MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
1.
Lý do chọn đề tài
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”
(Trích bài thơ “Nhớ chùa” Thích Mãn Giác)
Phật giáo, một tôn giáo có mặt từ rất sớm, đã ảnh hưởng mạnh mẽ
sâu rộng đến đời sống của nhân dân. Hình ảnh ngôi chùa quá đỗi thân thuộc
trong tâm thức người Việt. Chùa là nơi sinh hoạt của cộng đồng, ở đó bất
phân sang hèn, chủng tộc, lứa tuổi... Là nơi cầu bình an của người dân, là
nơi tu học của tăng ni, cư sĩ Phật tử, nơi truyền bá giáo lý đạo Phật với
mục đích làm vơi đi nỗi khổ, hóa giải niềm đau. Nói cách khác, chùa là một
biểu hiện cụ thể cho triết lý từ bi của Phật giáo, cho tinh thần hòa bình hòa
hợp của người Việt Nam.
Đạo Phật đã truyền vào nước ta từ rất sớm, ngay từ buổi đầu công
nguyên thông qua câu chuyện Chử Đồng Tử học đạo với một nhà sư Ấn
Độ là Phật Quang sau đó là sự hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu,
thủ phủ của quận Giao Chỉ nước ta thời bấy giờ.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam hình như quyện lẫn với lịch sử của dân
tộc tạo thành một sợi dây khăng khít dài khắp mấy ngàn năm lịch sử, bước
chân người Việt đi tới đâu thì văn hóa đạo Phật có mặt ở đó. Đến thế kỷ
XI – XIV trong các thời Lý – Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được
xem là quốc giáo. Phật giáo là luồng tư tưởng chủ đạo ảnh hưởng đến mọi
mặt đời sống xã hội, mọi thành phần xã hội từ vua quan đến người dân.
Đến thế kỷ XV, XVI trong thời Hậu Lê, Nho giáo được đề cao, Phật
giáo dần dần trở thành thứ yếu.
Trong các thế kỷ XVII – XIX, các chính quyền Trịnh – Nguyễn, Nhà
Tây Sơn, tiếp đến là Nhà Nguyễn, các nhà nước phong kiến đã có những
chính sách chấn hưng đạo Phật, có các hoạt động như chỉnh đốn chùa
chiền, đúc chuông, tạc tượng, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng sĩ truyền
đạo và hành đạo… Góp phần làm cho tinh thần Phật giáo được phục hưng,
giáo lý Phật Đà được truyền bá rộng rãi hơn trong dân chúng.
Đến nửa đầu thế kỷ XX, phong trào chấn hưng Phật giáo diễn ra
mạnh mẽ đã một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của một tôn giáo mang
tính chất “từ bi – hỷ xả”. Với nhiều điểm chung, dù Phật giáo là một triết
thuyết từ nước ngoài truyền vào nhưng đã được các tầng lớp người dân tự
nguyện tiếp thu và vận dụng vào đời sống thực tiễn đem lại hạnh phúc an
lạc cho mọi người. Tư tưởng Phật giáo đã đóng một vai trò quan trọng
trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Vấn đề nghiên cứu Phật giáo Quảng Trị từ thế kỷ XVII đến cuối thế
kỷ XIX có một ý nghĩa hết sức quan trọng, xuất phát từ vị thế của Quảng
Trị trong thời kỳ này.
Quảng Trị là một dải đất hẹp của Miền Trung, nơi chứng kiến nhiều
thăng trầm của lịch sử dân tộc. Đây cũng là thủ phủ đầu tiên của chúa
Nguyễn trong thời kì tiến về phương Nam tạo dựng cơ đồ ở Đàng Trong
trong thế kỷ XVI. Khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông sai vào trấn
thủ vùng Thuận Hóa (1558) đã đặt thủ phủ tại Ái Tử thuộc Quảng Trị.
Trong quá trình củng cố quyền lực tại vùng đất phía Nam, các đời chúa
Nguyễn nối tiếp Nguyễn Hoàng đã khuếch trương Phật giáo như một công
cụ tinh thần nhằm cố kết nhân tâm, đồng thời với việc áp dụng những
chính sách khai khẩn, di dân và nhập cư, xây dựng vùng cai trị của họ
Nguyễn ở Đàng Trong. Vùng đất Quảng Trị được gọi là Cựu dinh thuộc
trấn Thuận Hóa của xứ Đàng Trong gần 300 năm, khi triều Nguyễn thành
lập năm 1802 được đổi tên thành dinh Quảng Trị.
Trong thế kỷ XX, Quảng Trị từng là vùng giới tuyến, chia cách hai
miền Nam – Bắc với vĩ tuyến 17 suốt 21 năm (1954 – 1975), trở thành vùng
máu lửa, là tuyến đầu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
nhân dân Việt Nam. Quá trình lịch sử giàu biến cố và thử thách đã hun đúc
nên một vùng đất và con người Quảng Trị giàu truyền thống tốt đẹp, kiên
cường, giàu lòng nhân ái, vị tha…Trong những giá trị tốt đẹp làm nổi bật
đặc trưng lịch sử – văn hóa của vùng đất này, có sự đóng góp không nhỏ
của văn hóa tinh thần Đạo Phật.
Việc nghiên cứu về mảnh đất Quảng Trị trên nhiều lĩnh vực đã có rất
nhiều công trình sách vở, hội thảo khoa học, tuy nhiên về Phật giáo ở
Quảng Trị trong lịch sử vẫn còn là vấn đề mới mẻ trong giới nghiên cứu ở
trong và ngoài nước.
Nghiên cứu về Phật giáo ở Quảng Trị trong thế kỷ XVII – XIX một
mặt có thể làm rõ được quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào
nơi này như thế nào, đóng góp của Phật giáo ở Quảng Trị đối với nền Phật
giáo chung trong cả nước, góp phần làm sáng tỏ sự ảnh hưởng của Phật
giáo đến đời sống tinh thần của nhân dân Quảng Trị. Phật giáo ở Quảng
Trị thế kỷ XVII – XIX mang những đặc điểm chung của Phật giáo cả nước
trong cùng giai đoạn, nhưng bên cạnh đó còn có những nét riêng mang đặc
trưng lịch sử – văn hóa vùng. Chính vì vậy, việc lấy Phật giáo ở Quảng Trị
thế kỷ XVII – XIX làm đối tượng nghiên cứu là tìm hiểu Phật giáo Việt
Nam ở vùng đất này trong cùng thời kỳ, qua các giai đoạn khác nhau. Kết
quả nghiên cứu có thể đưa đến những nhận định về đặc điểm và ảnh
hưởng to lớn của Phật giáo ở Quảng Trị, một di sản văn hóa quý báu để
đời sau góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Như vậy, việc nghiên cứu về Phật giáo ở Quảng Trị từ thế kỷ XVII –
XIX thực sự có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Vì lý do này, tôi
chọn đề tài “Phật giáo trên vùng đất Quảng Trị trong các thế kỷ XVII –
XIX” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phật giáo nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng đã được
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm trên mọi khía
cạnh như triết học, giáo lý, tổ chức…Về phương diện lịch sử có các tác
phẩm tiêu biểu như: Bộ 3 tập “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (1992) của Lê
Mạnh Thát, bộ sách 7 tập nghiên cứu về Phật giáo của tác giả Nguyễn
Hiền Đức với tập 2 “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong” (1992), “Đạo Phật và
dòng sử Việt ” (1995) của Hòa thượng Thích Đức Nhuận, “Việt Nam Phật
giáo sử lược” (1996) của Hòa thượng Thích Mật Thể, “Việt Nam Phật
giáo sử luận” (2000) của Nguyễn Lang, Hà Văn Tấn “Chùa Việt Nam”
(2001), “Lịch sử Phật giáo xứ Huế”(2007) tác giả Hòa thượng Thích Hải
Ấn, Hà Xuân Liêm, bộ 2 tập “Chư tôn thiện đức và cư sĩ hữu công Phật
giáo Thuận Hóa” (2007) của Hòa thượng Thích Hải Ấn, Hòa thượng Thích
Trung Hậu; Hòa thượng Thích Thanh Từ với tác phẩm “Thiền tông Việt
Nam cuối thế kỷ XX” (2010)…
Có thể thấy về cơ bản những cuốn sách này đề cập đến lịch sử Phật
giáo Việt Nam từ khi mới du nhập vào nước ta cho đến tận bây giờ qua các
thời kỳ phát triển khác nhau. Qua đó cho thấy Phật giáo được truyền vào từ
rất sớm và sự thịnh suy của Phật giáo Việt Nam luôn theo tiến trình lịch sử
dân tộc.
Về vấn đề nghiên cứu Phật giáo Miền Trung có các bài viết: “Chính
sách tôn giáo họ Nguyễn xứ Đàng Trong” (2005) của Trần Đình Hằng đăng
trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3; Trương Minh Dục “Một vài đặc điểm
của Phật giáo Miền Trung (trước 1954)” (2001) đăng trên tạp chí Nghiên
cứu tôn giáo số 2; Các sách vở bài viết nghiên cứu về Phật giáo cũng như
chính sách đối với Phật giáo của các đời chúa Nguyễn “Chính sách tôn
giáo của triều Nguyễn những kinh nghiệm lịch sử” (2007) của tác giả Đỗ
Bang đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo và dân tộc số 6; “Dưới thời
chúa Nguyễn Phúc Chu, thiền phái Tào Động đã được truyền bá và phát
triển ở Đàng Trong” (2010) của Hòa thượng Thích Phước Sơn, đăng trên
nguyệt san Giác ngộ số 186; “Thiền Sư Thích Đại Sán với chúa Nguyễn
Phúc Chu” (2010) của tác giả Bùi Quang Hưng ở đại học Thành Công (Đài
Loan) đăng trên tạp chí Hán Nôm số 4; Nguyễn Văn Kiệm (1993), “Chính
sách tôn giáo của nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX” , trong tạp chí Nghiên cứu
lịch sử số 6; Nguyễn Duy Hới (2001), “Thái độ của triều Nguyễn đối với
Phật giáo và các đặc điểm cơ bản của Phật giáo Huế” , “Vài yếu tố Phật
giáo Quảng Trị trên đất Đại Việt ” của tác giả Lâm Quang Huy đăng trên
tạp chí Cửa Việt số 6. “Phật giáo Quảng Trị theo dòng lịch sử” (2017) của
Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích
Thiện Nhơn đăng trên tạp chí Đạo Phật ngày nay; tác giả Trí Năng với bài
viết “Phật giáo Quảng Trị đã bắt nhịp được với cả nước” (2017) đăng trên
nhật báo Giác ngộ. Hầu hết đây là những bài viết mang tính tổng quát. Vì
nhiều lí do hiện tại cũng như lịch sử nên đã thiếu đi sách vở nghiên cứu về
Phật giáo nói chung và mảnh đất Quảng Trị nói riêng nhất là vào giai đoạn
từ thế kỷ XV đến XIX.
Trên đây là những sách, công trình nghiên cứu, bài viết tổng quát, tỉ mỉ
về Phật giáo Miền Trung. Tuy nhiên nhìn vào đó chúng ta còn thấy nhiều
điểm trống vắng về nghiên cứu Phật giáo cụ thể của các vùng thuộc
Thuận Hóa cũ, điển hình như tỉnh Quảng Trị. Rất ít hoặc không có các
công trình nghiên cứu về Phật giáo vùng đất này cho dù Quảng Trị là tỉnh
có số lượng tăng ni và Phật tử đông nhất cả nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phật giáo tỉnh Quảng Trị thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, đây là giai
đoạn lịch sử phát triển lâu dài từ thời các chúa Nguyễn, Tây Sơn qua đến
vương triều Nguyễn, cho thấy Phật giáo đã có những bước phát triển song
hành với lịch sử dân tộc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Vùng đất Quảng Trị.
Về thời gian: Các thế kỷ XVII – XIX
4. Mục đích nghiên cứu
Góp phần phục dựng một cách có hệ thống diện mạo lịch sử Phật
giáo ở Quảng Trị từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, từ đó làm sáng tỏ sự du
nhập của Phật giáo vào Quảng Trị, sự phát triển của Phật giáo ở Quảng
Trị qua các thời kỳ lịch sử, những đặc điểm và đóng góp của Phật giáo về
mọi phương diện của đời sống nhân dân trên vùng đất này.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Tài liệu cổ đã được dịch thuật có liên quan đến vùng đất Quảng Trị
bao gồm: Ô châu cận lục (1555) của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục
(1776) của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) của Lê
Quang Định, Đại Nam nhất thống chí (tập 1), Đại Nam thực lục của Quốc
sử quán triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Nội các
triều Nguyễn. Là nguồn có thể khảo cứu thông tin về vùng đất Quảng Trị,
các chùa di tích ở Quảng Trị trong giai đoạn thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Đây là những thư tịch được biên soạn mang tính chất liệt kê, mô tả
theo thể loại biên niên lịch sử, địa lý – lịch sử, dư địa chí… Là một nguồn
tài liệu rất quý báu đối với đề tài, giúp tác giả luận văn tiến hành khảo sát
các đối tượng trên thực địa, là cơ sở để xác định khung niên đại tương đối
về thời gian tồn tại của các chùa trên đất Quảng Trị.
Tư liệu trong các công trình nghiên cứu đã xuất bản, kỷ yếu hội thảo
khoa học hiện lưu ở các cơ quan lưu trữ bao gồm: Địa dư Quảng Trị
(1996), Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang (2000)…Do Sở văn hóa – Thể thao –
Du lịch Quảng Trị ấn hành, các bài nghiên cứu trên tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, tạp chí Cửa Việt, tạp chí Nghiên cứu lịch sử…
Tư liệu thực địa gồm:
Loại tài liệu văn bản: Các tài liệu cổ, các bản sắc phong chỉ cho việc
thành lập các chùa và các văn bản Hán nôm có liên quan tới vấn đề thành
lập và tu bổ lại chùa ở Quảng Trị qua các thời kỳ.
Loại tài liệu truyền miệng: Thông qua quá trình đi thực địa thu thập tài
liệu qua lời kể của các bậc Hòa thượng, các bậc lão thành, đây được xem
là nguồn tài liệu khá phong phú và sinh động, từ đó người viết cố gắng đối
chiếu, so sánh với các nguồn tài liệu khác để đưa ra những thông tin có giá
trị nhất cho luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Trong việc nghiên cứu đề tài này người viết đã sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Đây là cơ sở khoa học có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong việc
nghiên cứu các vấn đề lịch sử – văn hóa, nhất là về tôn giáo. Bên cạnh đó
người viết đã có sự kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic
trong nghiên cứu nhằm đảm bảo được tính khách quan, khoa học cho đề
tài.
Phương pháp cụ thể: Người viết đã sử dụng phương pháp điền dã để
điều tra, khảo sát thực tế, tìm tòi tài liệu, dựa trên những tài liệu có được
để từ đó sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu các nguồn tư liệu thu thập được nhằm tìm ra những thông tin thiết
thực hệ thống hóa xây dựng đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Về mặt khoa học: Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần tìm hiểu sự
phát triển Phật giáo ở Quảng Trị qua các thế kỷ XVII – XIX, trên cơ sở đó
có nhận định về những đặc điểm và ảnh hưởng của Phật giáo, cung cấp
một góc nhìn toàn cảnh về sự phát triển của Phật giáo ở Quảng Trị trong
giai đoạn này.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ cho biết được sự phát
triển của Phật giáo Quảng Trị trong giai đoạn XVII – XIX, đồng thời sức
ảnh hưởng cũng như chính sách đối với Phật giáo của nhà nước phong
kiến trong giai đoạn được nghiên cứu, và sự phát triển tồn tại đó đã ảnh
hưởng đến Phật giáo ngày nay như thế nào. Đề tài nghiên cứu góp phần bổ
sung cho mảng nghiên cứu về Phật giáo Quảng Trị đang rất ít hiện nay và
có giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử địa phương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát lịch sử – văn hóa vùng đất Quảng Trị
Trình bày điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành vùng đất và con người
Quảng Trị, đặc trưng văn hóa tinh thần của cư dân Quảng Trị.
Chương 2. Sự phát triển của Phật giáo ở Quảng Trị trong các thế
kỷ XVII – XVIII
Trình bày tổng quan về đặc điểm của Phật giáo Đàng Trong. Việc
truyền bá Phật giáo ở Quảng Trị trong các thế kỷ XVII – XVIII. Sự du
nhập của một số dòng thiền trên vùng đất này và vai trò của Phật giáo
trong đời sống tinh thần của cư dân, đồng thời đưa ra một số ngôi chùa tiêu
biểu, những vị danh tăng nổi tiếng đầu tiên đến Quảng Trị.
Chương 3. Sự phát triển của Phật giáo ở Quảng Trị trong thế kỷ
XIX
Trình bày tổng quan về Chính sách của vương triều Nguyễn đối với
Phật giáo, sự phát triển của thiền phái Phật giáo Liễu Quán trên đất Quảng
Trị. Quá trình thành lập, hoạt động và đóng góp của một số ngôi chùa tiêu
biểu và vai trò của Phật giáo trong đời sống tinh thần của cư dân Quảng
Trị.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT QUẢNG TRỊ
VÀ TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO QUẢNG TRỊ TRƯỚC THẾ KỶ XVII
Lịch sử vùng đất và con người Quảng Trị
1.1.
1.1.1.
Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Trên dải đất hình chữ S Việt Nam thì Quảng Trị nằm ở đoạn giữa,
với thế tựa lưng vào dãy Trường Sơn sừng sững hùng vĩ nhìn ra biển Đông
trập trùng bao la rộng lớn. Ngay từ thời xưa, đây là vùng đất thuộc biên
giới Đại Việt và Chiêm Thành, nơi đây đã chứng kiến không biết bao nhiêu
cuộc giao tranh khóc liệt của hai nhà nước phong kiến. Trải qua quá trình
lịch sử lâu dài Quảng Trị bấy giờ được xem là vùng “phên dậu” phía Nam
của đất nước. Hiện nay tỉnh Quảng Trị phía Bắc giáp với Quảng Bình, phía
Nam giáp với tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây có đường biên giới với nước
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào, phía Đông giáp với biển Đông rộng lớn.
Phải chăng khi lần đầu tiên đặt chân đến trấn thủ vùng đất này, Đoan quận
công Nguyễn Hoàng đã nhìn thấy được tầm quan trọng có vị trí chiến lược
của nó để từ đó, nơi đây được chọn là nơi đóng dinh sở đầu tiên để bắt
đầu xây dựng một thời đại hùng mạnh, mở rộng lãnh thổ đất nước về phía
Nam.
Địa hình
Quảng Trị có địa hình phân bố đa dạng theo không gian, ở
đây có sự đan xen mạnh mẽ giữa gò đồi, thung lũng, miền nội
đồng bằng và cồn cát ven biển. Từ Tây sang Đông, địa hình
Quảng Trị tựu trung có năm vùng: vùng đồi núi, đồng bằng, cồn
cát và đụn cát, biển, hải đảo. Vùng rừng núi Quảng Trị chiếm
80% diện tích đất tự nhiên, phần lớn là rừng rậm, được phân bố
dọc theo phía Tây dãy Trường Sơn, càng đi về phía Đông đồi núi
càng thấp dần. Trong khi đó diện tích đồng bằng Quảng Trị
tương đối nhỏ chỉ chiếm khoảng 20% diện tích đất tự nhiên toàn
tỉnh, nhưng đây là nơi tập trung đông dân cư sinh sống với cây
trồng chủ lực là lúa nước. Khi nhìn vào bản đồ ngày nay, chúng ta
có thể thấy tỉnh Quảng Trị giống như một hình có năm cạnh gần
bằng nhau, mà tâm điểm là vùng đất Tân Sở (Ái Tử) vùng đất
xưa kia chúa Nguyễn chọn làm dinh sở đầu tiên. Theo số liệu thì
Quảng Trị là một tỉnh nghèo, bởi vốn dĩ nước ta là một nước làm
nông nghiệp, ruộng vườn là nguồn lợi chính của người dân,
nhưng tại Quảng Trị hầu hết diện tích là rừng núi và gò đồi
chiếm đến 80% hoặc là bãi cát mênh mông chiếm đến 7,5%.
Phần đất canh tác rất nhỏ hẹp chỉ chiếm 11,5%, không những
vậy đây là một trong những nơi thường xuyên phải gánh chịu
những thiên tai hạn hán, bão lụt. Chính điều đó đã khiến cho đời
sống người dân thêm bộn phần khó khăn. (Nguyễn Đình Tư,
2011, tr.15)
Sở dĩ địa hình có hình dạng như vậy là do hoạt động kiến tạo của núi
lửa từ thời khai thiên lập địa, các ngọn núi lửa này đội nước biển mà lên.
Trải qua hàng ngàn năm, các ngọn núi lửa nguội dần và ngưng hoạt động
tạo thành những ngọn núi. Nơi hoạt động trung tâm của núi lửa, nham
thạch chồng chất lên nhiều, nên các ngọn núi đều cao, còn phía giáp biển
nhan thạch chảy tràn ra ít hơn, nên các ngọn núi thường thấp hơn, lại thêm
thời kỳ nước biển dâng cao, ăn sâu vào trong đất liền bao trùm luôn những
ngọn núi thấp này. Trải qua quá trình bào mòn, phong hóa xâm thực mạnh
mẽ của các đợt nước biển lên xuống đã bào mòn các đỉnh núi, khiến những
ngọn núi ở đây trở nên thoai thoải, đầu tròn.
Quá trình xâm thực mạnh mẽ của nước biển cộng với quá trình phong
hóa diễn ra hàng ngàn thế kỉ, điều đó là lý do để giải thích tại sao vùng đồi
núi ở huyện Vĩnh Linh đến Hải Lăng đều là những ngọn đồi có độ cao
thấp từ 50m đến 100m, người ta hay gọi những nơi có độ cao thấp thế này
là cồn hay hòn. Chính vùng đồi núi phía Tây Quảng Trị đã là căn cứ địa
vững chắc cho quân cách mạng kháng địch trong suốt những năm tháng
chiến tranh. Sách Đại nam nhất thống chí có ghi lại địa danh một số hòn
núi với sự tích như sau: tại huyện Vĩnh Linh có núi Linh Sơn, hình núi như
voi phục, cao hơn ngàn trượng, bốn mặt rộng. Một ngọn núi tròn dẹp, có
sông chảy ở phía Đông Bắc. Hay ở phía Tây huyện Minh Linh có núi Hắc
Thạch, toàn đá đen nên có tên gọi ấy, thế núi rất hiểm, bởi do không có
đường đi nên còn được gọi là núi Chấn. Ở phía Tây huyện Địa Linh tức
huyện Gio Linh ngày nay có núi Tiên, tức động Cồn Tiên sau này gọi là
Cồn Tiên do có nhiều cồn cát bị bồi lấp ở đây, tầng núi cao chót vót có năm
ngọn nổi cao. Có một phiến đá trông giống mai rùa, có hình ngang dọc như
bàn cờ. Theo người dân kể lại rằng tương truyền xưa kia có tiên ngồi đây
đánh cờ nên mới có tên gọi ấy.
Đặc điểm sông ngòi, đường bờ biển:
Ở Quảng Trị có các con sông như sông Bến Hải, sông Hiếu Giang,
sông Vĩnh Phước, sông Ái Tử, sông Ô Lâu, sông Vĩnh Định, sông Thạch
Hãn trong đó sông Thạch Hãn là con sông dài nhất và có độ sâu hơn các
dòng sông còn lại. Các con sông cắt sẻ địa hình tạo thành những đồng bằng
với nguồn nước tưới tiêu dồi dào phục vụ sản xuất nông nghiệp với cây
trồng chủ yếu là lúa nước và cũng tạo giao thông thuận tiện cho việc giao
thương buôn bán giữa các vùng trong tỉnh.
Bờ biển miền Trung nói chung và Quảng Trị nói riêng có đặc điểm
tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông Nam với
đường bờ biển dài trên 75km, mở đầu là thôn Thử Luật giáp với tỉnh
Quảng Bình và điểm kết thúc nằm ở thôn Thâm Khê giáp với tỉnh Thừa
Thiên Huế. Trong các sách về địa lý Quảng Trị thường chia đường bờ
biển thành hai nhịp khác nhau lấy điểm giữa là cửa biển Cửa Tùng. Trong
sử sách không viết trong thời kỳ thuộc Chiêm Thành thì gọi là gì, nhưng từ
khi Đại Việt sáp nhập vùng đất này vào bản đồ hành chính thì có sự thay
đổi tên gọi tùy vào thời kỳ lịch sử. Trong Hồng Đức bản đồ thiết lập vào
niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), và sách Ô Châu cận lục của Dương Văn
An viết vào năm 1555 đều thấy ghi tên cửa biển này là cửa biển Minh Linh
lấy tên châu Minh Linh đặt tên cho cửa biển. Trong sách Đại Nam nhất
thống chí viết vào thời Tự Đức và bản soạn thảo lại vào đời Duy Tân thì
lại ghi là cửa Tùng Luật, tức là lấy tên thôn Tùng Luật đặt cho vùng biển
này. Mãi sau này người Pháp đo đạc và lập lại bản đồ thì bỏ tên Luật đi,
tên gọi Cửa Tùng tồn tại cho đến ngày nay.
Trên khoảng bờ biển này chúng ta gặp cửa sông Thạch Hãn
gọi là Cửa Việt. Trong sách Hồng Đức bản đồ đã thấy ghi tên
này, nhưng trong sách Ô Châu cận lục lại ghi là cửa Việt Khách.
Theo Đại Nam nhất thống chí thì cửa này khi xưa gọi là cửa An
Việt, đến đời Minh Mạng năm thứ nhất (1820) thì được đổi lại là
thành cửa Việt Yên, nhưng trong các bản đồ của người Pháp ghi
là Cửa Việt nên tên gọi đó được dùng để gọi cho đến ngày nay.
Bờ biển Quảng Trị trống trải nhất, không có qua một hòn đảo
nào che chắn ở phía ngoài, trừ hòn đảo Cồn Cỏ nhỏ xíu, lại quay
mặt đón ngọn gió Đông Bắc thổi hằng năm, địa thế của vùng đất
này là hẹp ngang nhất nước, đất phù sa do sông mang từ dãy
Trường Sơn đưa xuống chẳng những không được bao nhiêu mà
còn bị sóng gió đẩy xuống phía Nam, nên từ ngàn xưa đến nay bờ
biển Quảng Trị hầu như cố định, không vươn ra phía biển được
mấy. (Nguyễn Đình Tư, 2011, tr.54)
Khí hậu:
Quảng Trị là vùng đất nắng lắm mưa nhiều, với địa hình có sườn
chắn gió là dãy Trường Sơn nên ở đây vào mùa hè xuất hiện hiệu ứng
phơn người dân hay gọi là gió Lào, khí hậu khô cằn khắc nghiệt. Cùng với
Quảng Bình và Thừa Thiên Huế, tỉnh Quảng Trị nằm giữa một khu vực
bao quanh bởi núi cao, phía Bắc có dãy Hoành Sơn với độ cao 1.700m, phía
Tây có dãy Trường Sơn với độ cao trung bình 1.000m, phía Nam có dãy núi
Hải Vân với độ cao 1.500m, phía Đông hướng mặt ra biển.
Chính vị trí đó đã tạo ra cho vùng đất này một khí hậu đặc
biệt khác hẳn với các vùng khác thuộc Trung Bộ. Qua thế nằm
giữa bắc vĩ tuyến 160°30’51’’ đến 107°23’48”, tỉnh Quảng Trị có
khí hậu vùng nhiệt đới, nhưng phân biệt hai mùa nóng lạnh rõ
rệt. Mùa nóng kéo dài hơn bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 11 dương
lịch, tháng nóng nhất trong năm là tháng 6 dương lịch. Nhiệt độ
trung bình hằng ngày là 29,5°C, nhiệt độ trung bình ban ngày là
34°C và ban đêm là 25,3°C, tháng lạnh nhất là tháng giêng dương
lịch tức là những ngày giáp Tết Nguyên Đán. (Nguyễn Đình Tư,
2011, tr.62 63).
Đó là khí hậu vùng đồng bằng, còn tại vùng rừng núi phía Tây chịu
ảnh hưởng của độ cao, độ ẩm và gió như vùng Khe Sanh thì khí hậu có
phần thay đổi nhiều. Thời gian mùa lạnh thường kéo dài hơn khởi đầu từ
tháng 11 đến hết tháng 3 dương lịch. Độ lạnh ở đây cũng thấp hơn nhiều.
Tháng lạnh nhất vẫn là tháng giêng dương lịch, nhiệt độ ở đây trung bình là
17,4°C, tháng nóng nhất là tháng 5 dương lịch sớm hơn ở đồng bằng 1
tháng, nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất nằm vào khoảng 26,3°C. Vì
sườn núi phía Đông dãy Trường Sơn, tức phía Quảng Trị ở trong địa thế
“phay”. Tức là dốc đứng cho nên khi vượt qua được dãy núi cao mà xuống
đồng bằng, ngọn gió Tây Nam biến thành một loại gió gọi là gió FOCHN (1).
Loại gió này rất khô khan và nóng, thổi với tốc lực rất mạnh. Vì nó thổi từ
Lào qua nên vẫn được thường gọi với cái tên là gió Lào. Đồng thời trong
mùa gió Tây Nam. Tại Quảng Trị có một loại gió mát dịu hơn thổi từ ngoài
biển vào đất liền thường được gọi là gió Đông hay gió Nồm.
Tóm lại tại Quảng Trị ta có thể thấy với địa hình, địa thế chủ yếu là
đồi núi, đồng bằng chỉ chiếm một diện tích nhỏ, chính vì thế cư dân ở đây
không có đủ điều kiện để sản xuất nông nghiệp, thêm vào đó với khí hậu
hai mùa rõ rệt, mùa nắng thì khắc nghiệt mùa mưa thì gió bấc thổi gây nên
các hiện tượng lũ lụt, bão, làm ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất, kinh
doanh và đời sống của cư dân bị hạn chế rất nhiều. Điều kiện kinh tế còn
nhiều hạn chế, hằng năm vẫn phải chống chọi với các hiện tượng thời tiết
cực đoan, cũng vì lẽ đó mà đã tạo nên cho người dân nơi đây tinh thần kiên
cường và dũng cảm.
1.1.2.
Lịch sử vùng đất Quảng Trị
1 : FOCHN: thuật ngữ khí hậu học – gió “phơn”
Vùng đất Quảng Trị trước khi nước ta giành được chủ quyền là vùng
tranh chấp giữa chính quyền đô hộ Trung Quốc ở nước ta với quốc gia
Lâm Ấp. Bắt đầu với tên gọi Việt Thường thời cổ đại sau đó theo dòng lịch
sử vùng đất này thay đổi với tên gọi khác nhau như Tượng Lâm, Quận
Nhật Nam hay thuộc Lâm Ấp và sau là Chiêm Thành.
Năm 1069 vua của Chăm Pa là Chế Cũ dấy loạn ở mặt Nam,
vua Lý Thánh Tông đã thân chinh dẫn quân đi thảo phạt và đã bắt
được Chế Cũ đem về. Để chuộc tội, vua tôi Chăm Pa đã tự
nguyện cắt đất xin dâng ba châu là Ma Linh, Địa Lý, Bố Chính
lên vua Lý rồi được tha về nước (Lê Gia Lai, 1994, tr. 61).
Đầu năm 1226 triều Trần lên thay triều Lý, nhà nước trung ương tập
quyền dần dần hoàn thiện quy củ từ trung ương đến địa phương, thời kì
này nhân dân no ấm, thái bình. Lúc này nhờ chính sách khôn ngoan của Thái
thượng hoàng Nhân Tông, nhà Trần vẫn luôn dành mối quan tâm đặc biệt
đối với vùng biên giới phía Nam. Nhà Trần với ba lần chiến thắng giặc
ngoại xâm phương Bắc đã làm cho Chăm Pa khiếp sợ và phải quy thuận.
Chính vào thời điểm này lịch sử đã ghi nhận đức hy sinh cao cả cho quyền
lợi dân tộc của công chúa Huyền Trân. Trong chuyến viếng thăm Chăm Pa
của Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông năm 1301 đã hé mở con đường để
Chế Mân thực hiện mong muốn lấy công chúa Đại Việt về làm vợ.
“Về phía Đại Việt trước những quan hệ chính trị lâu dài đã khiến
thượng hoàng hứa gả con gái cho vua Chăm Pa. Năm 1306 vua Chăm là Chế
Mân dâng biểu cầu hôn Công chúa lên vua Trần Anh Tông và dân hai châu:
Châu Ô và Châu Rí làm vật sính lễ” (Nguyễn Văn Ngọc, 1991, tr.70). Từ
đây cương vực lãnh thổ nước ta được mở rộng tới đèo Hải Vân. Tuy nhiên
cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân năm 1307
nhiều người không hiểu được tầm quan trọng của nó đã làm nhiều câu ca
dao, bài ca để thương thay cho thân phận công chúa:
“Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho thằng mán thằng mường nó leo”
Sau khi tiếp nhận hai châu Ô, Rí, năm 1307 nhà Trần đã đổi Châu Ô
thành Thuận Châu, Châu Rí thành Hóa Châu sau đó đã chọn người trong dân
chúng ra làm quan. Cấp ruộng đất và miễn tô thuế hai năm để vỗ về dân
chúng. Thuận Châu là phần đất từ sông Hiếu – Cửa Việt đến sông Ô Lâu
(trong đó có: Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong, Hải Lăng, Thị Xã Quảng
Trị), và Hóa Châu gồm tỉnh Thừa Thiên Huế, Tp Đà Nẵng và phía Bắc tỉnh
Quảng Nam (đến sông Thu Bồn).
Kể từ khi vua Lý Thánh Tông cầm quân chinh phạt Chăm Pa năm
1069 đến khi Chế Bồng Nga chết năm 1389 thì quan hệ giữa Việt và Chăm
Pa chỉ có hòa bình không có chiến tranh, thân thiện nhất dưới triều vua
Trần Anh Tông, còn lại là căng thẳng, xung đột liên miên. Chính vì lẽ đó
nên vùng đất từ dãy Hoành Sơn đến Hải Vân trong đó có Quảng Trị trở nên
xơ xác, tiêu điều, kinh tế suy sụp, đời sống nhân dân rất khổ sở. Tuy vậy
với những thành tựu đã đạt được trong bước đầu thực hiện chính sách khai
hoang cũng như thiết chế hành chính là cơ sở để cho nhà nước phong kiến
sau này phát triển.
Sau khi lên ngôi xây dựng một nhà nước phong kiến ổn định, nhà Lê
đã nhận thấy được tầm quan trọng của vùng đất này, vì vậy nhà nước
thường xuyên cho dân di cư vào Quảng Trị sinh sống lập nghiệp. Điều đó
đã được thể hiện bằng tờ chiếu di dân quy mô lớn, khuyến khích di dân,
hoặc tiến hành đưa lực lượng tù binh, tội phạm vào khai phá… Bên cạnh
những chính sách này chính quyền còn cho lập các đồn diền, đưa binh lính
và dân nghèo đến khai phá đất đai, khi đã thành đất ruộng thì giao một phần
cho họ cày cấy theo thân phận nông nô tá điền. Ruộng đất đồn điền này
thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước, sau khi khai phá xong nhà nước cho
thành lập làng xã và ruộng đất này trở thành ruộng đất công của xã thôn.
“Ở Quảng Trị nữa đầu thế kỉ XV làng xóm tập trung chủ yếu ở phía
Bắc (phủ Tân Bình), nơi có lịch sử khai phá lâu đời hơn ở phía Nam (Châu
Thuận), ở đây đất phì nhiêu” (Phan Khoang, 2001, Tr.54) nhất là ven các
sông lớn thuận lợi cho sinh hoạt, tưới tiêu cho đồng ruộng.
Chính sách khai hoang lập làng, lập đồn điền, khuyến khích di dân
mang nhiều yếu tố tích cực của nhà nước phong kiến, cùng với sự ủng hộ
của nhân dân đã đưa đến sự tăng trưởng nhanh chóng của hệ thống làng xã
ở Quảng Trị. Chính điều này đã phản ánh được bước phát triển mạnh mẽ
của xã hội Việt Nam thời kì này. Đồng thời cho thấy hiệu quả to lớn trong
công cuộc khai thác vùng đất Quảng Trị. Theo Ô Châu cận lục của Dương
Văn An thì vùng đất Quảng Trị gồm 3 huyện và 173 xã. Ở miền núi theo
Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn: “châu Sa Bôi có 68 xã, châu Thuận Bình
có 26 xã(2)” (Lê Quý Đôn, 1977, tr.19). Như vậy có thể thấy với con số 173
xã thôn trên là cả một quá trình tụ cư lâu đời, mà triều Lê sơ giữ một vị trí
quan trọng.
Sang thế kỉ thứ XVI nhà Lê mất dần vai trò lãnh đạo, đất nước rơi vào
tình cảnh hỗn loạn. Các tập đoàn phong kiến đua nhau tranh dành quyền
lực, cuộc nội chiến kéo dài đã phân chia đất nước thành nhiều miền và đặt
dưới quyền kiểm soát của những chính quyền riêng biệt khác nhau. Trước
tình hình đó một cựu thần của nhà Lê là Nguyễn Kim đã tổ chức lực lượng
ở Thanh Hóa chống nhau với họ Mạc, lập Lê Duy Ninh lên làm vua với
2 : Riêng tên từng xã cụ thể thì không thấy liệt kê
danh nghĩa “phù Lê diệt Mạc”, mở đầu thời kì trung hưng của nhà Lê.
Nguyễn Kim đã chiếm vùng Thanh Nghệ làm căn cứ, cát cứ ở phương
Nam. Cũng trong thời gian đó con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm mưu
toan tiếm quyền. Năm 1545, Nguyễn Kim mất, tất cả quyền hành rơi vào
tay Trịnh Kiểm. Bối cảnh đó càng làm cho tình hình đất nước thêm rối ren.
Cuộc xung đột này đã dẫn tới sự chia cắt đất nước mà lịch sử gọi là Nam –
Bắc triều với chính quyền nhà Mạc ở phía Bắc và vua Lê – Trịnh ở phía
Nam. Năm 1592 sau khi đánh bại họ Mạc, Trịnh Kiểm lấn át vua Lê và từ
đây thực quyền rơi vào tay họ Trịnh. Nội tình đất nước khủng hoảng, chính
quyền họ Trịnh tìm cách thủ tiêu hậu duệ Nguyễn Kim. Con trai đầu của
Nguyễn Kim là Nguyễn Uông bị sát hại. Lo sợ cùng chung số phận, người
con thứ là Nguyễn Hoàng tìm cách nhờ chị của mình tức là vợ của Trịnh
Kiểm xin cho vào trấn thủ vùng Thuận – Quảng, vùng được xem là “Lam
sơn chướng khí” thời bấy giờ. Trịnh Kiểm cũng cho rằng đưa Nguyễn
Hoàng vào đó là có thể dứt được một mối họa và cũng là để không mang
tiếng về đời sau. Ai nào ngờ từ đây Nguyễn Hoàng đã xây dựng cơ đồ bá
vương cho dòng họ mình. Nguyễn Hoàng chính thức vào trấn thủ vùng
Thuận Hóa năm 1558 và trấn thủ vùng Quảng Nam năm 1570, xây dựng lực
lượng chống lại họ Trịnh. Đây là cơ duyên lịch sử của vùng Thuận –
Quảng. Cục diện chiến tranh, tranh giành quyền lực được phân biệt rõ nét
của các thế lực phong kiến bắt đầu. Từ đây vùng đất Quảng Trị được ghi
dấu trong lịch sử dân tộc bởi là nơi được Nguyễn Hoàng chọn làm đặt thủ
phủ và không phải ngẫu nhiên mà một con người đa tính toán, tài trí như
Nguyễn Hoàng lại chọn vùng đất Ái Tử, Quảng Trị làm điểm mở đầu cho
cả một sự nghiệp to lớn.
Nguyễn Hoàng sinh ngày Bính Dần (tức ngày 10) tháng 8
năm Ất Dậu (1525), (Lê – Thống Nguyên năm thứ 4. Minh – Gia
Tĩnh năm thứ 4) là con trai thứ hai của Nguyễn Kim, mẹ là
Nguyễn Thị Mai con gái của Nguyễn Minh Biện, Đặc tiến phụ
quốc thượng tướng quân thị vệ triều Lê (Đỗ Bang, 2006, tr.15).
Ông vốn là người tướng trẻ tài ba, một người có khả năng và nhiều
tham vọng, sau khi cha chết anh rể chuyên quyền, mâu thuẫn họ Trịnh –
Nguyễn tăng lên, để tránh sự bức hại của Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng nhờ
chị vận động xin cho vào trấn thủ vùng Thuận Hóa. Dịp may đã đến lúc này
vùng Thuận Hóa vẫn bị người Chăm quấy phá. Thuận ý của Trịnh Kiểm là
sử dụng Nguyễn Hoàng chống đỡ mặt tấn công phía Nam của quân Mạc,
với hy vọng Nguyễn Hoàng hoặc bị giết chết trong miền đất hiểm vắng,
hoặc sẽ bị trừ khử sau khi đã hoàn thành công việc diệt Mạc. “Nhưng thực
tế ấy đã xảy ra quá xa với bài tính của họ Trịnh”. (Phan Huy Lê, 1960,
tr.29).
Về sự lựa chọn đất Thuận – Quảng của Nguyễn Hoàng, sách Đại
Nam thực lục tiền biên có nói đến một giai thoại:
Chúa (Nguyễn Hoàng) nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm là
người làng Trung Am, Hải Dương, đỗ trạng nguyên triều Mạc
làm đến chức Thái bảo, giỏi nghề thuật số nên ngầm sai người
đến hỏi. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ trước sân mà ngâm
lớn lắm: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (nghĩa là một
dãy núi ngang có thể dung thân muôn đời) sứ giả đem câu ấy về
thuật lại, chúa hiểu ý (Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Đại Nam
nhất thống chí 2007, tr.27).
Bước đầu đặt chân lên mảnh đất Thuận Hóa (năm 1558), Nguyễn
Hoàng đã chọn vùng đất Ái Tử (huyện Vũ Xương) làm nơi đặt thủ phủ của
mình. Không phải ngẫu nhiên mà một con người đa mưu tài trí như Nguyễn
Hoàng lại chọn nơi đây làm điểm mở đầu cho cả một sự nghiệp to lớn.
Trong tâm trí của ông, thực tế Quảng Trị lúc đương thời có một vị trí chiến
lược đặc biệt lợi hại, thuận lợi cho cả thế thủ, thế công từ mọi hướng và
chính nơi đó có thể nuôi dưỡng tham vọng cho ông một cách bí mật và an
toàn nhất, tránh khỏi mối hoài nghi của họ Trịnh ở phía Bắc và mối uy
hiếp quân Chăm Pa ở phía Nam.
Bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, ông đã từng bước dẹp yên các
lực lượng chống đối, khôi phục và phát triển sức sản xuất. Các chúa sau đó
đã tiếp bước ông, tích cực đề ra những chính sách về nội trị và ngoại giao,
phát triển kinh tế. Những chính sách đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
xây dựng và củng cố một bộ máy chính quyền và quân đội… Lãnh thổ của
chúa Nguyễn cai trị được gọi là “xứ Đằng Trong” hay Nam Hà, để phân
biệt với xứ Đằng Ngoài hay Bắc Hà của vua Lê và chúa Trịnh. Vì vậy nên
Nguyễn Hoàng được gọi là “chúa Tiên”. Lãnh thổ của Đoan quận công
Nguyễn Hoàng gồm hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam, trải dài từ sông
Gianh phía Nam của dãy Hoành Sơn vào đến đèo Cù Mông (Bình Định, giáp
ranh với Phú Yên). Chúa Tiên đã chăm lo xây dựng và phát triển Đàng
Trong sớm trở nên thịnh vượng và thái bình.
Sau khi quân Nguyễn bị Tây Sơn đánh bại, chúa Nguyễn và triều đình
rút vào Gia Định, phần đất Quảng Trị thuộc về chúa Trịnh với danh xưng
như cũ. Đến năm 1786, vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ làm tiết chế, Vũ Văn
Nhậm làm Tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu quân đô đốc đem
quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa. Chỉ trong mấy ngày đã làm chủ được