Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 111 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ TIẾN KHOA

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN
CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ TIẾN KHOA

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN
CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TUẤN KHANH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung Bản luận văn nghiên cứu là của chính tác giả
thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS.Nguyễn Tuấn Khanh
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Tiến Khoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
TIẾP CÔNG DÂN .....................................................................................................9
1.1. Khái quát chung về tiếp công dân ........................................................................9
1.2. Các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động tiếp công dân .........................28
1.3. Các điều kiện bảo đảm trong tổ chức và hoạt động tiếp công dân ....................33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG
DÂN Ở CẤP PHƯỜNG TẠI QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.39
2.1. Khái quát chung về những đặc điểm của quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng .39
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động tiếp công dân của UBND
cấp phường tại quận Hải Châu ..................................................................................49
2.3. Đánh giá chung thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động tiếp công dân ở
cấp phường tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.................................................52
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC

VÀ HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN ..................................................................62
3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động tiếp công dân ............................................62
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động tiếp công dân...............64
3.3. Một số kiến nghị khác ........................................................................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

2

HĐND

Hội đồng nhân dân

3


KNTC

Khiếu nại tố cáo

4

TCD

Tiếp công dân

5

UBND

Ủy ban nhân dân

6

QSHNƠ

Quyền sở hữu nhà ở

7

QSDĐƠ

Quyền sử dụng đất ở



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Kết quả xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của
2.1

UBND các phường thuộc quận Hải Châu cuối năm 2015 đến
đầu năm 2019

46


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên sơ đồ

sơ đồ
1.1

Mô hình tiếp công dân


Trang
17


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức và hoạt động tiếp công dân của các cấp chính quyền hiện nay đang
là một trong những vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta. Hiểu được tầm quan trọng của hoạt động này, Nhà nước
đã và đang ngày một hoàn thiện hệ thống pháp luật và có cơ chế giám sát hoạt động
" tiếp công dân" để đạt kết quả tốt nhất. Qua hoạt động tiếp công dân, các đơn khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của mọi công dân trong xã hội đều được xem xét và
đưa ra các phương án hỗ trợ kịp thời, làm hạn chế những hệ quả và rủi ro phát sinh.
Trong bản Hiến pháp 2013 đã ghi nhận tại khoản 1 và 2 Điều 28: “Công dân
có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với
cơ quan nhà nước về các vấn đề của các cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước
tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh
bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Thông qua quy
định trên, có thể nhận thấy tiếp công dân là cách thức để mọi công dân tham gia vào
các hoạt động quản lý cũng như cho ý kiến về những vấn đề chung của đất nước,
chính quyền địa phương trong những phạm vi nhất định mà Nhà nước cho phép. Cơ
quan có thẩm quyền trong hệ thống bộ máy nhà nước có trách nhiệm giúp đỡ, tạo
điều kiện để mọi công dân thực hiện tốt các hoạt động trên thông qua việc thực hiện
tốt hoạt động tiếp công dân tại các cấp.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, công tác tiếp công dân trong các cơ
quan hành chính nhà nước nói chung và cơ quan hành chính ở địa phương nói riêng
những năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể. Công tác tiếp công dân được
thực hiện từ trung ương đến địa phương. Thực tiễn cho thấy, công tác tiếp công dân
dưới sự chỉ đạo của các cơ quan có thẩm quyền đã và đang hoạt động theo đúng

đường lối và chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Bên cạnh những kết quả
đạt được, hoạt động tiếp công dân mặc dù được thực hiện theo đúng nội dung pháp
luật và chủ trương của Đảng nhưng vẫn còn một số những bất cập, đây cũng là vấn

1


đề Nhà nước đang đặc biệt quan tâm trong thời gian vừa qua.
Từ thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng cho thấy, công tác Tiếp công dân của
thành phố bên cạnh những kết quả đạt được như các cơ quan nhà nước khác trong
cả nước, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập như sau:
Thứ nhất, quy định pháp luật về TCD còn nhiều bất cập.
Luật Tiếp công dân 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định
tương đối rõ ràng, cụ thể quyền, nghĩa vụ của người đến KNTC, kiến nghị, phản
ánh; tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức xây dựng và tổ chức thực hiện
quy chế, nội quy Tiếp công dân tại trụ sở Tiếp công dân. Tuy nhiên, việc xử lý đối
với những trường hợp vi phạm quyền, nghĩa vụ vẫn chưa cụ thể, rõ ràng nên có một
số công dân lợi dụng quyền KNTC để gây mất trật tự tại trụ sở Tiếp công dân, có
thái độ không đúng mực, không tôn trọng, thậm chí là lăng mạ, xúc phạm cán bộ
Tiếp công dân… nhưng hầu như chưa bị xử lý; dẫn đến tình trạng này vẫn thường
xuyên tiếp diễn. Tình trạng người đến KNTC, kiến nghị, phản ánh thực hiện quyền
chưa đi đôi với nghĩa vụ còn diễn ra ở một số địa phương thuộc địa bàn thành phố
Đà Nẵng. Nhiều trường hợp biết khiếu nại không có cơ sở nhưng vẫn tiếp tục khiếu
nại. Tố cáo sai chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng các cơ quan vẫn phải giải quyết, gây tốn
kém chi phí, công sức và thời gian.
Thứ hai, Luật Tiếp công dân và văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa quy
định cụ thể số lượng cán bộ, công chức làm công tác Tiếp công dân tại ban Tiếp
công dân cấp tỉnh, cấp huyện dẫn đến khó khăn trong bố trí cán bộ làm công tác
Tiếp công dân. Đồng thời, cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân hầu hết chưa
được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về tiếp dân, giải quyết KNTC và kỹ năng

nghiệp vụ. Việc Tiếp công dân có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều từ việc
bố trí cán bộ tiếp dân. Tiếp công dân khác với việc giải quyết thủ tục hành chính,
không phải là chuyện cá nhân, tổ chức nộp đủ hồ sơ hợp lệ là có thể thụ lý, viết giấy
hẹn và chờ trả kết quả mà là sự lắng nghe, chia sẻ về nội dung KNTC, kiến nghị,
phản ánh của công dân, phải nhẹ nhàng, lễ phép chứ không phải vô cảm hay quát
nạt.

2


Thứ ba, công tác tuyên truyền Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố
cáo và các văn bản liên quan chưa được thường xuyên, sâu rộng. Việc phối hợp
giữa các ngành, các cấp trong công tác giải quyết KNTC tuy có chuyển biến tích
cực nhưng có lúc chưa chặt chẽ.
Thứ tư, Quy định về trách nhiệm Tiếp công dân của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức. Theo Luật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp công dân ít nhất 01
buổi/tháng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tiếp công dân ít nhất 02
buổi/tháng, Chủ tịch UBND cấp xã tiếp công dân ít nhất 01 buổi/tuần; người đứng
đầu các cơ quan hành chính trực tiếp thực hiện việc tiếp công dân ít nhất 1 ngày
trong 1 tháng tại địa điểm tiếp công dân của cơ quan mình và Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các cấp, người đứng đầu các cơ quan hành chính phải thực hiện việc tiếp công
dân đột xuất trong các trường hợp theo quy định trong Luật tiếp công dân năm
2013. Nhưng trên thực tế, có thời điểm Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành
phố thuộc thành phố Đà Nẵng tiếp công dân ít hơn 02 buổi/tháng, Chủ tịch UBND
các xã, phường tiếp công dân ít hơn 01 buổi/tuần do có lịch đột xuất nên phải uỷ
quyền cho cấp phó tiếp công dân. Nhiều chủ tịch UBND các cấp, người đứng đầu
các cơ quan hành chính trong tỉnh chưa tuân thủ lịch tiếp công dân định kỳ đã ban
hành. Có trường hợp còn ủy quyền cho cấp phó, cá biệt ủy quyền cho chánh thanh
tra chủ trì tiếp công dân nhiều lần trong năm. Vì vậy, khi thực hiện quy định này
UBND các cấp tại tỉnh còn gặp nhiều khó khăn trên thực tế, đặc biệt là khi bị thanh

tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về tiếp công dân; đồng thời, Thông tư số
320/2016/TT-BTC ngày 14/12/2016 của Bộ Tài Chính có hiệu lực ngày kể từ ngày
01/02/2017 thay thế cho Thông tư liên tịch số 46/2012/TTLT-BTC-TTCP ngày
16/3/2012 của Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ; tuy nhiên tại Thông tư này vẫn
chưa quy định rõ chế độ phụ cấp đối với lãnh đạo và người làm nhiệm vụ tiếp công
dân cấp xã nên gây khó khăn, vướng mắc cho các địa phương khi thực hiện.
Những hạn chế này đã và đang là rào cản làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực
hiện pháp luật về tiếp công dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng và các
tỉnh trên cả nước nói chung, vì vậy, cần phải có những nghiên cứu sâu về lý luận và

3


thực tiễn để đưa ra các giải pháp khắc phục.
Từ yêu cầu thực tiễn trên tác giả quyết định chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt
động tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng” mang tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, rất cần
được nghiên cứu một cách cơ bản để việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân trong
các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam nói chung và tại chính quyền địa
phương trong thời gian tới có hiệu quả hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động tiếp công dân của
các cấp chính quyền, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được nhiều tác giả quan
tâm và tìm hiểu. Hiện nay, chủ đề này đã được bàn luận trong các sách chuyên
khảo, nêu và thảo luận ở nhiều buổi hội thảo, trong những bài báo, các chương trình
nghiên cứu về cải cách hành chính nhà nước như:
- Về sách chuyên khảo có:
Công trình của Ts. Bùi Mạnh Cường và Ts. Nguyễn Thị Tố Uyên (2013) "
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo" Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Công trình là sự tổng hợp, ghi chép những buổi
gặp gỡ, nói chuyện giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với người dân liên quan đến các vấn

đề mà người dân muốn khiếu nại. Cuốn sách có giá trị vô cùng to lớn dành cho các
chủ thể tham gia vào quá trình tiến hành hoạt động tiếp công dân.
Công trình của TS. Nguyễn Tuấn Khanh (2015) “Trách nhiệm của chính
quyền cơ sở trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng, lãng phí” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. Cuốn sách tập
trung vào những vấn đề lý luận, luận giải từ góc độ khoa học và thực tiễn quy định
pháp luật về tiếp công dân, giải quyết KN, TC và phòng, chống tham nhũng, lãng
phí. Sách cũng hệ thống hóa quy định pháp luật, cơ sở xác định trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị nói chung và của chính quyền cơ sở nói riêng trong lĩnh
vực TCD, giải quyết KN, TC và phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Về các đề tài khoa học của Thanh tra Chính phủ có:

4


+ Báo cáo tổng thuật (2007) “Ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới công
tác tiếp công dân” của Bùi Mạnh Cường, Phó giám đốc trung tâm Tin học, Thanh
tra Chính phủ. Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hành chính nhà nước nói chung và trong hoạt động tiếp công dân nói
riêng trên phạm vi cả nước. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để đổi
mới công tác tiếp công dân và nâng cao hiệu quả tiếp công dân.
+ Báo cáo tổng thuật, Báo cáo tóm tắt và Tập hợp các chuyên đề (2008)
“Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường Cán bộ Thanh tra về
nghiệp vụ tiếp công dân” của Nguyễn Huy Hoàng, Trưởng Khoa giáo viên, Trường
Cán bộ Thanh tra. Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ lý luận về
chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tiếp công dân. Đây là một giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân.
+ Báo cáo tổng thuật (2012) “Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ năng
giao tiếp trong tiếp dân” của Trần Thị Thanh Hà, Trường Cán bộ Thanh tra. Đề tài
nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị và

kỹ năng điều khiển, điều chỉnh trong giao tiếp tiếp dân của cán bộ tiếp dân. Từ đó,
đề xuất biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho cán bộ tiếp dân nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả công tác của họ. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các Trụ sở
TCD của một số tỉnh, thành phố trên cả nước.
- Về đề tài luận văn Thạc sỹ có công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Thủy
(2016) “Hoạt động tiếp công dân tại Ủy ban nhân dân xã, huyện Gia Lâm, Thành
phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà
Nội. Luận văn đã tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn của hoạt động tiếp công
dân tại UBND các xã, huyện Gia Lâm dưới góc độ khoa học quản lý. Đây là tài liệu
có nội dung nghiên cứu tương đối gần với nội dung của đề tài mà tác giả đã chọn;
do đó, đây là một trong những nguồn tài liệu quý giá để tác giả có phương hướng và
phương pháp nghiên cứu đề tài.
- Về tài liệu tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có “Đặc san tuyên
truyền pháp luật số 3/2014, chủ đề về tìm hiểu Luật tiếp công dân” của Hội đồng

5


phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật trung ương. Đây là tài liệu giới thiệu một cách
đầy đủ và hệ thống nhất về Luật Tiếp công dân 2013. Qua tài liệu này, tác giả hình
thành một cách cơ bản về cơ sở pháp lý của hoạt động tiếp công dân ở nước ta hiện nay.
- Về các đề tài nghiên cứu thảo luận có:
+ Tác giả Dân Hùng trong bài viết “Đôi điều về công tác tiếp dân”, Diễn đàn
Dự thảo online:
+ Tác giả Hồ Thị Thu An trong bài viết “Một số khó khăn, vướng mắc trong
thực hiện pháp luật về tiếp công dân”, Trang thông tin điện tử Viện khoa học
Thanh tra, Địa chỉ website:
Những công trình, bài viết trong thời gian qua đã có những đóng góp đáng
kể, vấn đề về " tiếp công dân" được các tác giả triển khai với những nội dung phong
phú và đa dạng. Mặc dù đều đề cập vấn đề tiếp công dân nhưng lại đang đề cập đến

các vấn đề chung mà chưa có công trình hay bài viết nào nghiên cứu cụ thể và trực
tiếp đến vấn đề tổ chức và hoạt động tiếp công dân của UBND cấp xã, đặc biệt từ
thực tiễn tại các xã trên địa bàn quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, vấn đề
“Tổ chức và hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận
Hải Châu, thành phố Đà Nẵng” là vấn đề cần được nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Luận văn nghiên cứu tổ chức và hoạt động tiếp công dân của chính quyền
cấp xã từ khi Luật tiếp công dân 2013 có hiệu lực: Có dẫn chứng số liệu các năm
2014, 2015, 2016 làm cơ sở để so sánh, đối chiếu.
+ Phạm vi không gian: Ủy ban nhân dân quận Hải Châu và Ủy ban nhân các
phường trên địa bàn quận Hải Châu.
+ Phạm vi thời gian: Từ 01/7/2014(Luật Tiếp công dân có hiệu lực) đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích: Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về hoạt động tiếp công dân của
chính quyền cấp xã, làm rõ thực trạng tiếp công dân từ đó đề xuất những quan điểm,
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại các huyện.
Nhiệm vụ: Với những mục đích đã đề ra, nhiệm vụ của luận văn cần thực

6


hiện đó là:
+ Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc trưng, hình thức, quy trình, các điều
kiện đảm bảo….thực hiện pháp luật về tiếp công dân.
+ Đánh giá khái quát thực trạng thực hiện pháp luật về Tiếp công dân tại cấp
phường trên địa bàn quận Hải Châu, Tp Đà Nẵng; làm rõ những khó khăn, vướng
mắc, bất cập trong việc triển khai hoạt động tiếp công dân.
+ Đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tiếp công dân tại các huyện trên địa bàn cả nước nói chung và tại quận
Hải Châu nói riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp luận:
Qua sự tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả dựa trên các phương pháp cơ bản, nền
tảng để hoàn thành đề tài của mình, các phương pháp cụ thể đó là: phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các quan điểm,
đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tiếp công dân.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê.
6. Những đóng góp của luận văn
Qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đạt được một số kết quả sau:
- Khái quát chung về tiếp công dân, khái quát chung về hoạt động thực hiện
pháp luật về tiếp công dân, đồng thời đưa ra các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp
luật về tiếp công dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại cấp
xã trên địa bàn quận Hải Châu; làm rõ những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong
việc triển khai hoạt động tiếp công dân.
- Đề xuất được những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về tiếp công dân tại các huyện trên địa bàn cả nước nói chung và tại
quận Hải Châu nói riêng trong thời gian tới.

7


7. Kết cấu của luận văn
Như các công trình khác, luận văn cũng có 3 chương ngoài phần mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo, cụ thể:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động tiếp công dân
- Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động tiếp công dân ở cấp xã tại quận
Hải châu, thành phố Đà Nẵng

- Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động
tiếp công dân

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
TIẾP CÔNG DÂN

1.1. Khái quát chung về tiếp công dân
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm Tiếp công dân
“Công dân” là thuật ngữ thường được sử dụng trong khoa học chính trị,
pháp lý. Trong từ điển Bách khoa Việt Nam: “công dân" là người dân của một nước
có chủ quyền. Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có
quốc tịch Việt Nam, có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và cá
nhân. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của
Nhà nước và của xã hội, có quyền bầu cử và ứng cử, quyền lao động, quyền học
tập, nghỉ ngơi, quyền tự do ngôn luận, tự do hôn nhân, tự do tín ngưỡng, có quyền
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, quyền khiếu
nại, tố cáo,…"[38].
Cũng theo từ điển Hành chính giải thích, “công dân” là người trong quan hệ
về mặt quyền lợi và nghĩa vụ đối với Nhà nước Quốc tịch là căn cứ pháp lý để xác
định công dân của một nước. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”[38].
Theo quy định tại, Khoản 1 Điều 17 Hiến pháp 2013 khẳng định: “công dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam"[5]. Luật
quốc tịch 2008 quy định: “người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có
quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt

nam theo quy định của luật này"[6].
Từ những cách lý giải như trên thì thuật ngữ “công dân” có nghĩa là chỉ
người dân cụ thể của một quốc gia có chủ quyền, lãnh thổ xác định có quyền và
nghĩa vụ trong quan hệ với quốc gia mà mình mang quốc tịch. Do gắn liền với mối
quan hệ chính trị, pháp lý, quyền công dân không phải là bất biến mà có thể thay

9


đổi hoặc tạm thời bị tước trong trường hợp công dân đó vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, bị Tòa án nhân danh Nhà nước ra văn bản tước quyền công dân.
Trong tiếng Việt, “tiếp” có nghĩa là nhận hoặc đón lấy điều gì đó. Theo đó,
“tiếp công dân” được hiểu là tiếp xúc, trao đổi qua lại giữa các cơ quan nhà nước
với công dân để tiếp nhận và phản hồi những thông tin mà công dân cung cấp. Theo
từ điển Hành chính, “tiếp công dân” là “gặp gỡ nhân dân để báo cáo công việc (đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân) hoặc theo yêu cầu của công dân để
nghe kiến nghị của công dân hoặc giải quyết các vấn đề dân yêu cầu. Ở Việt Nam,
các cơ quan hành chính, Hội đồng nhân dân phải có lịch tiếp dân và phòng tiếp
dân”.Theo Khoản 1, Điều 2 Luật Tiếp công dân 2013 quy định; “tiếp công dân là
việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân quy định tại Điều 4 của Luật này đón tiếp để
lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải
thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản
ảnh theo đúng quy định của pháp luật”[5]. Tuy nhiên, có thể hiểu rộng ra thì tiếp
công dân không chỉ giới hạn ở việc tiếp đón, lắng nghe để tiếp nhận khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân mà còn bao gồm cả việc tiếp nhận, giải quyết
các thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức, cá nhân và các công việc thuộc về
trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải thực hiện.
Như vậy, có thể hiểu “Tiếp công dân là hoạt động đón tiếp để lắng nghe, tiếp
nhận khiếu nại, tố cáo, phản ánh từ người dân của cơ quan nhà nước được tổ chức
thường xuyên, định kỳ hoặc khi người dân có yêu cầu khẩn thiết nhằm giải thích

hướng dẫn cho người dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
theo đúng quy trình của pháp luật”.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra đặc điểm của tiếp công dân trong các cơ quan
hành chính nhà nước đó là:
Thứ nhất, chủ thể tiếp công dân là các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
quản lý hành chính nhà nước.
Việc quy định trách nhiệm tiếp công dân của cơ quan, cá nhân rất quan
trọng, nhằm tạo cơ sở pháp lý cũng như xác định trách nhiệm pháp lý trong việc

10


tiếp công dân. Việc tiếp công dân thực chất là cách thức để cán bộ, công chức, viên
chức của cơ quan, tổ chức có thể trực tiếp lắng nghe, tiếp nhận, làm rõ nội dung
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân, qua đó giúp cho việc xử lý, giải
quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, chính xác, đúng pháp luật; Đồng thời thông qua
việc giải thích, hướng dẫn nhân dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh theo đúng quy định của pháp luật, góp phần giải quyết tâm tư, bức xúc của công
dân, củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng
và Nhà nước. Do vậy, Hiến pháp 2013, Luật Tiếp công dân là đạo luật chung, có giá
trị pháp lý cao nhất về lĩnh vực tiếp công dân, do đó quy định bao quát hết tất các
các cơ quan, tổ chức, đơn vị đều phải có trách nhiệm tiếp công dân. Theo đó, các cơ
quan, tổ chức đơn vị trong hệ thống chính trị đều phải có trách nhiệm tiếp công dân.
Là cơ quan trực tiếp triển khai các văn bản, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào đời sống xã hội. Các cơ quan hành
chính nhà nước có trách nhiệm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu hợp pháp của người
dân, chủ động triển khai các nhiệm vụ, tổ chức tiếp đón, đối thoại với người dân
thường xuyên, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của người dân liên quan đến
pháp luật. Điều 28 Hiến pháp 2013 quy định:
“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo

luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả
nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội;
công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi y kiến, kiến nghị của công
dân”[5].
Điều 4 Luật Tiếp công dân 2013 quy định về trách nhiệm tiếp công dân của
các cơ quan nhà nước gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ, công cục và tổ chức
tương đương, cục; Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Các cơ quan của Quốc hội; Hội
đồng nhân dân các cấp; Tòa án nhân dân; Viện kiểm sát, Kiểm toán nhà nước.
Điều 16 Luật Tiếp công dân 2013 quy định việc tổ chức tiếp công dân tại cơ

11


quan hành chính nhà nước như sau:
“Bộ, cơ quan ngang bộ thành lập bộ phận tiếp công dân hoặc bố trí công
chức thuộc Thanh tra bộ làm công tác tiếp công dân.
Việc tiếp công dân của tổ chức trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ do Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định phù hợp với yêu cầu, tính chất tổ
chức và hoạt động của từng tổ chức; Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh bố trí công chức thuộc Thanh tra cơ quan làm công tác tiếp công dân.
Việc tiếp công dân của cơ quan trực thuộc cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh và việc tiếp công dân của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với
yêu cầu, tính chất tổ chức và hoạt động của từng cơ quan; Chính phủ, Thanh tra
Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp
huyện, Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cấp huyện đã tham gia tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở tiếp
công dân ở trung ương, Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh, cấp huyện thì không bố trí

địa điểm tiếp công dân thường xuyên tại cơ quan mình”[10].
Theo đó, các cơ quan hành chính có trách nhiệm tiếp công dân bao gồm:
Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Tổng cục và các tổ chức tương đường, cơ quan
thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố thuộc trung ương; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh. Trong đó, Chính phủ thống nhất quản
lý nhà nước về công tác tiếp công dân; trực tiếp quản lý công tác tiếp công dân của
các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương; Thanh tra Chính phủ
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác tiếp công
dân;Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý công tác
tiếp công dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
Thứ hai, nội dung của tiếp công dân là lắng nghe, tiếp nhận các khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dân.
Đặc điểm này khác với tiếp công dân để xử lý, giải quyết các hồ sơ theo thủ

12


tục hành chính như kết hôn, đăng ký kinh doanh… Đây là hoạt động chính trong
hoạt động tiếp công dân. Những nội dung cần lắng nghe, đối thoại khi tiếp công dân
gồm: những vấn đề mà người dân đang gặp vướng mắc, đang cảm thấy khó khăn,
bức xúc, muốn trình bày với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để có phương hướng
xử lý đúng mức, phù hợp; Những mong muốn, nguyện vọng chính đáng, những ý
kiến, kiến nghị mà người dân muốn phản ánh với cơ quan nhà nước; Những vấn đề
mà trước đây người dân luôn theo đuổi, muốn tiếp tục phản ánh để cơ quan nhà
nước tiếp tục giải quyết mang lại hiệu quả như mong muốn.
Khiếu nại, tố cáo phải hướng tới những hành vi của chủ thể, hoặc sự kiện
pháp lý nhất định. Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân, điều kiện phát sinh hành
vi vi phạm thuộc về sự khiếm khuyết trong chính sách, pháp luật do nhà nước ban
hành. Vì thế, thông qua những trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo cụ thể, các cơ

quan hành chính, các cơ quan dân cử có thẩm quyền cần hướng tới khắc phục
những vấn đề chính sách để ngăn chặn các vi phạm tương tự có thể xảy ra; bảo đảm
và thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh của công dân.
Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh là quyền của công dân. Các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức có thẩm quyền phải thực hiện các biện pháp pháp lý,
tổ chức, tuyên truyền, khuyến khích thực hiện quyền, xử lý vi phạm để quyền đó
được đảm bảo thực thi trên thực tế.
Bảo đảm tiếp cận công lý dễ dàng của người dân. Tiếp công dân, giải quyết
Khiếu nại, tố cáo là hoạt động thực hiện pháp luật, do vậy, chúng cần được thực
hiện theo những nguyên tắc pháp luật, nội dung điều khoản được quy định, trong
đó, thủ tục thực hiện quyền cần phải đơn giản để các tầng lớp nhân dân dễ thực hiện
quyền của mình. Hạn chế sự lạm quyền, kiểm soát hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước, cán bộ, công chức hành chính.
Về nguyên tắc, giải quyết đơn thư kiến nghị, phản ánh, Khiếu nại, tố cáo của
công dân phải đúng thẩm quyền luật định. Trong nhiều trường hợp, vì xác định
chưa đúng, hoặc chưa đủ căn cứ về thẩm quyền nên quá trình giải quyết đơn thư chưa
đạt hiệu quả.

13


1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của tiếp công dân
1.1.2.1. Mục đích của tiếp công dân
Thứ nhất, việc tiếp công dân nhằm mục đích tiếp nhận các thông tin, kiến
nghị, phản ánh, góp ý những vấn đề liên quan đến chủ trương, đường lối chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, công tác quản lý của cơ quan, đơn vị. Đây là
sự cụ thể hoá quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các
vấn đề chung của Nhà nước và xã hội của công dân, là sự cụ thể hoá phương châm
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Thứ hai, việc tiếp công dân sẽ giúp cho công tác giải quyết Khiếu nại, tố cáo

của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được tiến hành một cách hiệu quả. Bởi vì, tiếp
công dân là điểm khởi đầu, là một trong những khâu quan trọng của công tác giải
quyết Khiếu nại, tố cáo. Điều này là nhằm thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa công tác
tiếp công dân và công tác giải quyết Khiếu nại, tố cáo.
Thứ ba, tiếp công dân cũng là để hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo đúng quy định pháp luật, đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết, khắc
phục những hạn chế bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân. Qua đó nhằm tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật nói chung,
pháp luật Khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng đối với quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, việc tiếp công dân cũng đặt ra một yêu cầu mang tính bắt buộc đối với cơ
quan, tổ chức và cán bộ, công chức Nhà nước là phải luôn luôn tôn trọng nhân dân,
tận tụy phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân.
1.1.2.2. Ý nghĩa của tiếp công dân
Thông qua những khái niệm và đặc điểm nêu trên, có thể thấy tiếp công dân
có ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, tiếp công dân giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân về cơ chế, chính sách, đời sống dân
sinh. Những kiến nghị, phản ánh từ thực tiễn xã hội sẽ là cơ sở giúp cho các cơ quan
có thẩm quyền phát hiện và tìm ra những bất cập tồn tại trong hoạt động tổ chức và

14


quản lý. Từ đó Nhà nước có thể đưa ra được những giải pháp để điều chỉnh sao cho
phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Ở khía cạnh này, “việc tiếp công dân của các cơ
quan nhà nước đã trực tiếp giúp cơ quan nhà nước nhận biết, tự sửa chữa, khắc phục
những khuyết điểm của mình, cho dù yêu cầu của công dân có được đáp ứng hay
không”. Tạo điều kiện để cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời phát hiện, xác
minh, xử lý hành vi trái pháp luật, đảm bảo trật tự, kỷ cương xã hội, phát huy quyền

của nhân dân.
Thứ hai, tiếp công dân là việc tiếp nhận các thông tin, kiến nghị, phản ánh,
góp ý những vấn đề liên quan đến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, công tác quản lý của cơ quan. Bên cạnh đó, tiếp công dân
còn là việc nhận các khiếu nại, tố cáo của công dân. Điều này nhằm mục đích bảo
đảm thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được ghi nhận trong các bản
Hiến pháp. Qua đó thấy được mối quan hệ chặt chẽ không tách rời giữa công tác
tiếp công dân với giải quyết khiếu nại, tố cáo. Công tác tiếp công dân sẽ giúp cho
công tác khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước đạt được hiệu quả cao. Đây là
sự cụ thể hóa quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các
vấn đề chung của Nhà nước và xã hội của công dân, là sự cụ thể hóa phương châm
“dân biết, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ ba, tiếp công dân thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với nhân dân,
tác động tích cực đến tình cảm, thái độ của người dân, củng cố niềm tin của người
dân vào chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; khơi dậy tiềm năng, trí tuệ
của nhân dân vào các nhiệm vụ chính trị chung của Đảng và Nhà nước thông qua
việc thu thập được những thông tin, phản hồi về những vấn đề phát sinh trong cuộc
sống, từ đó đề ra những chính sách, chủ trương, quyết định đúng đắn, hợp lòng dân.
Tiếp công dân chính là kênh thông tin quan trọng giúp cho nhà nước ta có thể điều
chỉnh được những hạn chế, khiếm khuyết trong công tác quản lý cũng như trong đội
ngũ cán bộ, công chức.
Thứ tư, qua kết quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan nhà nước đã khôi phục, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,

15


cơ quan, tổ chức; Thông qua tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo các cấp, các
ngành đã kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sơ hở trong công tác quản lý kinh tế,
yếu kém trong quản lý nhà nước; nhiều văn bản, chính sách, chế độ đã được sửa

đổi, bổ sung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế hiện nay.
Có thể thấy rằng, tiếp công dân là yêu cầu mang tính tất yếu trong quá trình
hoàn thiện công tác quản lý, xây dựng và đảm bảo thực hiện Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân. Tiếp công dân là việc làm không thể thiếu trong hoạt
động quản lý trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nói chung và hoạt động quản
lý hành chính nhà nước nói riêng, thông qua công tác tiếp công dân tạo ra động lực
thúc đẩy hoàn thiện công tác quản lý nhà nước. Cũng nhờ hoạt động này mà chủ
trương, đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước được thực hiện hiệu quả,
quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
được giải quyết nhanh chóng, góp phần giúp xây dựng và tổ chức chính quyền vững
mạnh hơn.
1.1.3. Mô hình tiếp công dân và trách nhiệm của các chủ thể trong tiếp
công dân
1.1.3.1. Mô hình tiếp công dân
Theo Luật Tiếp công dân năm 2013, mô hình tổ chức tiếp công dân được tổ
chức vừa tập trung, vừa phân tán. Ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện thành lập Trụ
sở tiếp công dân. Các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan tư pháp cũng tổ
chức tiếp công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình. Chương III Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân đã hướng
dẫn chi tiết về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các Ban tiếp công dân và
việc bố trí cơ sở vật chất, trụ sở tiếp công dân...Mô hình tiếp công dân được khái
quát hoá qua sơ đồ sau :

16


Sơ đồ 1.1. Mô hình tiếp công dân
Chính Phủ

(Thanh tra Chính phủ)
Ban TCD Trung
ương

Trụ sở TCD
Trung ương

Ban TCD cấp Tỉnh

Trụ sở TCD cấp
Tỉnh

Ban TCD cấp Huyện

Trụ sở TCD cấp
Huyện

UBND cấp Tỉnh
(Văn phòng UBND)

UBND cấp Huyện
(Văn phòng HĐND&UBND)

UBND cấp Xã
(Chủ tịch UBND xã)

* Về Trụ sở tiếp công dân
Trụ sở tiếp công dân là nơi để công dân trực tiếp đến KNTC, kiến nghị, phản
ánh với lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở trung ương hoặc lãnh đạo Đảng, chính quyền ở
địa phương; có đại diện của một số cơ quan, tổ chức tại trung ương hoặc địa phương

tham gia tiếp công dân thường xuyên và là nơi để lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở trung
ương hoặc địa phương trực tiếp TCD trong những trường hợp cần thiết. Trụ sở tiếp công
dân bao gồm:
- Trụ sở tiếp công dân ở trung ương.
Trụ sở tiếp công dân ở trung ương được đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh, là nơi tiếp công dân đến KNTC, kiến nghị, phản ánh với các cơ quan trung
ương của Đảng, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ. Ban tiếp
công dân trung ương thuộc Thanh tra Chính phủ, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý
các Trụ sở tiếp công dân ở trung ương. Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm
tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng
17


Chính phủ, Ban dân nguyện thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội cử đại diện phối hợp
cùng Ban tiếp công dân trung ương thực hiện việc tiếp công dân thường xuyên tại
Trụ sở tiếp công dân ở trung ương.
- Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh.
Trụ sở tiếp công dân cấp tỉnh được tổ chức ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, là nơi TCD đến khiếu nại tố cáo, kiến nghị, phản ánh với Tỉnh ủy, Đoàn
Đại biểu Quốc hội, HĐND, UBND cấp tỉnh. Ban TCD cấp tỉnh do UBND cấp tỉnh
thành lập, trực thuộc Văn phòng UBND cấp tỉnh, do một Phó Chánh Văn phòng
phụ trách, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý Trụ sở TCD cấp tỉnh. Văn phòng Tỉnh
ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ban Nội chính Tỉnh ủy, Văn phòng Đoàn Đại biểu
Quốc hội và HĐND cấp tỉnh cử đại diện phối hợp cùng Ban TCD cấp tỉnh thực hiện
việc TCD thường xuyên tại Trụ sở TCD cấp tỉnh.
- Trụ sở TCD cấp huyện.
Trụ sở TCD cấp huyện được thành lập ở mỗi huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, là nơi TCD đến KNTC, kiến nghị, phản ánh với Huyện ủy, Quận ủy, Thị
ủy, Thành ủy (sau đây gọi chung là Huyện ủy), HĐND, UBND cấp huyện. Ban
TCD cấp huyện do UBND cấp huyện thành lập, trực thuộc Văn phòng HĐND và

UBND cấp huyện, do một Phó Chánh Văn phòng phụ trách, chịu trách nhiệm trực
tiếp quản lý Trụ sở TCD cấp huyện. Văn phòng Huyện ủy, Ủy ban kiểm tra Huyện
ủy cử đại diện phối hợp cùng Ban TCD cấp huyện thực hiện việc TCD thường
xuyên tại Trụ sở TCD cấp huyện.
Cấp huyện là cấp thấp nhất có trụ sở TCD riêng. Đó là nơi duy nhất có chức
năng chuyên biệt được pháp luật quy định để tiếp nhận KNTC, kiến nghị phản ánh
của công dân trên địa bàn mỗi quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
* Về Ban tiếp công dân
Cùng với quy định về thành lập các Trụ sở TCD, Luật TCD còn quy định về
Ban TCD. Ban TCD ở Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện được thành lập để trực
tiếp quản lý Trụ sở TCD, tổ chức việc TCD, giải thích, hướng dẫn cho công dân đến
KNTC, kiến nghị, phản ánh, phối hợp cùng đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan tổ

18


×