (Điều 18 Bộ luật Hình sự), vấn
đề đồng phạm (Điều 20 Bộ luật Hình sự).
Ngoài một số quy định đã nói trên, còn có các quy định khác có tính nguyên tắc
của Phần chung Bộ luật Hình sự mà Toà án cũng phải xem xét. Đó là mục đích
hình phạt (Điều 27 Bộ luật Hình sự), nội dung, phạm vi và điều kiện của từng
loại hình phạt (các điều từ 29 đến Điều 40 của Bộ luật Hình sự)…
Tuân thủ nghiêm chỉnh Điều luật quy định mức hình phạt đối với tội phạm cụ
thể trong Phần các tội phạm có ý nghĩa rất lớn khi quyết định hình phạt. Bởi lẽ,
Toà án chỉ được phép quyết định hình phạt trong phạm vi chế tài mà Điều luật
đã quy định cho tội mà bị cáo đã phạm.
 Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm:
Thực tiễn xét xử cho thấy, khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm đã thực hiện, Toà án cần xem xét các yếu tố sau:
o Hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội đã
thực hiện;
o Tội phạm được thực hiện dưới hình thức gì (một người đồng phạm hay
tội phạm có tổ chức);
o Giai đoạn thực hiện tội phạm (chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt
hay tội phạm hoàn thành);
o Thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian phạm tội…
o Hậu quả thiệt hại;

o Hình thức lỗi, mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội…
 Xem xét nhân thân người phạm tội:
Theo Luật hình sự Việt Nam, những đặc điểm về nhân thân có ảnh hưởng trực
tiếp đến tội phạm được coi là những đặc điểm mang tính chất pháp lý và được
quy định là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trong hình phạt (như phạm
tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, có tính
chất chuyên nghiệp hay không; là ngươi chưa thành niên hay người đã thành
niên; có thái độ ăn năn hối cải, lập công chuộc tội hay là ngoan cố không chịu
cải tạo…).
Những đặc điểm khác tuy không mang tính chất pháp lý cũng phải được xem
xét một cách toàn diện, nếu chúng có tính chất bền vững nói lên bản chất của
người phạm tội và có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội. Trong đó phải
chú ý đến những đặc điểm có quan hệ đến ý thức chính trị, ý thức lao động,
trình độ nhận thức, hiểu biết của người phạm tội (như thành phần, quá trình


hoạt động chính trị – xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp…), hoặc những đặc
điểm có quan hệ đến các đối tượng của chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
(như người phạm tội thuộc dân tộc ít người; thuộc gia đình liệt sĩ, là nhân sỹ, trí
thức có tên tuổi, là chức sắc tôn giáo…).
Ngoài ra còn một số đặc điểm, tuy phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm
tội, nhưng nhiều khi cũng có ý nghĩa quan trọng (như họ đang bị bệnh hiểm
nghèo, là người già yếu, là phụ nữ có thai hoặc con nhỏ, hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn của bản thân hoặc của gia đình…).
 Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Khi quyết định hình phạt thì Toà án phải cân nhắc đồng thời cả hai loại tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm
cho các trường hợp phạm tội cụ thể của một tội phạm khác nhau về mức độ
nguy hiểm. Các tình tiết này không có tính chất bắt buộc như những tình tiết

định tội và định khung mà chỉ có ý nghĩa khi quyết định hình phạt, có tác dụng
làm tăng hoặc giảm hình phạt trong phạm vi một khung hình phạt nhất định.
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự không được ghi trong
các điều khoản của Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự như các tình tiết
định tội hoặc định khung nhưng được quy định tại các Điều của Phần chung Bộ
luật Hình sự (Điều 46 và Điều 48 Bộ luật Hình sự).
b,
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2018/HS-ST ngày 28/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Hồ Văn T phạm tội “Giết người” và tội
“Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.
 Căn cứ vào Bộ luật hình sự:
Áp dụng khoản 2 Điều 123, điểm b, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Hồ Văn T 11
năm tù về tội “Giết người ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 106 của BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), điểm
b, khoản 1 khoản 2 Điều 51 của BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử
phạt bị cáo Hồ Văn T 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng”.
Theo khoản 1 Điều 106 của BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định
“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai
năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm” . Bị cáo Hồ Văn T cố ý gây thương
tích cho a Trân T1 tỷ lệ thương tật là 83%, và khiến cho a Nguyễn Trường S
thiệt mạng.


Áp dụng khoản 1 Điều 55 BLHS 2015 . theo điểm a khoản 1 Điều 55 quy
định‘Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là
tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình

phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam
giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;’ tổng hợp hình phạt từ 2 tội trên bị
cao Hồ Văn T sẽ chịu hình phạt lag 11 năm 6 tháng tù.
 Căn cứ vào hành vi nguy hiểm:
“ giết người” và “cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng” là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Thủ đoạn: được bị cáo Hồ Văn T khai nhận trong quá trình điều tra vụ án.
Hậu quả thiệt hại: làm anh Nguyễn Trường S thiệt mạng và anh Trần T1 thương
tật 83%.
Hình thức lỗi: cố ý trực tiếp , mức độ lỗi nghiêm trọng.

 Nhân thân người phạm tội:
Có trình độ văn háo 10/12.
Chưa có tiền án tiền sự.
Theo tôn giáo.
Các tình tiết giảm nhẹ:
Tòa án áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 51 vì:
 Theo điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 quy định “người phạm tội tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậy quả”. Sau khi
đâm anh S, bị cáo Hồ Văn T sợ quá rút con dao và bỏ chạy về nhà, ngừng
thực hiện hành vi phạm tội.
 Theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 quy định “người phạm tội thành
khẩn khai báo ăn năn hối cải”. Trong quá trình điều tra thi hành án bị cáo Hồ
Văn T đã khai báo một cách chi tiết tường tận về quá trình thực hiện hành vi
phạm tội.
Tòa án áp dụng điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 vì: Khi bị Trần
T1, Nguyễn Thành T2 và Trần Văn Q xông vào dùng tay, chân đánh Hồ Văn T
đã lùi lại và rút con dao trong túi ra, cầm dao bằng tay phải, bấm nút cho con
dao bật ra rồi dùng con dao quơ qua quơ lại từ phải sang trái. Khi Trần T1 xông
vào đã đánh bị cáo đã dung dao đâm 1 nhát vào trúng vùng bụng của anh Trần

T1.
c, Theo em không thể áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “phạm tội trong trường hợp
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 51 BLHS
2015 để quyết định hình phạt theo hướng giảm nhẹ đối với tội “cố ý gây thương tích
do vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng”.
Vì: hành vi là cố ý gây thương tích nên việc giảm nhẹ ở điểm này là không hợp lý.


d, Không thể sửa quyết định hình phạt của Tỏa án Sơ thẩm đối với tội "Giết người"
theo hướng tăng nặng "Có tính chất côn đồ" được, vì:
Thứ nhất: Là theo quy định việc kháng nghị không làm tăng tội mà toà án
đã tuyên.
Thứ hai: Theo hướng nhân đạo của pháp luật hiện nay, việc kháng nghị
như vậy là không đúng.
Thứ ba: Tính chất côn đồ sẽ thuộc vào phần tình tiết định tội vì vậy cho
vào tình tiết tăng nặng là không được. Cần phân biệt dấu hiệu định tội,
định khung và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
e, Theo điều 101 tù có thời hạn quy định “mức phạt tù áp dụng đối với ngườidưới 18
tuổi phạm tội”: Đối với ngườitừ đủ 16 đến dưới 18 tuổi khi phạm tội với hình phạt cao
nhất không quá ¾ mức phạt tù điều luật quy định.
 Nên anh Hồ Văn T bị phạt ở mức 8 năm rưỡi (11 x ¾ + 6 x ¾).


















×