Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

bài tập tiểu luận môn pháp luật đại cương đề tài tìm hiểu về luật lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA TỔ CHỨC VÀ XÂY DƯNG CHÍNH QUYỀN

BÀI TẬP TIỂU LUẬN MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ LUẬT LAO ĐỘNG
GIẢNG VIÊN: TS NGUYỄN THỊ NGỌC LINH

Người Thực Hiện: PHÒNG VĂN BẢO
Lớp: XÂY DỰNG ĐẢNG & CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC-18A
Mã Sinh Viên: 1805XDDA004


I, giới thiệu bản thân
Họ-Tên: Phòng Văn Bảo
Ngày sinh: 10/02/2000
Mã SV: 1805XDDA004
Số điện thoại:0868810037 - 0345959635
Khoa: tổ chức và xây dựng chính quyền
Lớp: xây dựng đảng và chính quyền nhà nước
Quê quán:Hàm Yên - Tuyên Quang
Chỗ ở hiện nay: số 8D ngõ 326 nghi tàm-Quảng An-Tây Hồ-Hà Nội
Môn học yêu thích:
+ GDQP-AN và Địa Lý ví đó là môn học cho ta biết thêm về lãnh th ổ
đất nước và sự hình thành trái đất, biết thêm về vấn đề quốc phòng
an ninh của nước và biết thêm một phần nào đó về việc sử dụng vũ
khí quân sự an toàn và việc huấn luyện của các chiến sĩ
+pháp luật đại cương vì đó là môn học giúp hiểu rõ hơn về bộ máy
nhà nước, hiến pháp và pháp luật của nhà nước CHXHCN VIỆT NAM,
tìm hiểu pháp luật cũng là sở thích của tôi
- Thầy/cô yêu thích:
+ cô Trần Thị Bích Thủy,cô Nguyễn Thị Hồng,thầy Đàm Thái,cô Lê


Thị Phương,…..đó là những thầy/cô tâm lý và gần gũi với học sinh và
quan tâm học sinh nhất(ngoại trừ việc học thầy cô còn quan tâm cả
về mặt tình cảm của học sinh) trong thời gian còn là học sinh
+cô Nguyễn Thị Ngọc Linh vì trong giờ học cô hay tạo không khí vui
vẻ và những ví dụ thực tiễn trong đời sống
- Lý do chọn ngành này: do tôi trượt ngành công an(nguyện vọng 1)
nên đã chuyển sang mục tiêu tiếp theo là trở thành một cán bộ công
chức làm việc trong các cơ quan nhà nước tại nơi mình sinh ra góp
phần cống hiến cho quê hương
-

-Tương lai: mục đích hiện giờ của tôi sẽ học tập tốt để sau khi ra
trường trở thành cán bộ nhà nước được làm việc,công tác ngay tại quê
hương của mình

II, NỘI DUNG BÀI TẬP
1, Khái Niệm Ngành Luật Lao Động


 Khái niệm và các thuật ngữ trong luật lao động(trích điều 3)
- Luật lao động là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
Việt Nam , bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương và
người sử dụng lao động thuê mướn có trả công lao động và
những quan hệ xã hội khác có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao
động.

Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao
động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và ch ịu s ự
quản lý, điều hành của người sử dụng lao động.

- Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác
xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao đ ộng theo h ợp
đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân s ự
đầy đủ.
-


Tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành
công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ
sở ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở.
- Tổ chức đại diện người sử dụng lao động là tổ chức được thành
lập hợp pháp, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích h ợp pháp c ủa ng ười
sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
2, Phân Tích Nội Dung cơ bản
2.1,Hợp Đồng Lao Động(trích chương 3 hợp đồng lao động-mục 1)
 Hợp đồng lao động(điều 15)
-

- Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử
dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quy ền và
nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

 Hình thức hợp đồng lao động(điều 16)
Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và làm thành 02 bản:
mỗi bên giữ mội bản và có hiệu lực như nhau.
 Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động
+Tự nguyện
+ bình đẳng
+ thiện chí
+ hợp tác

+ trung thực.
-Tự do giao kết hợp đồng lao đ ộng nh ưng không đ ược trái pháp lu ật,
thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội.


 Hiệu lực của hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày các bên giao k ết trừ
trường hợp hai bên có thỏa thuận khác hoặc pháp lu ật có quy đ ịnh
khác.
 Tiền Lương(Điều 90)
- Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao đ ộng tr ả cho ng ười
lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận.

- Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, ph ụ
cấp lương và các khoản bổ sung khác.
- Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên
thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc
đó
 Tiền lương là vấn đề cơ bản nhất để xác định tiêu chu ẩn lao
động,tiền lương tối thiểu hướng tới mục tiêu bảo vệ người người
lao động
 Tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm(Điều 97)
- Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đ ơn giá ti ền
lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:
 Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;
 Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;


 Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% ch ưa
kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao

động hưởng lương ngày.
- Người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nh ất b ằng
30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo
công việc của ngày làm việc bình thường.
- Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài vi ệc tr ả l ương
theo quy định, người lao động còn được trả thêm 20% ti ền l ương
tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công vi ệc làm vào
ban ngày.

 Nghỉ lễ, tết
- Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương trong
những ngày lễ, tết sau đây:
o Tết Dương lịch 01 ngày (ngày 01 tháng 01 dương lịch);
o Tết Âm lịch 05 ngày;
o Nghỉ ngày 30/4 và 1/5
o Nghỉ ngày quốc khánh 1 ngày
o Nghỉ ngày giỗ tổ 01 ngày (ngày 10 tháng 3 âm lịch).
- Lao động là công dân nước ngoài được nghỉ lễ theo quy định


- Nếu những ngày nghỉ theo quy định tại khoản 1 Đi ều này trùng vào
ngày nghỉ hằng tuần, thì người lao động được nghỉ bù vào ngày k ế
tiếp.
 Nghỉ thai sản( Điều 157)
- Lao động nữ được nghỉ thai sản theo quy định là 06 tháng.
- Thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.
- Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai
sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
- Hết thời gian nghỉ thai sản, nếu có nhu cầu, lao đ ộng n ữ có th ể ngh ỉ
thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả thu ận với người

sử dụng lao động.
- Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc do
người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng
trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

 Tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế(Điểu 186)


- Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình
thành, phân phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình
tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường.
- Vai trò


Đề phòng và hạn chế tổn thất;



Bảo hiểm là một công cụ tín dụng;



Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông
qua hoạt động tái bảo hiểm.

- Người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc, bảo hiểm y tế bắt buộc và được hưởng các ch ế đ ộ
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
- Khuyến khích người sử dụng lao động, người lao đ ộng th ực hi ện các
hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.



- Trong thời gian người lao động nghỉ việc được hưởng chế độ bảo
hiểm xã hội, thì người sử dụng lao động không phải trả l ương cho
người lao động.
 Chế độ trợ cấp tai nạn lao động,bệnh nghề nghiệp
-

Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận,
chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao đ ộng, xảy
ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc th ực hi ện công vi ệc,
nhiệm vụ lao động.

-

Điều kiện nhận trợ cấp:

- Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc, k ể c ả làm vi ệc ngoài
giờ do yêu cầu của người sử dụng lao động.
- Bị tai nạn ngoài nơi làm việc khi thực hiện công vi ệc theo yêu c ầu
của người sử dụng lao động.
- Người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm trả các kho ản chi phí
y tế và tiền lương từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi đi ều tr ị ổn đ ịnh
thương tật cho người lao động bị tai nạn. Sắp xếp công việc phù hợp
và giới thiệu đi giám định sức khoẻ.

- Mức trợ cấp:
+Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30
tháng tiền lương và phụ cấp (nếu có) cho người lao đ ộng b ị suy
giảm khả năng lao động từ 81% sức khoẻ trở lên. Trong tr ường hợp



do lỗi trực tiếp của người lao động thì cũng được tr ợ c ấp ít nh ất
bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp (nếu có)
- + Nếu suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao đ ộng được tr ợ c ấp ít
nhất bằng 1,5 tháng tiền lương và phụ cấp.
- + Nếu suy giảm từ 10% đến 81% khả năng lao đ ộng thì cứ m ỗi 1%
suy giảm được trợ cấp ít nhất bằng 0,4 tháng ti ền lương và ph ụ c ấp,
trong trường hợp không do lỗi của người lao đ ộng. N ếu do l ỗi c ủa
người lao động thì được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40%
mức bồi thường quy định theo các tỷ lệ trên.
 Kỉ luật lao động.
- Kỉ luật lao động là những quy định về việc tuân theo th ời gian,công
nghệ và điều hành sản xuất ,kinh doanh th ể hiện trong n ội quy lao
động. Người sử dụng lao động phải đăng ký bản nội quy lao động tại
cơ quan lao động cấp tỉnh
- Người vi phạm kỉ luật lao động tùy theo mức độ phạm lỗi mà bị xử lý
theo những hình thức sau:
 khiển trách
 chuyển công việc có mức lương thấp có thời hạn tối đa là 6
tháng
 sa thải
 không được áp dụng nhiều hình thức kỉ luật đối với một hành vi vi
phạm
 sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau
 người lao động có hành vi trộm cắp,tham ô,tiết lộ bí mật công
nghệ….hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng v ề tài
sản,lợi ích cưa doanh nghiệp
 người lao động bị kỉ luật chuyển công việc khác mà tái phạm
trong thời gian chưa xóa kỉ luật

 người lao động tự ý bỏ về 7 ngày trong tuần hoặc 20 ngày
trong năm mà không có lý do chính đáng


 Chính sách mới từ Bộ Luật lao động 2012
-Một trong những điểm nổi bật trong Bộ Luật lao động 2012 là quy
định mới về thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ. Theo đó,
thời gian nghỉ trước và sau khi sinh con là 06 tháng thay vì 04 tháng
như hiện nay, trường hợp sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở
đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.
- Đối với chính sách tiền lương, BLLĐ 2012 định nghĩa mức lương tối
thiểu là mức thấp nhất trả cho NLĐ làm công việc giản đơn nhất,
trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu
sống tối thiểu của NLĐ và gia đình; được xác định theo tháng, ngày,
giờ và được xác lập theo vùng, ngành. Độ tuổi nghỉ hưu trong BLLĐ
2012 không thay đổi so với quy định cũ, tuy nhiên có quy định riêng
biệt đối với từng nhóm lao động.
- Thời gian làm việc cũng có những điểm mới, bên cạnh quy định
thời gian làm việc không quá 8h một ngày và 48h một tuần, BLLĐ
2012 cũng quy định NLĐ không được làm thêm quá 30h một tháng và
200h một năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy
định. Đồng thời, thời gian nghỉ Tết âm lịch hưởng nguyên lương cũng
được tăng từ 4 ngày lên 5 ngày.
->Bộ luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2013.
3, bình luận các vụ án liên quan
 VỤ ÁN 1


Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao
động

-Cơ sở vụ án:
Đây là thủ tục giám đốc thẩm trong năm 2006, trong đó Chánh án Toà án
Nhân dân tối cao, được hỗ trợ bởi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, kháng nghị đối với bản án của Toà phúc thẩm Toà án Nhân dân t ối cao
chấp thuận bản án của Tòa án lao động sơ thẩm tỉnh Khánh Hòa vì phát
hiện vi phạm pháp luật nghiêm trong trong xét xử vụ án.
Các bên liên quan trong vụ án là ông TAE MAN SONG (Ông.Song), qu ốc tịch
Hàn Quốc sinh năm 1948, là Nguyên đơn và Người sử dụng lao đ ộng, Công
ty Huyndai Vinashin, một xưởng đóng tàu liên doanh tại tỉnh Khánh Hòa,
Bị đơn. Ông Song làm việc cho Huyndai Vinashin v ới ch ức v ụ là thuy ền
trưởng tàu tại Việt Nam theo hợp đồng sáu năm liên tục k ể từ ngày 11
tháng 3 năm 1999 đến ngày 10 Tháng 3 năm 2005. Một sự kiện quan trọng
trong vụ án này, trong khi ông Song làm việc của Huyndai Vinashin trong
thời hạn sáu năm; ông Song chỉ có giấy phép lao động theo yêu c ầu c ủa
pháp luật Việt Nam cho người nước ngoài làm việc tại Vi ệt Nam v ới th ời
hạn một năm kể từ ngày 11 Tháng 3 năm 2001 đến ngày 10 tháng 3 năm
2002. Vì thế, ông Song làm việc cho Huyndai Vinashin mà không có gi ấy
phép lao động trong thời gian từ ngày 11 tháng 3 năm 2004 đ ến ngày 10
tháng 3 năm 2005 khi tranh chấp xảy ra.
Sự việc đã dẫn đến tranh chấp xảy ra ngày 27 tháng 4 năm 2004 khi
Huyndai Vinashin chỉ thị ông Song kéo một chiếc tàu và m ột giàn khoan
dầu nổi đến một bến tàu để sửa chữa. Ông Song không thực hi ện theo ch ỉ
thị, như vậy bỏ rơi công việc của mình. Hai ngày sau đó, vào ngày 29 tháng
4 năm 2004, Huyndai Vinashin đã ban hành một thông báo ch ấm dứt hợp
đồng lao động với ông Song có hiệu lực ngay với cáo bu ộc vi ph ạm h ợp
đồng của ông Song. Thật vậy, theo Điều 9 của h ợp đ ồng lao đ ộng v ới đi ều
kiện sử dụng lao động, Huyndai Vinashin, được quyền chấm dứt hợp đồng
nếu người lao động, ông Song, không thực hiện theo chỉ thị.
Vào ngày 01 tháng 12 năm 2004, ông Song đã khởi ki ện tại Tòa án nhân
dân tỉnh Khánh Hòa, yêu cầu Huyndai Vinashin bồi thường vì chấm dứt

hợp đồng lao động trái pháp luật đối với ông trên cơ sở pháp lý là Huyndai
Vinashin đã không thông báo đầy đủ theo yêu cầu c ủa B ộ lu ật Lao đ ộng.
Số tiền ông Song yêu cầu bồi thường bao gồm tiền lương cho thời gian còn
lại của hợp đồng và hai tháng lương theo Điều 41 của Bộ luật Lao đ ộng
trong trường hợp Người sử dụng lao động chấm dứt hợp đ ồng lao đ ộng
bất hợp pháp. Yêu cầu này này đã bị Huyndai Vinashin từ chối mà còn
phản tố ông Song đối với thiệt hại mà Huyndai Vinashin phải chịu do ông
Song không thực hiện chỉ thị.


Vào tháng 5 năm 2005, Tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa,
cho rằng hợp đồng lao động liên quan giữa ông Song và Huyndai Vinashin
hoàn toàn vô hiệu vì thực tế ông Song không có giấy phép lao đ ộng theo
yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án đã yêu c ầu Huyndai Vinashin tr ả
cho ông Song tiền lương trong suốt thời gian còn lại c ủa hợp đ ồng lao
động cộng với hai tháng lương theo yêu cầu của Điều 41 của B ộ lu ật Lao
động. Tòa án cũng bác bỏ phản tố của Huyndai Vinashin v ề nh ững thi ệt
hại phải chịu do ông song vi phạm hợp đồng.Cả hai bên kháng cáo lên Tòa
phúc thẩm. Vào ngày 08 Tháng 6 năm 2005, Tòa án phúc th ẩm ra quy ết
quyết định, xác định quyết định của Tòa án s ơ th ẩm b ảo v ệ quy ền l ợi cho
ông Song và thậm chí tăng bồi thường.
Sau một số khiếu nại của Tổng Giám đốc của Huyndai Vinashin, Chánh án
Toà án nhân dân tối cao, được hỗ trợ bởi Viện trưởng Vi ện ki ểm sát nhân
dân tối cao, gủi kháng nghị đến Hội đồng Thẩm phán Tòa án T ối cao đ ối
với bản án của cả hai phiên toà sơ thẩm và tòa án cấp phúc th ẩm, cho
rằng đã có một lỗi vi phạm pháp luật nghiêm tr ọng và yêu cầu v ấn đ ề này
được phải được xét xử lại
Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao đưa ra phán quy ết của mình vào ngày
4 tháng 7 năm 2006, chấp thuận kháng nghị. Hội đồng lưu ý rằng các Tòa
án cấp dưới đúng trong việc xem xét hợp đồng lao đ ộng vô hi ệu vì ông

Song không có giấy phép lao động, các tòa cấp dưới đã sai khi cho r ằng
Huyndai Vinashin đã chấm dứt hợp đồng bất hợp pháp và phải trả cho
ông Song tiền lương cho phần còn lại thời hạn hợp đồng cộng v ới ti ền
lương hai tháng theo Điều 41 của Bộ luật Lao đ ộng. Theo H ội đ ồng Th ẩm
phán, quyền của ông Song trong trường hợp này được giới hạn theo h ợp
đồng đến thời điểm ông Song bỏ công việc của mình và không gia hạn đến
ngày hết hạn của hợp đồng.
Hơn nữa, Hội đồng Thẩm phán đã cho rằng các tòa án cấp dưới đã sai
trong việc bác bỏ phản tố của Huyndai Vinashin vì có m ột s ố bằng ch ứng
cho thấy Công ty đã thực sự bị thiệt hại do ông Song không th ực hi ện
mệnh lệnh công ty. Bằng chứng đã không được đưa ra xem xét đ ầy đủ của
cả hai phiên tòa sơ thẩm và tòa án phúc thẩm và cần được đánh giá l ại.
Vì những lý do, Hội đồng Thẩm phán hủy bản án của cả hai tòa án xét xử
sơ thẩm và Toà phúc thẩm và ra lệnh cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
để xét xử sơ thẩm vụ án.
- Bình luận vụ án
+Có hai điểm có giá trị lưu ý trong trường hợp này.
 Điểm thứ nhất, ba tòa án đều nhất trí xem xét hợp đ ồng lao đ ộng
hoàn toàn vô hiệu trên cơ sở người lao động nước ngoài, ông Song,
không có giấy phép lao động theo quy định của Nghị định 105/2003
về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Ông Song vi phạm pháp


luật Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao đ ộng mà không có gi ấy
phép lao động. Do đó, hợp đồng sẽ được tuyên b ố vô hi ệu. Ng ười
lao động nên đảm bảo tuân thủ tất cả luật có liên quan c ủa Vi ệt
Nam, vì sợ rằng hợp đồng không có hiệu lực pháp luật.
 Điểm thứ hai đáng chú ý trong trường hợp này là quy ết đ ịnh c ủa
Hội đồng Thẩm phán rằng ngay cả khi hợp đồng lao đ ộng đ ược coi
là vô hiệu, người lao động có thể yêu cầu bồi thường theo h ợp

đồng đến thời điểm không còn làm việc. Nói cách khác, người lao
động vẫn được thanh toán theo các điều khoản của hợp đ ồng cho
các công việc đã thực hiện. Rủi ro cho người lao đ ộng trong tr ường
hợp này là sử dụng lao động có thể chấm dứt hợp đ ồng bất cứ lúc
nào mà không chịu bất kỳ trách nhiệm về việc chấm dứt bất h ợp
pháp theo luật lao động, mà lẽ ra phải được phát sinh n ếu h ợp
đồng là hợp lệ.
 Tóm lại, hai thông điệp có thể được rút ra từ vụ án này. Tr ước tiên,
đối với người lao động người nước ngoài, họ phải đảm bảo rằng
các yêu cầu có liên quan của pháp luật lao động Việt Nam v ề gi ấy
pháp lao động được thực hiện theo hợp đ ồng đ ể tránh b ị tuyên b ố
vô hiệu. Thứ hai, đối với người sử dụng lao đ ộng, th ực t ế là h ợp
đồng lao động vô hiệu, không có nghĩa là người sử dụng lao đ ộng
không phải trả tiền cho người lao động cho các công vi ệc đã th ực
hiện.
 VỤ ÁN 2
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 10/2017/LĐ-PT NGÀY 14/07/2017 VỀ ĐƠN PHƯƠNG
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Trong các ngày 10 và 14 tháng 7 năm 2017, tại trụ s ở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2017/TLPTLĐ ngày 15 tháng 3 năm 2017 về việc “tranh chấp đơn ph ương ch ấm dứt
hợp đồng lao động”. Do bản án lao động sơ thẩm s ố 23/2016/LĐ-STngày
30 tháng 12 năm 2016 của Tòa án nhân dân thị xã TA, tỉnh Bình D ương b ị
kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc th ẩm s ố
07/2017/QĐPT-LĐ ngày 23 tháng 6 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lâm L P, sinh năm 1984; đ ịa chỉ: T ổ 16, khu
phố2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có mặt. Ng ười đ ại
diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Nam T, sinh năm 1980;
địa chỉ: khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai theo
giấy ủy quyền ngày 27/10/2016; có mặt.



2. Bị đơn: Công ty TNHH KH; trụ sở: đường ĐT 743, khu ph ố B,
phường BC, thị xã TA, tỉnh Bình Dương do bà Phan T L, ch ức v ụ:
Giám đốc làm đại diện theo pháp luật. Người đại diện hợp pháp
của bị đơn: Bà HNP, sinh năm 1985; địa chỉ: đường Ngô Chí Qu ốc,
phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương theo giấy ủy quy ền ngày
14/9/2016; có mặt.
3. Người làm chứng:
3.1. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1956; địa chỉ: đường Nguy ễn Văn
Tiết, khu phố Đ, phường L, thị xã TA, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
3.2. Ông Mai H S; địa chỉ: đường ĐT 743, khu phố B, phường BC, th ị
xã TA, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
3.3. Ông Trần Quan M; địa chỉ: đường ĐT 743, khu phố B, phường
BC, thị xã TA, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bà Lâm L P là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 04/10/2016, nguyên đơn bà Lâm L P và ng ười
đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Trần Nam T trình bày: Bà P vào
làm việc tại Công ty TNHH KH (gọi tắt là Công ty) từ ngày 01/11/2010 v ới
công việc là kế toán, mức lương 5.200.000 đồng/tháng. Trong quá trình
làm việc, bà P luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành công vi ệc đ ược giao và
không vi phạm nội quy của Công ty. Thời gian gần đây, do bà P có thai nên
thường xuyên phải nghỉ để đi khám thai. Tất cả những ngày nghỉ, bà P đ ều
có giấy tờ hợp lệ. Khi bà P nộp các giấy tờ cho Công ty thì Công ty không
nhận nên có ác cảm với bà P. Công ty thường xuyên bu ộc bà P vi ết đ ơn xin
thôi việc, nhưng bà P không đồng ý nên từ ngày 03/3/2016 đ ến nay Công
ty không cho bà P vào làm việc. Bà P thường xuyên liên l ạc yêu c ầu Công ty
cho bà P vào làm việc, nhưng Công ty không chấp nhận và thông báo sẽ tr ả
lương cho bà P đến hết tháng 3 năm 2016. Từ đầu tháng 4 năm 2016 đ ến

nay, Công ty không cho bà P vào làm việc và cũng không thanh toán ti ền
lương cho bà P. Theo bà P, việc Công ty không cho bà P vào làm vi ệc là
không đúng quy định của pháp luật, trái với hợp đ ồng lao đ ộng nên bà P
khởi kiện yêu cầu Công ty phải nhận bà P trở lại làm vi ệc và ph ải b ồi
thường gồm: 45 ngày không thông báo trước với số ti ền 7.800.000 đ ồng;
bồi thường chấm dứt hợp đồng lao động (17 tháng không được làm vi ệc)
với số tiền 88.400.000 đồng; tiền thai sản 06 tháng là 31.200.000 đ ồng;


chi phí sinh con là 15.167.121 đồng. Tổng cộng, bà P yêu c ầu Công ty ph ải
bồi thường số tiền 142.567.121 đồng.
Ngày 31/8/2016, bà P có “đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện” yêu cầu Công ty
phải nhận bà P trở lại làm việc và bồi thường tiền lương trong nh ững
ngày không được làm việc là 88.400.000 đồng; bồi thường 02 tháng l ương
do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là 10.400.000 đ ồng; b ồi
thường 45 ngày không thông báo trước là 9.000.000 đồng; ti ền thai s ản 06
tháng là 31.200.000 đồng; chi phí sinh con do không có b ảo hi ểm y t ế là
15.167.121 đồng và tiền lương tháng 02 năm 2016 là 2.600.000 đ ồng.
Tổng cộng là 156.767.212 đồng.
* Bị đơn Công ty TNHH KH (gọi tắt là Công ty) do bà HNP làm đại di ện trình
bày: Bà Lâm L P làm việc tại Công ty TNHH KH từ ngày 08/4/2011, hai bên
có ký kết Hợp đồng lao động số 18/HĐKH-11 ngày 08/4/2011, công vi ệc
của bà P là kế toán, tính đến thời điểm hiện nay mức l ương cùng ph ụ c ấp
của bà P là 5.200.000 đồng/tháng. Hình thức trả lương b ằng ti ền m ặt, tr ả
lương vào ngày 05 và ngày 20 hàng tháng. Trước đây, bà P làm vi ệc khá
nghiêm túc, mặc dù bằng cấp cũng như chuyên môn nghi ệp v ụ c ủa bà P
chưa cao, nhưng Công ty vẫn tạo điều kiện cho bà P h ọc h ỏi đ ể có công
việc ổn định. Tuy nhiên, vào khoảng cu ối năm 2015 và đ ầu năm 2016 thì
bà P thường xuyên đi trễ, về sớm, có lúc nghỉ không thông báo tr ước, ch ỉ
nhắn tin xin Kế toán trưởng. Do đặc thù của công việc kế toán phải làm

việc thường xuyên, liên tục và cẩn trọng nên K ế toán tr ưởng c ủa Công ty
đã nhiều lần báo cáo với Ban giám đốc về trường hợp của bà P thường
xuyên nghỉ, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, làm ảnh h ưởng đ ến
công việc của Công ty. Vì lẽ đó, ngày 10/3/2016 Công ty đã t ổ ch ức cu ộc
họp, trong đó có: Ban chấp hành Công đoàn, bà Lâm L P và Kế toán trưởng.
Mục đích của buổi họp là nhắc nhở bà P cần xem lại tác phong làm vi ệc,
cần tôn trọng nội quy Công ty. Trường hợp bà P cho rằng sức kh ỏe c ủa
mình không đảm bảo để tiếp tục công việc hiện tại, bà P có th ể đ ề xu ất
với Giám đốc để cân nhắc, sắp xếp công việc khác phù hợp. Nhưng tại
buổi làm việc, bà P không thừa nhận mình sai, còn có l ời to ti ếng v ới
trưởng bộ phận, sau đó giận dữ và bỏ về. Kể từ ngày đó, bà P không đ ến
Công ty làm việc.
Khi Sở lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Bình D ương có gi ấy m ời làm
việc, Công ty mới biết bà P khiếu nại. Ngày 10/5/2016, Giám đốc Công ty
có ủy quyền cho bà HNP đến Sở Lao động – Thương binh và Xã h ội t ỉnh
Bình Dương làm việc, nhưng bà P không đến. Bà HNP có đ ề ngh ị bà P đ ến
Công ty làm việc nhưng bà P cũng không đến. Ngày 13/5/2016, bà HNP
đến nhà bà P để trao đổi với bà P thì bà P có nguy ện v ọng đ ược đ ến Công


ty làm việc, nếu không thì Công ty phải bồi th ường cho bà P s ố ti ền
137.000.000 đồng. Bà HNP có nói sẽ về trao đổi lại với Giám đốc, nhưng từ
thời điểm đó đến nay bà P không đến Công ty làm vi ệc mà ch ỉ liên l ạc v ới
nhân viên của Công ty. Việc bà P cho rằng Công ty bu ộc bà P vi ết đ ơn xin
thôi việc và Công ty không cho bà P vào làm vi ệc k ể t ừ ngày 03/3/2016
đến nay, là không có căn cứ. Ngày 10/3/2016, bà P tự ý b ỏ vi ệc là đã đ ơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty. Do vậy, Công ty không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà P.
Ngày 31/10/2016, Công ty có đơn phản tố yêu cầu Tòa án xác đ ịnh bà
Lâm L P “đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” với Công ty TNHH

KH, buộc bà P phải bồi thường thiệt hại cho Công ty 02 tháng ti ền l ương
do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là 10.400.000 đ ồng, Công ty
đồng ý thanh toán tiền lương tháng 02 năm 2016 còn lại cho bà P s ố ti ền
2.600.000 đồng. Bản án lao động sơ thẩm số: 23/2016/LĐ-ST ngày
30/12/2016 của Tòa án nhân dân thị xã TA, tỉnh Bình Dương đã căn cứ
điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39
của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 41, Điều 42 của Bộ lu ật Lao đ ộng và
Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đ ơn bà Lâm L P
đối với bị đơn Công ty TNHH KH về việc “Đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động” và buộc bồi thường gồm: 45 ngày không thông báo tr ước là
9.000.000 đồng; tiền lương trong những ngày không được làm việc là
88.400.000 đồng; bồi thường 02 tháng lương do đơn phương ch ấm dứt
hợp đồng trái pháp luật là 10.400.000 đồng; 06 tháng ti ền thai s ản là
31.200.000 đồng; chi phí sinh con là 15.167.121 đồng và buộc Công ty phải
nhận bà P trở lại làm việc.
- Ghi nhận sự thỏa thuận của bà Lâm L P và Công ty TNHH KH: Bu ộc Công
ty TNHH KH phải trả cho bà P 2.600.000 đ ồng ti ền lương tháng 02 năm
2016.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH KH về vi ệc xác
định nguyên đơn bà Lâm L P “đơn phương chấm dứt hợp đ ồng lao đ ộng”.
Buộc bà Lâm L P phải bồi thường cho Công ty TNHH KH s ố ti ền
10.400.000 đồng.
- Buộc bà Lâm L P và Công ty TNHH KH làm thủ tục theo quy đ ịnh pháp
luật để cơ quan Bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm thai sản và chi phí sinh
con cho bà P.


Ngoài ra, Bản án lao động sơ thẩm còn tuyên v ề ph ần án phí, nghĩa v ụ do
chậm thi hành án và quyền kháng cáo cho các đương sự. Ngày

10/01/2017, nguyên đơn bà Lâm L P có đơn kháng cáo toàn bộ b ản án s ơ
thẩm với yêu cầu đề Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại toàn b ộ b ản án s ơ
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà P.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đ ơn ông
Trần Nam T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị H ội đ ồng xét xử
xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng sửa án sơ th ẩm, ch ấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lâm L P và cho r ằng:
Chứng cứ để chứng minh việc Công ty đơn phương chấm dứt hợp đ ồng
lao động với bà P là đoạn băng ghi âm s ố 003 ngày 21/3/2016 gi ữa bà P
với ông S. Nếu bà P tự ý bỏ việc thì không lí do gì bà P làm đ ơn g ửi Thanh
tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nhờ giải quyết và khởi ki ện đ ối
với Công ty.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn bà HNP trình bày: Bà P ch ủ đ ộng thu
thập chứng cứ ngay từ ban đầu để khởi kiện Công ty, nên bà P đã ch ủ
động gọi điện thoại cho ông S, ông H S để đặt ra nh ững câu h ỏi theo
hướng có lợi cho bà P và ghi âm lại, nhưng những người đ ối tho ại không
biết. Tuy nhiên, nội dung lời nói của những người đối thoại trong các đoạn
ghi âm không có nội dung nào thể hiện việc Công ty không cho bà P vào
làm việc, những đoạn ghi âm cuộc trao đổi giữa bà P v ới ông H S trong
điện thoại là bất lợi cho bà P nên bà P đã không cung c ấp cho Tòa án. Do
vậy, bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình, đề ngh ị Hội đ ồng xét x ử
không chấp nhận kháng cáo của bà P. Bị đơn tự nguy ện trả cho bà P s ố
tiền lương còn lại của tháng 02 năm 2016 và tiền lương các ngày Công ty
cho bà P nghỉ dưỡng sức (từ ngày 02/3 đến ngày 10/3/2016) với tổng s ố
tiền là 4.770.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên toa có ý
kiến: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia t ố t ụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tô tung dân sự.về nội dung : Sau khi
Tòa án nhân dân thị xã TA xét xử vụ án, nguyên đơn bà P kháng cáo toàn b ộ
bản án sơ thẩm với lí do cho rằng bản án sơ th ẩm xét xử không khách

quan, đơn kháng cáo của bà P là còn trong h ạn lu ật đ ịnh và h ợp l ệ. Căn c ứ
vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nh ận th ấy: Nguyên đ ơn bà
P khởi kiện cho rằng Công ty đơn phương chấm dứt hợp đ ồng lao đ ộng
với bà P, nhưng bà P không xuất trình được chứng cứ để chứng minh vi ệc
người đại diện hợp pháp của Công ty không cho bà P vào làm vi ệc. Quá
trình giải quyết vụ án, bà P cũng thừa nhận những lần bà P ngh ỉ đi khám
thai chỉ xin phép ông M là không đúng quy đ ịnh. Qua k ết qu ả xác minh và


đối chất xác định: Kể từ ngày 11/3/2016 thì bà P không vào Công ty làm
việc, nhưng Công ty vẫn thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm cho bà P nên
không có căn cứ xác định Công ty đã đơn ph ương chấm dứt h ợp đ ồng lao
động với bà P, bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ. T ại phiên tòa phúc
thẩm, bà P cũng không xuất trình được chứng cứ mới để chứng minh nên
yêu cầu kháng cáo của bà P không có cơ sở chấp nhận. Đề ngh ị H ội đ ồng
xét xử bác kháng cáo của bà P, ghi nhận sự tự nguyện của Công ty v ề vi ệc
tự nguyện trả cho bà P số tiền lương còn lại của tháng 02 năm 2016 và
tiền lương các ngày Công ty cho bà P ghỉ dưỡng sức (từ ngày 02/3/2016
đến ngày 10/3/2016) với tổng số tiền là 4.770.000 đồng.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong h ồ s ơ v ụ án đã đ ược
thẩm tra tại phiên tòa; qua xem xét toàn diện ý kiến của các bên đương s ự,
ý kiến của đại diện Viện kiểm sát; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa.
 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1] Về tố tụng: Ngày 27/12/2016, Tòa án nhân dân th ị xã TA đ ưa v ụ án ra
xét xử và tuyên án vào ngày 30/12/2016. Do không đ ồng ý v ới b ản án s ơ
thẩm, ngày 10/01/2017 bà P làm đơn kháng cáo đ ể yêu c ầu Tòa án c ấp
phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung bản án sơ th ẩm là hoàn toàn phù
hợp và còn trong thời hạn theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 c ủa B ộ
luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Nguyên đơn bà Lâm L P xác đ ịnh bà P vào làm K ế toán t ại
Công ty TNHH KH (gọi tắt là Công ty) từ ngày 01/11/2010 nh ưng nguyên
đơn không đưa ra được chứng cứ để chứng minh. Bị đơn Công ty TNHH KH
(gọi tắt là Công ty) xác định bà P vào làm vi ệc tại Công ty t ừ ngày
08/4/2011 và trước đó bà P có thử việc tại Công ty 02 tháng. Quá trình
làm việc, hai bên có ký Hợp đồng lao động ngày 08/4/2011 và m ột s ố ph ụ
lục Hợp đồng, mức lương cùng phụ cấp tính đ ến thời đi ểm bà P ngh ỉ vi ệc
là 5.300.000 đồng/tháng. Từ ngày 11/3/2016 thì bà P không đ ến Công ty
làm việc. Chứng cứ mà bị đơn xuất trình là H ợp đ ồng lao đ ộng ngày
08/4/2011 và các phụ lục hợp đồng ngày 05/10/2011, ngày 05/01/2013,
ngày 06/01/2014 và ngày 05/01/2015 (bút lục 104 - 109) nên l ời trình
bày của bị đơn là có căn cứ chấp nhận. Căn cứ quy định tại Điều 22 của Bộ
luật Lao động thì hợp đồng lao động được ký kết giữa bà P với Công ty là
loại hợp đồng không xác định thời hạn.
[3] Xét việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhận thấy: Nguyên
đơn bà P cho rằng Công ty “đơn phương chấm dứt hợp đồng lao đ ộng” v ới
bà P bằng hình thức ngăn cản không cho bà P vào Công ty làm vi ệc, nên bà


P đã nghỉ việc từ ngày 03/3/2016. Bị đơn Công ty không th ừa nh ận v ới l ời
trình bày của bà P và xác định: Bà P đang mang thai nh ưng ngày
02/3/2016 bà P bị “té xe” nên từ ngày 03/3/2016 đ ến ngày 10/3/2016,
Công ty cho bà P nghỉ để bà P ổn định sức khỏe. Từ ngày 11/3/2016 trở đi,
bà P tự ý không đến Công ty làm việc chứ không phải Công ty không cho bà
P vào làm việc.
[4] Căn cứ phiếu “dịch vụ chuyển phát nhanh” do bà P cung c ấp (bút l ục
24), “đơn khiếu nại” do Sở Lao động – Thương binh và Xã h ội t ỉnh Bình
Dương cung cấp cho Tòa án theo Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu,
chứng cứ số 01/QĐ-CCTLCC ngày 18/5/2017, xác định: Ngày 13/5/2016,
bà P mới làm đơn gửi đến Chánh Thanh tra Sở Lao đ ộng – Th ương binh và

Xã hội tỉnh Bình Dương (bút lục 234, 235) và gửi đi là ngày 24/5/2016, tức
sau khi có “biên bản làm việc” ngày 13/5/2016 giữa bà HNP v ới bà P và t ừ
đó hai bên xảy ra tranh chấp.
[5] Nhận thấy, bà P vào làm việc tại Công ty là theo h ợp đ ồng lao đ ộng
được ký kết giữa bà P với người đại diện theo pháp lu ật c ủa Công ty là bà
Phan T L - Giám đốc Công ty, nên chỉ có người đ ại di ện theo pháp lu ật c ủa
Công ty hoặc người được người đại diện theo pháp luật của Công ty ủy
quyền mới có quyền chấm dứt hợp đồng lao động với bà P. Quá trình gi ải
quyết vụ án, bà P cho rằng: Công ty cho bà P nghỉ vi ệc, nh ưng bà P l ại
không xuất trình được văn bản chứng minh việc Công ty cho bà P ngh ỉ
việc; bà P cũng không có văn bản nào thể hiện việc Công ty không cho bà P
vào làm việc, như: Biên bản ghi nhận sự việc của Ban qu ản lý Khu công
nghiệp, biên bản của chính quyền địa phương nơi Công ty có tr ụ s ở v.v…
để chứng minh. Chứng cứ mà bà P xuất trình là văn b ản trình bày “n ội
dung cuộc ghi âm bằng điện thoại” do bà P lén ghi lại cu ộc nói chuy ện
giữa bà P với ông Nguyễn Văn S - Chủ tịch Công đoàn c ủa Công ty vào ngày
15/3/2016 và ngày 21/3/2016 (bút lục 211 - 218). Quá trình th ụ lý gi ải
quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã tiến hành tri ệu t ập h ợp l ệ đ ến l ần
thứ hai các ông: Nguyễn Văn S, Mai H S, Trần Quan M đ ể l ấy l ời khai, đ ối
chất làm rõ sự việc nhưng những người này đều có đơn trình bày ý ki ến,
đơn xin từ chối tham gia và đơn xin xét xử vắng mặt (bút lục 174 - 182,
187 - 189). Theo nội dung trong các đơn trên, ông S, ông M, ông H S đ ều
xác định bà P không vào Công ty làm vi ệc từ ngày 11/3/2016, nên l ời trình
bày của người đại diện hợp pháp của bị đơn xác định bà P không đến Công
ty làm việc từ ngày 11/3/2016 là hoàn toàn phù hợp.
[6] Để có căn cứ vững chắc cho việc giải quyết v ụ án, Tòa án ti ến hành
triệu tập hợp lệ lần thứ ba đối với ông S, ông H S, ông M để thu th ập l ời
khai và đối chất làm rõ. Tại các bản tự khai ngày 13/6/2017, ông S, ông M



xác định: Chiều ngày 10/3/2016 tại Công ty, ông S, ông M và bà P có ti ến
hành cuộc họp để nhắc nhở về thái độ làm việc của bà P, nhưng tại cu ộc
họp bà P “cải vã” với ông M rồi sau đó bỏ về, k ể từ ngày 11/3/2016 thì
không thấy bà P vào Công ty làm việc (bút l ục 256, 258). Đ ặc bi ệt, t ại b ản
tự khai ngày 13/6/2017, ông Mai H S xác định: “Ngày 3/3/2016, tôi có nhận
được chỉ đạo của Văn phòng cty KH (chị T) là “Nếu ch ị P (VP) có t ới làm
việc thì nói với chị P là về nghỉ, hẹn đến 15h ngày 10/3/2016 tới g ặp Ban
lãnh đạo cty KH để họp rồi sau đó tiếp tục làm việc”… Nhưng k ể t ừ ngày
11/3/2016 tôi không thấy chị P (VP) đến Cty KH làm việc nữa” (bút lục
257). Qua đối chất ngày 13/6/2017 tại Tòa án cấp phúc th ẩm, ông S th ừa
nhận giọng nói trong đoạn ghi âm số 001 ngày 15/3/2016 và s ố 003 ngày
21/3/2016 được lưu trong điện thoại di động hiệu Nokia của bà P mà Tòa
án cho ông S nghe lại là của ông S. Nội dung cu ộc nói chuy ện là ông S trao
đổi với bà P về việc bà P muốn làm đơn xin thôi việc, nên ông S cản,
khuyên bà P hãy bình tĩnh, cứ từ từ chờ Công ty giải quy ết (bút l ục 264).
Cũng tại biên bản đối chất trên, ông H S cũng xác đ ịnh: Trước đây bà P có
gọi điện thoại cho ông H S theo số điện thoại di đ ộng 0913781803, n ội
dung bà P hỏi ông H S là “trước đây công ty chỉ đạo cho tôi không cho bà P
vào làm việc có phải không?” Tôi (H S) nói với bà P rằng “Công ty không có
chỉ đạo không cho bà P vào làm việc” , giọng nói trong đoạn ghi âm số 002
ngày 21/3/2016 và số 004 ngày 19/10/2016 lưu trong điện tho ại di đ ộng
hiệu Nokia của bà P mà Tòa án cho ông H S nghe lại là của ông H S. Qua đ ối
chất, bà P không có ý kiến phản đối và thừa nhận giọng nói trong các đoạn
ghi âm trên là của ông H S, được bà P ghi âm lại nhưng do th ời gian lâu nên
bà P quên không cung cấp cho Tòa án (bút lục 264) nên theo quy đ ịnh t ại
khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây được xem là tình ti ết,
sự kiện không phải chứng minh. Qua nghe lại nội dung 04 đoạn ghi âm
trên, nhận thấy: Những nội dung xác định Công ty không cho bà P vào làm
việc là do bà P chủ động nêu ra, những người đối thoại với bà P không có
ai đề cập đến vấn đề này, nên việc bà P cho rằng các đoạn ghi âm trên xác

định Công ty không cho bà P vào làm vi ệc là không có c ơ s ở; vi ệc bà P cho
rằng: 02 đoạn ghi âm giọng nói của ông H S, do th ời gian đã lâu nên bà P
quên không cung cấp cho Tòa án là không có căn cứ, bởi lẽ các đo ạn ghi âm
trên đều được ghi và lưu trên cùng 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia,
số Emei 354107057718301 của bà P, trong đó có đoạn ghi âm s ố 002 cùng
ngày với đoạn ghi âm số 003.
[7] Qua xem xét các chứng cứ do Công ty xuất trình, nhận thấy: Tại các Văn
bản gửi Giám đốc Công ty, ông Trần Quan M – Kế toán trưởng xác đ ịnh bà
P không chấp hành đúng nội quy Công ty về giờ gi ấc làm vi ệc, không hoàn
thành công việc được giao, đề nghị xử lý kỷ luật và sắp xếp công việc khác


cho bà P (bút lục 60 - 63); tại Báo cáo ngày 11/3/2016 c ủa ông Nguy ễn
Văn S - Chủ tịch Công đoàn gửi cho Giám đốc Công ty cũng đ ề ngh ị “x ử lý vi
phạm của cô Lâm L P – kế toán Công ty đã ngh ỉ vi ệc nhi ều l ần nh ưng
không xin phép” (bút lục 64 - 65). Tuy nhiên, do th ời điểm này bà P đang
mang thai nên Công ty không xử lý kỷ luật đối với bà P là đúng quy định tại
điểm d khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao đ ộng. Đ ối v ới S ổ B ảo hi ểm xã
hội tên Lâm L P và thẻ Bảo hiểm y tế tên Lâm L P do Công ty xu ất trình
(bút lục 66 - 71). Ngày 14/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bình D ương đã
tiến hành xác minh tại Bảo hiểm xã hội thị xã TA xác đ ịnh: “Bà Lâm L P s ố
Sổ Bảo hiểm xã hội 7411047920 tham gia bảo hiểm xã h ội tại Công ty
TNHH KH từ ngày 01/4/2011 đến ngày 31/12/2016… Công ty TNHH KH
báo giảm lao động cho bà P vào ngày 17/01/2017, b ảo hi ểm y t ế c ủa bà P
tham gia từ ngày 01/4/2011 đến ngày 31/01/2017”. Cho th ấy, m ặc dù t ừ
ngày 11/3/2016 trở đi, bà P không vào Công ty làm vi ệc nh ưng Công ty
vẫn thực hiện đầy đủ các chế độ bảo hiểm cho bà P theo quy đ ịnh c ủa B ộ
luật Lao động. Từ những chứng cứ nêu trên, không có căn cứ xác định Công
ty đã “đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” với bà P.
[8] Do đó, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xác định: Bà Lâm L P tự ý đ ơn

phương chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty TNHH KH, xử không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm L P; chấp nh ận yêu c ầu
phản tố của Công ty TNHH KH đối với bà Lâm L P v ề vi ệc bu ộc bà P b ồi
thường cho Công ty nửa tháng tiền lương và 45 ngày không thông báo
trước với số tiền 10.400.000 đồng và ghi nhận sự th ỏa thuận của bà Lâm
L P với Công ty TNHH KH là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy đ ịnh c ủa pháp
luật nên yêu cầu kháng cáo của bà P là không có cơ s ở. Tuy nhiên, b ản án
sơ thẩm xác định bà P là người đơn phương chấm dứt hợp đồng lao đ ộng
nhưng lại nhận định: “Công ty không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động đối với bà P và Công ty hiện chưa xử lý k ỷ lu ật bà P nên bà P v ẫn là
người lao động của Công ty nên bà P được quyền vào Công ty làm vi ệc bình
thường kể từ khi án có hiệu lực pháp luật nên không ch ấp nh ận yêu c ầu
của bà P về việc buộc Công ty nhận bà P trở lại làm vi ệc” là mâu thuẫn,
không chính xác, cần rút kinh nghiệm.
[9] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đ ơn bà HNP
xác định: Tiền lương tháng 02 năm 2016, Công ty chưa thanh toán s ố ti ền
còn lại 2.600.000 đồng cho bà P và Công ty chưa thanh toán ti ền l ương
những ngày Công ty cho bà P nghỉ (từ ngày 02/3/2016 đ ến ngày
10/3/2016), nên Công ty đồng ý thanh toán cho bà P t ổng s ố ti ền
4.770.000 đồng. Xét ý kiến trên của đại diện Công ty là hoàn toàn t ự
nguyện, khách quan, phù hợp với quy định của pháp luật nên H ội đ ồng xét
xử ghi nhận và sửa một phần bản án sơ thẩm về phần này.


[10] Đối với tiền thai sản và chi phí sinh con: Do bà P có tham gia b ảo
hiểm y tế và bảo hiểm xã hội theo quy đ ịnh nên c ơ quan B ảo hi ểm xã h ội
có trách nhiệm chi trả khoản tiền này cho bà P. Do đó, b ản án s ơ th ẩm x ử
buộc bà P và Công ty TNHH KH thực hiện các thủ tục theo quy đ ịnh đ ể c ơ
quan bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm cho bà P là đúng quy định.
[11] Từ những phân tích trên, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng

cáo của nguyên đơn bà Lâm L P. Chấp nhận ý kiến của người đại diện hợp
pháp của bị đơn đưa ra và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, sửa một
phần bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã TA, tỉnh Bình Dương.
[12] Án phí lao động phúc thẩm: Bà Lâm L P đ ược mi ễn n ộp theo quy đ ịnh
của pháp luật. Vì các lẽ trên;
 QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 148, Điều 294, khoản 2 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Lâm L P.
2. Sửa một phần Bản án lao động sơ thẩm số: 23/2016/LĐ-ST ngày
30/12/2016 của Tòa án nhân dân thị xã TA, tỉnh Bình Dương như sau: Căn
cứ điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Đi ều
39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 41, Điều 42 của Bộ luật Lao động và
Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa 12 về án phí, lệ phí Tòa án và Đi ều 48 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa 14;
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đ ơn bà Lâm L P
đối với bị đơn Công ty TNHH KH về việc “Đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động” và buộc Công ty bồi thường gồm: 45 ngày không thông báo
trước là 9.000.000 đồng; tiền lương trong những ngày không đ ược làm
việc là 88.400.000 đồng; bồi thường 02 tháng lương do đơn phương chấm
dứt hợp đồng trái pháp luật là 10.400.000 đồng; 06 tháng ti ền thai s ản là
31.200.000 đồng; chi phí sinh con là 15.167.121 đồng và buộc Công ty phải
nhận bà P trở lại làm việc.
- Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty TNHH KH về việc đồng ý trả cho bà
Lâm L P 2.600.000 đồng tiền lương tháng 02 năm 2016 và 2.170.000 đ ồng
tiền lương những ngày Công ty TNHH KH cho bà P ngh ỉ (từ 02/3/2016
đến 10/3/2016). Tổng cộng Công ty TNHH KH phải trả cho bà Lâm L P s ố
tiền 4.770.000 đồng (Bốn triệu bảy trăm bảy mươi nghìn đồng).



- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH KH về vi ệc xác
định nguyên đơn bà Lâm L P “đơn phương chấm dứt hợp đ ồng lao đ ộng”.
Buộc bà Lâm L P phải bồi thường cho Công ty TNHH KH s ố ti ền
10.400.000 đồng. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi
hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì lãi su ất phát
sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thu ận c ủa các bên nh ưng
không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Đi ều 468
của Bộ luật Dân sự; nếu không có thỏa thu ận được thì th ực hi ện theo quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
- Buộc bà Lâm L P và Công ty TNHH KH làm thủ tục theo quy đ ịnh pháp
luật để cơ quan Bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm thai sản và chi phí sinh
con cho bà P.Trường hợp bản án được thi hành theo quy đ ịnh t ại Đi ều 2
của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân s ự, n g ười
phải thi hành án dân sự có quy ền th ỏa thu ận thi hành án, quy ền yêu c ầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc b ị cưỡng ch ế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân s ự; th ời hi ệu thi hành
án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của Bản án lao động sơ th ẩm số: 23/2016/LĐ-ST
ngày 30/12/2016 của Tòa án nhân dân thị xã TA, tỉnh Bình Dương không b ị
sửa có hiệu lực thi hành.
3. Án phí lao động phúc thẩm: Bà Lâm L P được mi ễn n ộp theo quy đ ịnh
của pháp luật. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp lu ật kể từ ngày tuyên
án./.
 Bình luận vụ án
- Qua 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm thì yêu cầu khởi kiện và yêu cầu
kháng cáo của bà Lâm L P không được chấp nhận toàn b ộ do bà
không đến công ty làm việc chứ không phải công ty không cho làm
việc như bà Lâm L P đã nói

- Theo như công ty TNHH KH thì bà Lâm L P thường xuyên không hoàn
thành nhiệm vụ như vậy căn cứ theo điểm a khoản 1 đi ều 38 thì
công ty TNHH KH có quyền đơn phương chấm dứt hợp đ ồng với bà
Lâm L P
- Bà Lâm L P không có đủ bằng chứng đẻ chứng minh lời khai c ủa
mình là đúng, và có cả bằng chứng bất lợi cho bản thân
 VỤ ÁN 3


TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 01/2017/LĐ-GĐT NGÀY
09/08/2017 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP
ĐỒNG LAO ĐỘNG
Ngày 09-8-2017 tại TAND tỉnh Bình Thuận giữa nguyên đơn là ông
Trần Công T với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn L (đ ại di ện
theo pháp luật là ông H).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ông Trần Công T làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn L - Siêu th ị
L - Chi nhánh B từ ngày 09-9-2013 theo Thư mời làm vi ệc ngày 20-82013 của Công ty trách nhiệm hữu hạn L. Theo nội dung thư m ời làm
việc, ông T làm việc với vị trí Trưởng bộ phận phi thực phẩm, loại
hợp đồng lao động: Xác định thời hạn (12 tháng hoặc h ơn), th ời gian
thử việc: 02 tháng, tổng lương gộp trong thời gian th ử vi ệc:
15.300.000 VNĐ, mức lương chính hàng tháng: 12.600.000 VNĐ, ph ụ
cấp hàng tháng là 5.400.000 VNĐ.
Ông T bắt đầu làm việc từ ngày 09-9-2013. Hết thời gian thử việc 02
tháng (từ ngày 09-9-2013 đến ngày 09-11-2013), ông T vẫn ti ếp tục
làm việc. Ngày 19-12-2013, ông T nghỉ việc. Ngày 28-12-2013, Phòng
Nhân sự Công ty trách nhiệm hữu hạn L có giấy mời ông T đ ến Công
ty họp và lập “Biên bản thỏa thuận V/v: Kết thúc hợp đồng lao đ ộng
trước thời hạn”. Ông T ghi ý kiến vào biên bản nội dung: Không đồng ý

việc giải quyết chấm dứt hợp đồng lao động. Ngày 29-12-2013, Công
ty trách nhiệm hữu hạn L ra Quy ết định s ố 15/QĐKL- 2013 v ới n ội
dung đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối v ới ông Tr ần
Công T, với lý do: Thường xuyên không hoàn thành công vi ệc theo h ợp
đồng; thời hạn chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 28-12-2013.
Ngày 06-01-2014, ông T nhận được Quyết định chấm dứt hợp đ ồng
lao động nói trên.
Ngày 24-02-2014, ông Trần Công T có đơn khởi kiện về việc bị đ ơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, với các yêu cầu:
1. Hủy Quyết định số 15/QĐKL-2013 ngày 29-12-2013 của Công ty
trách nhiệm hữu hạn L về việc đơn phương chấm dứt hợp đ ồng
lao động đối với ông.


×