Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tiểu luận kinh tế vĩ mô 2 ẢNH HƯỞNG nợ CÔNG đến TĂNG TRƯỞNG KINH tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551 KB, 14 trang )

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NỢ CÔNG
1.1
Khái niệm
Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp.
● Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): Nợ công (hay còn gọi là nợ chính phủ) là những phần
nghĩa vụ nợ trực tiếp hoặc được thừa nhận của chính phủ một quốc gia với phần còn lại
của nền kinh tế và nước ngoài.
● Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WB): Nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của 4
nhóm chủ thể bao gồm:
(1) Nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung ương
(2) Nợ của các cấp chính quyền địa phương
(3) Nợ của Ngân hàng trung ương
(4) Nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn
Như vậy, có thể khái quát, nợ công là toàn bộ các khoản vay nợ của các cấp chính
quyền từ trung ương đến địa phương tại một thời điểm nào đó.
● Theo quy định của Luật Quản lý nợ công tại Việt Nam: Nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ
được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương.
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài được ký
kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ
Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính
phủ không bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực
hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín
dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
1.2

Cách tính nợ công
Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ dư nợ của Chính phủ qua các năm (%)



1


(Nguồn: CIA,Factbook)
Nợ công theo định nghĩa của WB và IMF là rộng hơn so với nợ nhà nước. Các tổ chức quốc tế
hiện nay khuyến khích các nước tính toán và theo dõi nợ công, chứ không chỉ nợ nhà nước. Vì
nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, có khu vực quốc doanh
lớn. Số liệu nợ mà Bộ Tài chính Việt Nam phổ biến hiện nay là nợ nhà nước chứ không phải nợ
công. Nợ công chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều.
Bảng 1.1: Nợ nhà nước năm 2009 (%)
Thứ
hạng

Quốc gia

%GDP

Thứ
hạng

Quốc gia

%GDP

Thứ
hạng

Quốc gia


%GDP

Thứ
hạng

Quốc gia

%GDP

1

Zimbabw
304
e

13

Sri Lanka

83

26

Cote d'Ivoire

64

42

Mỹ


53

2

Nhật Bản 192

14

Ai Cập

80

27

Ireland

64

44

Việt Nam

52

4

Lebanon

156


15

Pháp

80

28

Hà Lan

62

45

Tây Ban Nha

50

5

Jamaica

132

17

Israel

78


30

Na Uy

60

46

Panama

50

Singapore 118

18

Đức

77

31

Ấn Độ

60

47

Costa Rica


49

6

7

Italy

115

19

Bồ Đào Nha

75

32

Philippines

59

48

Argentina

49

8


Hy Lạp

113

20

Canada

72

33

Uruguay

59

49

Thổ Nhĩ Kỳ

49

9

Sudan

105

21


Jordan

70

37

Bình quân thế
giới

56

50

Malaysia

48

10

Bỉ

99

22

Anh

69


38

El Salvador

55

51

Ba Lan

48

11

Iceland

95

23

Ghana

68

40

Kenya

54


56

Colombia

46

12 Nicaragua 87

25

Áo

67

41

Morocco

54

57

Thái Lan

46

(Nguồn: CIA, Factbook, dựa vào số liệu các tổ chức quốc tế)
- Bảng nợ nhà nước cho thấy nợ của các nước năm 2009 (bảng 1). Bảng này cho thấy nợ của
Việt Nam cao hơn tỷ lệ đưa ra, sự khác biệt có thể là phương pháp tính, nhưng con số Việt Nam
đưa ra thì khá thấp (xem biểu đồ 1). Năm 2007, nợ của Nhà nước là 33,8% GDP, nhưng nợ nước

ngoài (chủ yếu là nợ nhà nước) theo IMF đã là 43,3% GDP và nếu cộng thêm hơn 7% nợ của
2


Chính phủ do phát hành trái phiếu thì tổng số nợ đã lên 50% vào năm 2007. Như vậy con số của
CIA tính ở mức 52% cho năm 2009 có thể vẫn là thấp so với thực tế.
- Hầu hết các nước phát triển trong đó có Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước trong khối Liên
hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc. Ở EU, việc tính này đã
thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên
100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển,
khi không tính nợ hưu trí thì có lẽ là 50%. Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ công có thể bằng hoặc
gần bằng với tỷ lệ nợ nhà nước vì khu vực quốc doanh không đáng kể, và do đó họ vẫn chỉ tập
trung vào nợ nhà nước.
1.3
-

Các chỉ tiêu đánh giá nợ công

Luật QLNC đã quy định rõ các tiêu chí để tính toán nợ công. Theo thông lệ quốc tế, để xác định
ngưỡng an toàn của nợ công người ta thường sử dụng 2 tiêu chí là: Tỷ lệ % nợ công so với GDP
và số nợ công tính theo đầu người.
Ngoài chỉ tiêu tỷ lệ % so với GDP, Luật QLNC của Việt Nam còn quy định 3 chỉ tiêu khác đánh
giá nợ công là:

● Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP
● Trả nợ chính phủ so với tổng thu ngân sách
● Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
-

Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ số đánh giá

phổ biến nhất đánh giá mức an toàn của nợ công. Để bảo đảm an toàn của nợ công, các nước
thường sử dụng các tiêu chí sau làm giới hạn vay và trả nợ:
• Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim
ngạch xuất khẩu.
• Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của
chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách.

-

Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP.

-

Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế; không phải tỷ lệ nợ
công trên GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc
vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Chẳng hạn, Hoa Kỳ có tỉ lệ nợ bằng 96% GDP, Nhật Bản có số nợ tương đương với 200 %
GDP nhưng vẫn được xem là ở ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ nợ trên GDP
thấp hơn rất nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ như: Venezuela (1981) là 15%
GDP, Argentina (2001) là 45% GDP; Ukraina (2007) chỉ với 13 % GDP.
Chính vì vậy, để xác định, đánh giá đúng đắn mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ quan
tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện trong mối liên hệ với
hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, nhất là: tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm
3


hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư toàn xã hội... Bên cạnh đó, những tiêu chí như:
cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ
lưỡng khi đánh giá tính bền vững nợ công.


CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2018
2.1.1

2.1 Tình hình nợ công ở Việt Nam:
Giai đoạn 2008-2009
Bảng 2.1: Tổng nợ nước ngoài của chính phủ và được chính phủ bảo lãnh 2008-2009
(Triệu USD/tỷ VNĐ, Áp dụng tỷ giá vào thời điểm cuối kì)

Tổng nợ

2008

2009

USD

21,816.51

27,928.67

VNĐ

310,634.41

479,562.99

Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 4 – Bộ Tài Chính

Qua các bảng trên ta thấy nợ của Việt Nam qua các năm đều tăng lên đáng kể.
2.1.2

Giai đoạn 2010-2014
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu về nợ công nước ngoài của quốc gia
Chỉ tiêu

2010

2011

2012

Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP) (%)

56.3

54.9

55.7

Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP (%)

42.2

41.5

41.1

Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài hạn của quốc

gia so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ (%)

3.4

3.5

3.5

Dư nợ Chính phủ so với GDP (%)

44.6

43.2

43.3

Dư nợ Chính phủ so với thu ngân sách (%)

157.9

162

172

Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách
(%)

17.6


15.6

14.6

Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách (%)

5.5

6.7

9.8

4


Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo lãnh vay
nước ngoài của Chính phủ (triệu USD)

2,000

3,500

3,500

Nguồn: Bản tin nợ nước ngoài số 5 – Bộ Tài Chính
Tổng số dư nợ công nước ta trong 3 năm 2010, 2011 và 2012 tương đương 56,3% GDP, 54,9%
GDP và 55,7 %GDP. Nợ nước ngoài của quốc gia tương đương với 42,2% GDP năm 2010, 41,5%
GDP năm 2011 và 41,1% GDP năm 2012. Dư nợ chính phủ so với GDP là 44,6% GDP năm 2010,
43,2% GDP năm 2011 và 43,3% GDP năm 2012. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân
sách năm 2010 là 17,6%, năm 2011 là 15,6% và năm 2012 là 14,6%..

2.1.2

Giai đoạn hiện nay

Số liệu mới nhất của Bộ Tài chính cho thấy nợ công nước ta giảm xuống mức 61,3% GDP
năm 2017 từ mức 63,6% GDP của năm 2016, thấp hơn con số 62,6% GDP ước tính trước đó. Tuy
nhiên, nợ công vẫn ở mức rất gần với ngưỡng nợ công 65% GDP do Quốc hội đề ra.
Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), tính đến hết năm 2015, tổng nợ công
của Việt Nam đã tăng lên mức 61,0% GDP. Trong đó, nợ Chính phủ Trung ương chiếm 49,2%
GDP, nợ được chính phủ bảo lãnh chiếm 10,9% GDP và nợ của Chính quyền địa phương chiếm
0,9% GDP. Ủy ban Tài chính ngân sách cho biết tỷ lệ nợ công/GDP có xu hướng giảm dần trong
các năm gần đây. Cụ thể năm 2017, nợ công là 62,6% GDP; năm 2018 là 61,4% GDP và dự kiến
năm 2019 là 61,3% GDP.
Tuy nhiên, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia lại xu hướng tăng lên, đặc biệt nợ
nước ngoài của quốc gia đã dần tới trần cho phép (50% GDP).
Cụ thể nợ Chính phủ năm 2017 là 51,8%GDP; năm 2018 là 52,1% GDP; năm 2019 dự kiến là
52,2% GDP. Trong khi đó, nợ nước ngoài của quốc gia năm 2017 là 45,2% GDP; năm 2018 là
49,7%GDP và dự kiến năm 2019 là 49,9 %GDP. Theo báo cáo, dư nợ công ước thực hiện năm
2017 là 3,13 triệu tỷ đồng; ước năm 2018 là 3,4 triệu tỷ đồng. Nợ Chính phủ ước thực hiện năm
2017 là 2,59 triệu tỷ đồng, ước năm 2018 là 2,89 triệu tỷ đồng. Vay để trả nợ gốc năm 2017
là 150.700 tỷ đồng; năm 2018 là 157.130 tỷ đồng; năm 2019 là 201.210 tỷ đồng.
Dư nợ công của Việt Nam năm 2018 ước tính đạt 3,4 triệu tỷ đồng, tăng so với năm 2017 (3,1
triệu tỷ đồng), và như vậy hiện nay bình quân mỗi người Việt gánh hơn 34 triệu đồng.
2.1

Tình hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Nền kinh tế Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
vào tháng 12/2006, ngay sau đó Việt Nam bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
năm 2008 – 2009 khiến nền kinh tế có nhiều lúc thăng trầm. Đến năm 2017 - 2018, nhiều chuyên

gia kinh tế dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể rơi vào chu kỳ 10 năm. Tuy nhiên, kết
thúc năm 2018, GDP của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng, vượt kế hoạch đề ra đầu
năm là 6,7% và đạt mức 7,08%.
Giai đoạn năm 2008 – 2018, nền kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng khá cao so với nhiều
nước trên thế giới, đạt mức bình quân 6,1%, nhưng tăng thấp hơn so với giai đoạn 1986-2006
trước đó, GDP bình quân tăng 6,8%.
5


Mức "bơm" tín dụng giảm mạnh từ năm 2011 còn 10,9% và 8,85% năm 2012 khiến lạm phát
những năm sau đó lao dốc và về mức rất thấp 0,63% năm 2015 khiến nhiều chuyên gia kinh tế lo
ngại giảm phát xuất hiện. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra khi lạm phát được kiểm soát dưới
4% cho đến năm 2018 nhờ tiền được "bơm" ở mức 14-18%. Sau giai đoạn mấp mô giữa tăng
trưởng tín dụng, tăng lạm phát và tăng GDP, các yếu tố này đã tăng trưởng hài hoà trở lại từ năm
2016 – 2018 với mức GDP luôn tăng trên 6% và lạm phát dưới 4%.
Ngoài ra, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên GDP cũng khá cao, mức trên 40% cho những năm
2008 – 2010. Từ năm 2011 đến 2018, tỷ lệ này đã giảm về mức 30%, thấp nhất là năm 2013 chỉ ở
mức 30,4% GDP (tương ứng 1,091 triệu tỷ đồng) và năm 2014 là 31% GDP (tương ứng 1,22 triệu
tỷ đồng). Từ năm 2016 – 2018, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội trong khoảng 33% GDP, tương ứng
với mức 1,5 – 1,8 triệu tỷ đồng. Quy mô GDP của Việt Nam năm 2018 khoảng 240 tỷ USD, gấp
2,4 lần quy mô GDP năm 2008 là 99,13 tỷ USD.

CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VIỆT NAM
3.1

Phân tích tác động nợ công đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
3.1.1
Tác động tích cực

3.1.1.1
Bù đắp thâm hụt ngân sách
- Thông thường, nợ công là hệ quả trực tiếp của thâm hụt ngân sách và quy mô nợ công đúng
bằng quy mô thâm hụt ngân sách tích tụ qua các năm. Về nguyên tắc, để bù đắp thâm hụt ngân
sách do các hoạt động của chính phủ như chi trả lương công nhân viên chức, điều tiết thị trường,
kìm hãm lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, xây dựng công trình công, đầu tư công,… mà các
khoản thu của chính phủ như thuế, phí,… không thể chi trả hết được, khi đó các nước phải vay
trong (thông qua phát hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc, tăng tỉ lệ dữ trữ bắt buộc,…) và ngoài
nước (các nguồn vốn quốc tế mà Việt Nam có thể tiếp cận với ưu đãi về lãi suất, chứ không được
phát hành tiền để tránh nguy cơ xảy ra lạm phát cao). Vay nước ngoài gây dựng được một lượng
vốn theo yêu cầu, nhằm đạt được các mục tiêu về chi phí và rủi ro, đáp ứng được các mục tiêu
quản lý nợ khác của Chính phủ đã đề ra.
Biểu đồ 3.1: Cơ cấu nợ công của Việt Nam từ 2009 đến 2012 (% GDP)
Nguồn: />Trong ngắn hạn, thâm hụt ngân sách có thể sử dụng như một công cụ của chính sách -tài khóa
giúp tăng trưởng kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2008 đã giáng một đòn
trầm trọng vào nền kinh tế Việt Nam khiến cho lạm phát nhảy vọt, GDP tụt lùi, vốt đầu tư toàn xã
hội bốc hơi kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng tư,… thời gian 5 năm sau đó chính phủ
Việt Nam chủ động tăng mạnh chi tiêu chính phủ kích thích kinh tế phát triển nhằm tạo ra việc
làm ổn định cho người lao động góp phần tăng doanh thu thuế, giảm trợ cấp thất nghiệp; thực thi
một loạt biện pháp kích cầu, các gói hỗ trợ kích thích đầu tư phát tiển khổng lồ khiến cho ngân
sách chính phủ thâm hụt trầm trọng và bắt buộc chính phủ phải vay ODA từ Nhật Bản, WB và vay
ưu đãi từ IMF và rất nhiều nguồn cung tài chính khác trên thế giới. Hành động này mặc dù khiến
cho tỷ lên nơ công theo %GDP tăng đáng kể trong nhiều năm về sau nhưng thứ nhất nó đã giải
quyết cho chính phủ bài toán trước mắt là bù đắp và kìm hãm được tỷ lệ thâm hụt ngân sách ở
mức khả quan với nền kinh tế nước ta, những năm liên tiếp sau đó tốc độ tăng tưởng GDP dần hồi
6


phục tiệm cận với mức lý tưởng, lạm phát được kiềm chế lại ở mức phù hợp, vốn đầu tư xã hội
dần khôi phục, hệ thống ngân hàng trở lại vận hành đúng quỹ đạo.

3.1.1.2

Huy động được các nguồn lực phát triển đất nước

Năm 1990-1996 mức nợ nước ngoài của Việt Nam luôn ở mức tương đối cao trên 100% GDP.
Lượng vốn này được dùng để xây dựng cơ sở vật chất, ổn định cuộc sống cho người dân và để mở
rộng nền kinh tế sau một giai đoạn dài đóng cửa, đặc biệt năm 1990, nợ nước ngoài lên tới
450%GDP. Tuy nhiên bằng việc sử dụng hiệu quả dòng vốn vay mượn được vào phát triển nền
kinh tế mà đã tạo nên sự tăng trưởng nền kinh tế đáng ngưỡng mộ trong giai đoạn 1992-1997, đặc
biệt 9,5% trong năm 1997. Trong giai đoạn hiện nay tỷ lệ nợ công và thâm hụt ngân sách của Việt
Nam luôn ở mức khác cao trong nhóm những nước đang phát triển tuy nhiên đây không phải dấu
hiệu quá tiêu cực, tại vì 80%-90% thâm hụt của Việt Nam là để dành cho nhập khẩu máy móc đầu
vào gia tăng lượng tư bản cho nền kinh tế từ đó kích thích tăng trưởng nền kinh tế. Quan đó có thể
thấy nợ công giúp huy động được các nguồn lực cho sự phát triển đất nước. Ngày nay nhờ vào
việc tham gia rất nhiều tổ chức hợp tác quốc tế, các hiệp định thương mại toàn cầu, quan điểm
ngoại giao cởi mở, linh hoạt, sẵn sàng hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế giới trên nguyên tắc
đôi bên có lợi đã giúp Việt Nam huy động được khối lượng nguồn vốn khổng lồ từ các tổ chức
quốc tế như IMF, WB,.. hay từ các đối tác quốc tế như Nhật Bản, Trung Quốc, Nga,… giúp nhà
nước mạnh tay hơn để đầu tư xây dựng thêm các công trình công cộng, nâng cao cơ sở hạ tầng của
đất nước để thu hút đầu tư từ nước ngoài, liên tục đưa ra chính sách kích thích đầu tư với các mức
hỗ trợ tài chính khổng lồ với lãi suất thấp từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển của các doanh nghiệp
trong nước từ đó tăng thêm được nguồn thu thuế trong dài hạn, tạo thêm việc làm cho xã hội để
giảm trợ cấp thất nghiệp và nâng cao được mức sống cho nhân dân. Ngoài ra các chính sách an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng được chú trọng để nâng cao mức sống cho nhân dân từ đó
có thể thu hút lại lượng chất xám của Việt Nam đã chảy ra ngoài suốt nhiều năm qua.
Biểu đồ 3.2: Chi tiêu chính phủ khi có dòng vốn ODA chảy vào từ 2007 – 2012
Nguồn: />Ngoài ra chính phủ còn gián tiếp huy động vốn giúp doanh nghiệp thông qua cho vay trực tiếp từ
những nguồn tiền quốc tế chảy vào trong nước nhưng chưa dùng tới hoặc đứng ra bảo lãnh để giúp
các doanh nghiệp vay vốn đầu tư cả trong và ngoài nước khi mà doanh nghiệp tìm kiếm được các
cơ hội kinh doanh, phát triển có triển vọng cho bản thân doanh nghiệp, nhà nước, xã hội nhưng lại

không đủ uy tín để huy động một lượng nguồn lực lớn với mức lãi xuất ưu đãi hơn. Từ đó tạo
động cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng sản xuất không chỉ trong thị trường Việt Nam mà
còn trên thị trường quốc tế. Hoặc việc chính quyền địa phương có thể tự đứng ra vay vốn đầu từ
các tổ chức tín dụng để đầu tư, xây dựng và phát triển cho địa phương mình, việc này góp phần
lớn trong việc thúc đẩy nhanh chóng tốc độ phát triển của các vùng miền, thu hẹt khoảng cách
phát triển giữa các vùng địa lý. Bởi vì chính quyền từng địa phương hiểu rõ đặc điểm, thế mạnh,
hạn chế, tiềm lực, tình hình an sinh xã hội cũng như nắm bắt thông tin kịp thời thông tin và nhạy
bén trước những thay đổi của địa phương mình hơn là các cơ quan nhà nước cấp cao do tính trễ
tương đối trong hệ thống quản lý nhà nước. Do đó việc chủ động của chính quyền địa phương
trong việc huy động các nguồn lực cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cũng như phát triển của
địa phương là vô cùng quan trọng.
3.1.2
3.1.2.1

Tác động tiêu cực
Gây lấn át đầu tư tư nhân
7


Theo Modigliani (1961) thì nợ quốc gia tác động trực tiếp làm tăng lãi suất trong dài hạn, ảnh
hưởng tới động cơ đầu tư của khu vực tư nhân cũng như động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng.
Cụ thể khi nợ công tăng cao, chính phủ sẽ tăng lãi suất trái phiếu để huy động thêm nhiều vốn cho
việc trả nợ. Do đó thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái
phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành
nợ chính phủ dẫn đến giảm tiêu dùng, trong khi đó việc lượng vốn gia tăng cho chính phủ sẽ khiến
cho lượng vốn để đầu tư bị hạn chế và cầu về vốn vay tăng cao. Do sự khan hiếm về cung vốn vay
và nhu cầu về cung vốn vay tăng cao gây áp lực làm lãi suất tăng lên. Lãi suất là biến tác động
trực tiếp đến hàm đầu tư, lãi suất tăng khiến đầu tư tư nhân giảm xuống. Kết quả khiến cho sản
lượng nền kinh tế bị giảm xuống, tăng trường kinh tế bị chững lại.


Khi chính sách tiền tệ không đổi, nhà nước tiến hành tăng chi tiêu cho hoạt động đầu tư công
sẽ khiến cho đường IS dịch chuyển song song qua phải gây nên tăng lãi suất trong ngắn hạn.
Trong dài hạn, lãi suất sẽ quay trở về mức ban đầu do sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vốn là
một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là chi phí sử dụng vốn thì lại suất
ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi
suất ảnh hưởng lớn đến các khoản vay mượn đó làm cho các nhà đầu tư sẽ cắt giảm
tiền qui

đầu
tư.
Đầu tư công dẫn đến tăng nợ công, việc vay nợ trong nước sẽ làm giảm nguồn vốn mà đáng lẽ
được sử dụng cho đầu tư tư nhân, gây lấn át đầu tư tư nhân.
3.1.2.2

Ảnh hưởng ngược từ các chính sách khi nợ công quá lớn

Ở các nước đang phát triển, trong điều kiện khu vực kinh tế tư nhân còn nhỏ, không đủ năng lực
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thì kinh tế nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Để đạt được
tốc độ phát triển nhanh, chính phủ các nước đang phát triển thường sử dụng chính sách tài khoá
mở rộng, tăng chi tiêu chính phủ, giảm thuế sẽ kích thích tổng cầu tăng, đẩy mạnh sản xuất, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, thực hiện chính sách tài khoá mở rộng đồng nghĩa với việc gia
tăng thâm hụt ngân sách, chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt. Việc sử dụng chính sách tài
khoá mở rộng trong thời gian dài sẽ làm gánh nặng nợ lớn dần lên. Trong trường hợp tốc độ tăng
thu ngân sách không theo kịp với tốc độ tăng của các nghĩa vụ trả nợ, chính phủ buộc phải sử
dụng biện pháp vay mới để trả nợ cũ. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới nguy cơ mất khả năng trả
nợ của chính phủ, nếu tổng số nghĩa vụ nợ phải trả vượt quá khả năng thu của ngân sách.
8


Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để

giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức
tín dụng quốc tế. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi
khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ
các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm
đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy
nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”. Điều này khiến cho chính sách tài khóa trước đó bị mất tác
dụng.
Bị hạ bậc tín nhiệm nợ của quốc gia
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức
chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư
bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Khi
đó, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt
phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận
chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Trong những tháng
cuối năm 2010, 2011. Mức độ tín nhiệm của Việt Nam liên tục bị hạ bởi 3 cơ quan xếp hạng tín
dụng lớn nhất là S&P, Fitch và Moody’s.

3.1.2.3

Bảng 3.1: Hệ số tín nhiệm quốc gia với Việt Nam

Ngày 29/07/2010, Fitch Rating hạ mức tín nhiệm nợ Việt Nam do mối quan ngại về các khoản
nợ nước ngoài và sự yếu kém của hệ thống ngân hàng. Tiếp theo đó, ngày 28/9/2010, tổ chức xếp
hạng tín nhiệm Moody's vừa thông báo hạ bậc tín nhiệm chung của Việt Nam và tám ngân hàng
thương mại trong nước.
Trái phiếu bằng đồng ngoại tệ và cả nội tệ của Việt Nam bị hạ bậc từ B1 xuống B2. Điều này
đồng nghĩa với việc nước này sẽ phải đối mặt với chi phí vay mượn cao hơn nếu muốn bán trái
phiếu mới. Khối nợ xấu khổng lồ hiện tại đang hạn chế khả năng vay mượn của ngân hàng, làm
ảnh hưởng đến tăng trưởng trung hạn của nền kinh tế và tăng quan ngại về một gói cứu trợ tốn
kém cho ngành ngân hàng từ phía chính phủ.

9


Moody's nhận định rằng với chi phí tái hóa vốn cho ngành ngân hàng lên cao, chính phủ Việt
Nam sẽ có thể đối mặt với những hạn chế trọng việc đưa ra một chính sách tiền tệ hợp lý để đáp
ứng phù hợp với sự tăng trưởng chậm trên toàn cầu.
3.1.2.4
-

Tạo gánh nặng cho toàn bộ nền kinh tế

Nợ công ở mức cao sẽ kéo theo mức bội chi ngân sách lớn và dần dần sẽ trở thành gánh nặng cho
nền kinh tế.
Biểu đồ 3.3 : Nợ công thế giới năm 2010

Theo đồng hồ nợ công toàn cầu (The Global Debt Clock) trên trang tin Nhà kinh tế (The
Economist)
Bội chi ngân sách là nguyên nhân chính dẫn tới nợ công tăng cao. Chính phủ hiện đang nợ rất
nhiều lên đến 431 tỷ USD, bằng 210% GDP (GDP của Việt Nam là 205.2 tỷ USD trong năm
2016). Ngoài ra, nếu gộp thêm cả nợ xấu của khu vực kinh tế tư nhân thì tổng số nợ trong nền
kinh tế có thể xấp xỉ 250% GDP, đứng vào hàng cao nhất thế giới. Nợ cao sẽ gây áp lực phải trả
nợ rất lớn và đến một lúc nào đó khi không còn khả năng vay mượn để chi và trả. Nợ nền kinh tế
sẽ rơi vào khủng hoảng.

Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ cơ cấu chi ngân sách nhà nước 2014

10


Nguồn: />Hiện nay, khả năng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi nước ngoài (như ODA) của Việt Nam chắc chắn

sẽ bị giới hạn trong thời gian tới, do nước ta đã ở vị thế là một quốc gia có thu nhập trung bình,
dẫn tới việc chúng ta phải phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường quốc tế trong việc huy động vốn.
Trong khi trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây, Chính phủ
đang có kế hoạch triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn như nhà máy điện nguyên tử, đường sắt cao
tốc,… nên tỷ lệ nợ nước ngoài sẽ tăng vọt.
Nhìn lại quá trình này, đã có lúc Nhà nước phải đi vay với tỷ giá chỉ 11 nghìn Việt Nam đồng
quy đổi bằng 1 USD, thì ở thời điểm hiện tại tỷ giá quy đổi đã lên đến mức trên dưới 20 nghìn
Việt Nam đồng quy đổi bằng 1 USD. Như vậy là khoản chênh lệch tỷ giá này toàn bộ nền kinh tế
của chúng ta phải hứng chịu. Với mức sụp giá của đồng nội tệ như vậy sẽ khiến cho việc trả lãi
bằng đồng ngoại tệ tăng cao. Điều này khiến cho việc trả nợ cũng như việc vay thêm vốn đầu tư
bằng đồng ngoại tệ trở nên khó khăn hơn trước rất nhiều gây ra gành nặng cho nền kinh tế.

CHƯƠNG 4
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NỢ CÔNG NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
-

4.1 Tăng hiệu quả chi ngân sách
Việt Nam cần phải phối hợp nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm nâng cao
hiệu quả đầu tư, tăng năng suất từ đó giảm hệ số ICOR. Chúng ta cần huy động tối đa và sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. trong đó, đối với vốn đầu tư
công: tập trung đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, các
chương trình mục tiêu và dự án trọng điểm, có ý nghĩa lớn, lan tỏa đến phát triển kinh tế- xã hội
và liên vùng, liên địa phương. Đối với các nguồn vay để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội
(ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước,…): tập trung ưu tiên đầu tư phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức để từ đó tạo ra
11



-

thế mạnh cho Việt Nam trong việc thu hút hiệu quả dòng vốn FDI và giúp tăng trưởng nền kinh tế.
Về đầu tư khu vự tư nhân và dân cư, khuyên khích đầu tư tăng cường trang thiết bị có công nghệ
tiên tiến ứng dụng công nghệ cao, đầu tư phát triển những sản phẩm có giá trị cao , đầu tư vào các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp, công nghiệp phụ trợ,... và đặc biệt chú trọng đầu tư chuyển
giao tiến bộ khoa học công nghệ cho sản xuất nông nghiệp.
Điều hành chi ngân sách theo dự toán được giao, phấn đấu nâng tỷ trọng chi đầu tư phát triển lên
27%-27,5%, giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống 63%-63,5% tổng chi ngân sách nhà nước. Tiết
kiệm chi thường xuyên, không bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ chưa thực sự cần thiết, hạn chế
mua sắm các trang thiết bị đắt tiền VD: xe ô tô công; tiết kiệm tối đa chi phí tổ chức hội nghị, lễ
hội, hội thảo, các công tác nước ngoài…
4.2

Nâng cao quản lý nợ công thông qua hoàn thiện hệ thống pháp luật

Để đáp ứng yêu cầu quản lý nợ công một cách có hiệu quả công khai, minh bạch trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế và duy trì an ninh tài chính quốc gia, Việt Nam cần hoàn thiện khuôn khổ
pháo luật về quản lý nợ công.
-

-

-

-

Thứ nhất cần hoàn thiện các quy đinh về phạm vi nợ công. Để đảm bảo các khoản nợ công được
tính toán chính xác, đầy đủ và đảm bảo số liệu thống nhất về nợ công theo quan điểm của Việt
Nam và các tổ chức quôc tế pháp luật về quản lý nợ công cần phải điều chỉnh các loại nợ công và

các khoản nợ ngầm của đất nước được xem xét. Một là nợ của các đơn vị/ tài khoản ngoài ngân
sách và các qĩu an sinh xã hội, như Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam và Ngân hàng phát
triển Việt Nam nên được bao gồm trong phạm vi nợ công. Hai là về vấn đề liên quan đến các
khoản nợ tiềm tàng như nợ phát sinh từ việc tư nhân hóa nhà nước và giải quyết các vấn đề phá
sản của các tổ chức tín dụng, chi phí phục hồi môi trường và khắc phục hậu quả từ thiên tai cũng
phải được coi là khoản nợ công bởi những rủi ro tiềm tàng cao đối với an ninh quốc gia.
Thứ hai cần bổ sung các quy đinh về công cụ nợ và kiểm soát rủi ro. Để tăng cường năng lực giám
sát và quản lý nợ công, cần phải bổ sung hệ thông các chỉ tiêu giám sát về an toàn nợ, như hạn
mức vay nợ và trả nợ. Ngoài ra điều quan trọng cần phải xác định các giới hạn nợ hợp lý. Nếu các
giới hạn nợ quá thấp có thể cản trở Chính phủ thực hiện các hoạt động cần thiết trong thời kỳ
khủng hoảng nợ vì việc điều chỉnh hoặc chấp nhận các quy định mới rất mất nhiều thời gian.
Ngược lại, nếu các giới hạn quá cao sẽ không đảm bảo được tính hiệu quả cũng như khả năng trả
nợ của nhà nước. Đối với việc kiểm soát rủi ro nợ công,(i) pháp luật nên quy định rõ ràng các
nguyên tắc kiểm soát rủi ro và đặc biệt là thẩm quyền, trách nghiệm của các cơ quan chức năng có
liên quan cũng như (ii) các công cụ để xử lý rủi ro tài chính của nợ công.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định công khai thông tin về nợ công. Công khai minh bạch các khoản
nợ công đang dần được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng để tăng cường tính hiệu quả của các
hoạt động quản lý nợ công.
Thứ tư, bổ sung chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật. Điều này mang tính răn đe đối với các
cá nhân tổ chức có liên quan từ đó nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong hoạt động quản
lý và xử lý nợ công cũng như hạn chế được các rủi ro về mặt đạo đức có thể xảy ra.
4.3

Phát triển thị trường vốn để tăng cường công tác huy động vốn hiệu quả

Thị trường trái phiếu chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc huy động vốn cho ngân sách
nhà nước và cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Việc huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu
giúp giảm sự phụ thuộc của Việt Nam vào nguồn vốn huy động nước ngoài từ đó giúp nợ công
ngày càng được cải thiện theo hướng an toàn, bền vững hơn. Do đó việc phát triển thị trường này
được xem là giải pháp hiện quả trong việc cải thiện nợ công cũng như huy động nguồn vốn thúc

đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Sau đây là những giải pháp mà nhóm xin đề xuất:
12


Những đề xuất mang tính hoàn thiện cơ chế chính sách, khuôn khổ pháp lý: tiếp tục hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý để phù hợp với sự phát triển thị trường trái phiếu và thông lệ nước ngoài; cần
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành: cơ quan quản lý (Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước)
với cơ quan vận hành (Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội…) có liên quan trong việc triên khai và
chỉ đạo các chính sách, phương hướng mới; tập trung phát triển và hoàn thiện hệ thống chỉ báo thị
trường như: đường cong lợi suất, chỉ số trái phiếu để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh
minh bạch hóa thông tin thông qua việc xây dựng trang thông tin điện tử chuyên biệt cho thị
trường trái phiếu nhờ đó rút ngắn quy trình đấu thầu tăng tính thanh khoản trên thị trường.
Những đề xuất giúp đa dạng hóa sản phẩm và hỗ trợ nhà đầu tư khi họ tham gia thị trường: phát
triển các sản phẩm trái phiếu mới cũng như các công cụ phòng ngừa rủi ro để thu hút thêm nhiều
nhà đầu tư; tạo lập kênh đối thoại thường xuyên với nhà đầu tư như: các hội nghị, hội thảo nhằm
truyền tải thông tin, các chính sách mới tới các nhà đầu tư ngược lại nhờ đó nắm bắt được những
nhu cầu, giải quyết kịp thời các vướng mắc; phát hành TPCP trên thị trường vốn quốc tế; phát
triển hệ thống các nhà đầu tư dài hạn khác như các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm… để giảm dần
sự phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng thương mại; cải thiện hiệu quả sử dụng vốn TPCP để nâng
cao uy tín, xếp hạng tín nhiệm của Chính phủ qua đó tạo lập được niềm tin cho các nhà đầu tư.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO


/>



Tổng cục thống kê:



/>
14



×