Tải bản đầy đủ (.pdf) (416 trang)

Giáo trình luật biển quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.89 MB, 416 trang )

GIÁO TRÌNH

LUẬT BIỂN QUỐC TẾ

1


Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình
Trường Đại học Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số
1497/QĐ-ĐHLHN ngày 09 tháng 5 năm 2017 của Hiệu trưởng
Trường Đại học Luật Hà Nội) đồng ý thông qua ngày 14 tháng 6
năm 2017 và được Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội
cho phép xuất bản theo Quyết định số 1192/QĐ-ĐHLHN ngày 30
tháng 3 năm 2018.

MÃ SỐ: TPG/K - 19 - 04

126-2019/CXBIPH/08-11/TP

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình

LUẬT BIỂN QUỐC TẾ

NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
HÀ NỘI - 2019
3




Chủ biên
TS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG
Tập thể tác giả

4

TS. CHU MẠNH HÙNG

Chƣơng 1

TS. NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN

Chƣơng 2

PGS.TS. NGUYỄN THỊ THUẬN

Chƣơng 3

TS. MẠC THỊ HOÀI THƢƠNG &
ThS. PHẠM HỒNG HẠNH

Chƣơng 4

TS. LÊ THỊ ANH ĐÀO &
TS. NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN

Chƣơng 5


TS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

Chƣơng 6

TS. LÊ THỊ ANH ĐÀO

Chƣơng 7

TS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

Chƣơng 8

TS. HOÀNG LY ANH

Chƣơng 9

TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG

Chƣơng 10

TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG &
ThS. HÀ THANH HÒA

Chƣơng 11


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt


Từ đầy đủ tiếng Anh

Nghĩa tiếng Việt

ASIL

American Society of Hội luật quốc tế Mỹ
International Law

CITES

The Convention on
International Trade in
Endangered Species of
Wild Fauna and Flora

CHXHCN

Công ƣớc về buôn bán
quốc tế các loài động
vật, thực vật hoang dã
nguy cấp
Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa

ICJ

International Court of Tòa án công lí quốc tế
Justice


ICAO

International
Civil Tổ chức hàng không
Aviation Organization dân dụng quốc tế

ILC

International
Commission

IMO

International Maritime Tổ chức hàng hải quốc tế
Organization

ITLOS

International Tribunal Toà án Luật biển quốc
for the Law of the Sea tế

JRHW

Juridical Regime of Chế độ pháp lí của vùng
Historic Waters
nƣớc lịch sử

Law Ủy ban Luật quốc tế

5



PCIJ

Permanent Court of Toà án thƣờng trực
International Justice
công lí quốc tế
Các văn bản trong quá
trình đàm phán

Travaux
preparatoires
UN

United Nations

UNCLOS
1982

United
Nations Công ƣớc Liên hợp
Convention on the quốc về Luật Biển năm
Law of the Sea 1982
1982

6

Liên hợp quốc



LỜI GIỚI THIỆU
Từ thời xa xưa, biển và đại dương đã được biết đến như một
môi trường thiên nhiên lí tưởng cho những nền văn minh vĩ đại,
như kho tài nguyên thiên nhiên vô giá đáp ứng cho những nhu
cầu vật chất, xã hội không ngừng gia tăng của con người. Với
những nguồn lợi to lớn do biển và đại dương mang lại, các quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có biển, đều mong
muốn khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền của mình trên các
vùng biển. Tuy nhiên, khác với đất liền, biển và đại dương là môi
trường thống nhất của không gian mở, không có sự phân chia
độc lập hoàn toàn giữa các bộ phận với nhau. Vì vậy, việc khai
thác, sử dụng biển cần đặt dưới sự điều chỉnh bởi tổng thể những
nguyên tắc và quy phạm thích hợp nhằm hài hoà lợi ích giữa
quốc gia ven biển, các quốc gia khác và lợi ích chung của cộng
đồng quốc tế. Luật biển quốc tế hình thành từ chính những yêu
cầu đó của thực tiễn quan hệ quốc tế.
Với mong muốn đem đến những tri thức về Luật biển quốc tế,
đồng thời đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung và chương trình đào
tạo, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức biên soạn cuốn
“Giáo trình Luật biển quốc tế”. Giáo trình Luật biển quốc tế đề
cập những vấn đề cơ bản về cách xác định và quy chế pháp lí các
vùng biển, nội dung hợp tác giữa các quốc gia trong quá trình
khai thác, sử dụng biển cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp

7


phát sinh. Với những nội dung đó, hi vọng cuốn Giáo trình Luật
biển quốc tế sẽ nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc.
Mặc dù tập thể tác giả đã rất cố gắng nhưng do Luật biển

quốc tế có nhiều nội dung phức tạp nên Giáo trình khó tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Chúng tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của đông đảo bạn đọc để Giáo trình được hoàn
thiện hơn trong lần tái bản.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hà Nội, tháng 3 năm 2019
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

8


Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
Lí luận chung về Luật biển quốc tế đề cập tới vai trò của
biển cả trong lịch sử phát triển của nhân loại và sự cần thiết
phải xác lập trật tự pháp lí trên biển nhằm đảm bảo lợi ích của
mỗi quốc gia cũng như lợi ích chung của cộng đồng quốc tế.
Lịch sử hình thành và phát triển của Luật biển quốc tế gắn liền
với sự phát triển của khoa học tự nhiên, quá trình khám phá,
chinh phục và đấu tranh giữa các quốc gia. Luật biển quốc tế
bao gồm các nguyên tắc và quy phạm được thể hiện thông qua
nguồn của Luật biển quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản của Luật
biển quốc tế là cơ sở để xác định các vùng biển và quy chế
pháp lí của chúng; điều chỉnh quá trình khai thác, sử dụng,
quản lí biển cả và đại dương.
I. KHÁI NIỆM LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
1. Định nghĩa
Trái đất có 71% là biển cả (khoảng 362 triệu km2). Thái
Bình Dương là đại dương lớn nhất, nằm giữa châu Á và châu
Mỹ, với diện tích 180 triệu km2, bằng diện tích của Ấn Độ

Dương và Đại Tây Dương. Toàn bộ diện tích đất liền trên thế
giới có thể chứa gọn trong lòng Thái Bình Dương. Đại Tây
9


Dương là đại dương lớn thứ hai, rộng khoảng 106 triệu km2,
nằm giữa châu Âu, châu Phi và châu Mỹ. Ấn Độ Dương nằm ở
phía nam Ấn Độ, với diện tích khoảng 75 triệu km2. Biển cả
bao gồm ba thành phần chính1:
- Khối nước biển, chiếm 97,3% toàn bộ lượng nước của
hành tinh. Cột nước này chứa nhiều tài nguyên sinh vật cũng
như tài nguyên không sinh vật hòa tan trong nước.
- Thềm lục địa, chứa 90% trữ lượng dầu khí ngoài khơi.
Thềm lục địa và đáy đại dương có tiềm năng dầu khí gấp hai
lần so với trên đất liền. Từ cuối thế kỉ XX đến nay, phần lớn
sản lượng dầu và khí được khai thác ở thềm lục địa.
- Đáy đại dương và các dãy núi đại dương, nơi chứa đựng
các loại quặng đa kim như đồng, titan, sắt và mangan…
Biển chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
bên cạnh những giá trị khác như công nghiệp, giao thông, điều
hòa khí hậu, hấp thụ và tiêu thụ chất thải. Biển cả là môi
trường thông thương, qua bao thế kỉ các tư tưởng đã được
truyền bá, con người và hàng hóa đã được vận chuyển. Biển cả
gắn liền với các phát hiện lớn, hoạt động truyền đạo và các
cuộc viễn chinh. Biển cả còn là nguồn cung cấp thức ăn quan
trọng cho cuộc sống của con người. Cùng với trồng trọt, săn
bắn và hái lượm, nghề đánh cá biển cũng đã sớm phát triển,
đóng một vai trò không thể thiếu trong hoạt động của con
người, kể cả ngày nay.
1


TS. Nguyễn Hồng Thao (chủ biên), Công ước Luật biển 1982 và chiến lược
biển của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 52.

10


Biển đã đóng vai trò không thể thiếu trong sự phát triển của
loài người. Không có biển thì sẽ không có thế giới ngày nay.
Biển cho phép xây dựng và phát triển những nền văn minh.
Sớm bước ra biển, những nền văn minh nhân loại như Hy Lạp,
La Mã, Ấn Độ… đã có thể mở rộng ảnh hưởng, tác động tới sự
phát triển tinh thần, đạo đức và vật chất của phần lớn trái đất.
Nhờ có biển, các quốc gia có lãnh thổ đất liền không lớn, dân
số không nhiều đã có thể vươn lên nắm giữ các vị trí về chính
trị và thương mại. Xu hướng tiến ra biển thể hiện rõ nét trong
lịch sử phát triển của các quốc gia. Với sự bùng nổ về dân số,
nguồn tài nguyên trên đất liền dần cạn kiệt, sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học, công nghệ, các mối quan tâm ngày càng tăng
về môi trường, an ninh - quốc phòng, biển lại càng đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như của
cộng đồng quốc tế. Hướng ra biển, “làm chủ” biển và đại dương
là xu thế không thể đảo ngược. Nhằm điều hòa lợi ích của các
quốc gia ở trên biển và sử dụng, khai thác biển một cách hòa
bình, cần phải xây dựng một trật tự thế giới mà ở đó các nước
có quyền lực, ảnh hưởng lớn cũng phải tuân thủ nguyên tắc xử
sự giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế.1 Đó là trật tự công
bằng trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Những tư tưởng về khai thác, sử dụng biển đã hình thành
trong lịch sử phản ánh cuộc đấu tranh trong việc xây dựng một

trật tự pháp lí trên biển; các nguyên tắc, qui phạm của Luật biển
quốc tế từng bước được hoàn thiện. Đặc biệt, sau năm 1945
1

Học viện Ngoại giao, Phạm Bình Minh (chủ biên), Cục diện thế giới đến 2020,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 11.

11


quá trình pháp điển hóa Luật biển quốc tế diễn ra mạnh mẽ với
thành tựu về lập pháp là Công ước Luật biển năm 1982
(UNCLOS 1982).
Luật biển quốc tế bao gồm các nguyên tắc, quy phạm do
các quốc gia và các chủ thể khác của Luật biển quốc tế thỏa
thuận xây dựng nên hoặc thừa nhận các tập quán quốc tế nhằm
thiết lập quy chế pháp lí các vùng biển và các hoạt động sử
dụng, khai thác, bảo vệ biển cũng như quan hệ hợp tác, giải
quyết tranh chấp giữa các chủ thể. Luật biển quốc tế là một
ngành luật độc lập của hệ thống pháp luật quốc tế, thể hiện bản
chất và quá trình phát triển của Luật quốc tế.
2. Đặc điểm của Luật biển quốc tế
a. Chủ thể của Luật biển quốc tế
* Quốc gia
Xuất phát từ việc sử dụng và khai thác biển, có thể xác
định chủ thể tham gia quan hệ Luật biển quốc tế trước hết là
các quốc gia. Điều 305 UNCLOS 1982 quy định: Công ước để
ngỏ cho tất cả các quốc gia tham gia.
Quốc gia là chủ thể phổ biến của Luật biển quốc tế. Biển
liên quan đến mọi mặt của đời sống một quốc gia. Với sự phát

triển của khoa học kĩ thuật hiện nay, biển không chỉ có giá trị
về kinh tế, mà còn đặc biệt quan trọng đối với an ninh, quốc
phòng và môi trường. Tất cả những lĩnh vực này đều quan hệ
mật thiết đến lợi ích thiết thực và sống còn của mỗi quốc gia.
Về phương diện pháp lí, các quốc gia bình đẳng và Luật
biển quốc tế với các nguyên tắc và quy phạm pháp luật đảm
12


bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia thông qua các quy định cụ
thể về nhóm quốc gia như: quốc gia có biển, quốc gia không có
biển, quốc gia bất lợi về địa lí, quốc gia quần đảo, quốc gia
đảo... Nhóm quốc gia và mỗi quốc gia có đặc thù riêng về vị trí
địa lí và điều kiện tự nhiên, vì vậy lợi ích mà biển mang lại sẽ
khác nhau. Với những quy định của Luật biển quốc tế, những
khác biệt về tự nhiên không làm thay đổi tính chất bình đẳng
của quốc gia với tư cách là chủ thể luật quốc tế cũng như quá
trình quản lí, khai thác và sử dụng biển.
* Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Phù hợp với lí luận về chủ thể luật quốc tế, các tổ chức
quốc tế liên chính phủ được xác định là chủ thể phái sinh của
Luật biển quốc tế. Cho đến đầu thế kỉ XX, các tổ chức quốc tế
liên quan đến biển phát triển chưa nhiều, phần lớn đều hoạt
động trong các lĩnh vực truyền thống như nghề cá hoặc hàng
hải. Chỉ đến sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai thì hàng loạt
tổ chức quốc tế về biển mới hình thành, như Tổ chức hàng hải
quốc tế (IMO), Tổ chức khí tượng quốc tế (WMO), Tổ chức
hợp tác kinh tế biển Đen (BSEC)... So với thời kì trước, các tổ
chức thời kì này trở nên đa dạng, phong phú. Trong số đó,
nhiều tổ chức đã thể hiện rõ vai trò quan trọng trong hoạt động

pháp điển hóa Luật biển quốc tế như UN thông qua ba hội nghị
về Luật biển.
Điều 305 và Phụ lục IX UNCLOS 1982 quy định khá chi
tiết về sự tham gia với tư cách thành viên UNCLOS 1982 của tổ
chức quốc tế liên chính phủ. Trên cơ sở UNCLOS 1982, một số
13


tổ chức quốc tế cũng đã được thành lập và tham gia vào quá
trình khai thác, sử dụng các vùng biển như Cơ quan quyền lực
quản lí Vùng di sản chung (mục 4 phần XI UNCLOS 1982)...
Ngày nay, vấn đề bảo vệ biển và giải quyết tranh chấp về biển
luôn là nội dung quan trọng trong hợp tác quốc tế theo khuôn
khổ của luật pháp, vì vậy sự tham gia và vai trò của các tổ chức
quốc tế ngày càng quan trọng.
* Một số chủ thể khác
Ngoài quốc gia và tổ chức quốc tế liên chính phủ, một số
thực thể khác như dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự
quyết, vùng lãnh thổ cũng được coi là chủ thể của Luật biển
quốc tế.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, do tình trạng pháp lí đặc
biệt, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết ít khi
trực tiếp tham gia các hoạt động khai thác, sử dụng biển. Tuy
nhiên, theo quy định của Điều 305 UNCLOS 1982, dân tộc
đang đấu tranh giành quyền tự quyết có thể trở thành thành
thành viên của UNCLOS 1982. Ngoài ra, trong một số điều
khoản khác của UNCLOS 1982 cũng quy định về quyền và
nghĩa vụ của chủ thể đặc biệt này. Chẳng hạn, Điều 140 khoản 1
UNCLOS 1982 quy định: “Các hoạt động trong V ng được
tiến hành, như đã được ghi nhận r ràng trong phần này, là vì

lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị trí của
các quốc gia, d là quốc gia có biển hay không có biển, và có
lưu đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang
phát triển và của các dân tộc chưa giành được nền độc lập đầy
14


đủ hay một chế độ tự trị khác được Liên hợp quốc thừa nhận
theo đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các nghị quyết tương ứng
khác của Đại hội đồng”.
Ngoài các chủ thể thông thường của Luật biển quốc tế là
quốc gia và tổ chức quốc tế, UNCLOS 1982 có đề cập đến khái
niệm “nhân loại” (mankind) trong nguyên tắc “V ng và tài
nguyên trên Vùng là di sản chung của nhân loại”. Vậy, “nhân
loại” có phải là chủ thể của Luật biển quốc tế hay không?
Theo tư duy lô gíc, khái niệm này được hiểu theo hướng bao
gồm tất cả các quốc gia trên bề mặt trái đất. Đó là một cách
nói khác đi về thế giới bao gồm cộng đồng các quốc gia, vì
vậy không cần thiết có sự phân biệt “nhân loại” như một chủ
thể độc lập với quốc gia.
Mặc dù có sự tham gia nhất định vào quá trình khai thác,
sử dụng biển, chẳng hạn như thăm dò, khai thác V ng di sản
chung của loài người theo Điều 153 UNCLOS 1982, cá nhân,
pháp nhân không phải là chủ thể của Luật biển quốc tế. Sự
tham gia của các thực thể này không mang tính độc lập vì phụ
thuộc vào ý chí của các quốc gia. UNCLOS 1982 quy định các
thực thể này chỉ được tiến hành thăm dò, khai thác V ng di sản
chung nếu như được sự bảo trợ của quốc gia mà cá nhân, pháp
nhân mang quốc tịch hoặc sự bảo trợ của quốc gia kiểm soát
thực sự cá nhân, pháp nhân đó.

b. Đối tượng điều chỉnh của Luật biển quốc tế
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật
quốc tế, Luật biển quốc tế điều chỉnh các quan hệ mang tính
15


liên quốc gia. Đây là điểm phân biệt giữa Luật biển quốc tế với
các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên,
hoạt động trên biển là hoạt động đa dạng, phức tạp, liên quan
đến nhiều đối tượng và nhằm phục vụ những lợi ích khác nhau.
Vì vậy cần có sự phân biệt giữa đối tượng điều chỉnh của Luật
biển quốc tế với đối tượng điều chỉnh của một ngành luật cũng
có yếu tố quốc tế và liên quan đến không gian biển, đó là Luật
hàng hải.
Luật biển quốc tế là một ngành luật trong hệ thống pháp
luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và chủ thể
khác phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng biển. Với
tính chất này, các quy phạm của Luật biển quốc tế quy định
quyền và nghĩa vụ của quốc gia hay các chủ thể khác, khi những
chủ thể này tham gia các quan hệ về sử dụng, khai thác biển
với tính chất là các vùng biển có quy chế pháp lí khác nhau.
Đây là những quan hệ về xác lập chủ quyền và quyền chủ
quyền trên các vùng biển, về hợp tác trong khai thác và sử
dụng tài nguyên biển, về bảo vệ môi trường biển, về giải quyết
tranh chấp phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng biển...
Với tính chất là một ngành luật trong hệ thống pháp luật
quốc gia, đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật hàng
hải là những quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng và khai
thác tàu thuyền, khi các phương tiện này hoạt động trên các
vùng biển, chẳng hạn như xác định địa vị pháp lí của tàu

thuyền, giải quyết tranh chấp khi sử dụng tàu vào các hoạt
động vận chuyển hành khách, hàng hóa, khi xảy ra sự cố hàng
hải, an ninh trên biển...
16


Tuy nhiên, vì cùng là những ngành luật liên quan đến
không gian biển nên Luật biển quốc tế và Luật hàng hải có mối
quan hệ chặt chẽ. Một số quan hệ vừa có thể là đối tượng điều
chỉnh của Luật biển quốc tế, vừa là đối tượng điều chỉnh của
Luật hàng hải, chẳng hạn như hợp tác quốc tế để bảo đảm an
ninh trên biển và an toàn hàng hải, hợp tác quốc tế bảo vệ môi
trường biển...
Đối tượng điều chỉnh của Luật biển quốc tế cũng khác với
đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác trong hệ thống
pháp luật quốc tế. C ng điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa
các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế nhưng nếu
như Luật biển quốc tế điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá
trình khai thác và sử dụng biển thì Luật hàng không quốc tế
điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình khai thác và sử
dụng vùng trời trong hoạt động hàng không dân dụng, Luật
điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình
đàm phán, kí kết điều ước quốc tế...
c. Cơ chế hình thành Luật biển quốc tế
Trong lịch sử cũng như trong hiện tại và tương lai, biển
luôn tỏ rõ vai trò là một trong số những yếu tố quan trọng để
con người có thể giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu
như vấn đề lương thực, năng lượng, nguyên liệu và hơn nữa là
vấn đề môi trường sống của con người trên trái đất. Vì vậy,
thiết lập trên biển một trật tự pháp lí quốc tế là yêu cầu của mọi

thời đại. Quá trình hình thành và phát triển của Luật biển quốc
tế đánh dấu những bước thay đổi cơ bản trong tư duy nhận
thức của con người về môi trường tự nhiên gắn với sự phát
17


triển chung của lịch sử nhân loại. Những thay đổi về tư duy đó
tạo cho Luật biển quốc tế những bước ngoặt lớn, mang tính
thời đại trong tiến trình phát triển chung của luật quốc tế.
Cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật
quốc tế, các nguyên tắc và quy phạm của Luật biển quốc tế do
các quốc gia và các chủ thể khác của Luật biển quốc tế thoả
thuận xây dựng thông qua hai hình thức: thoả thuận công khai,
minh bạch bằng việc kí kết các điều ước quốc tế hoặc thoả
thuận ngầm định bằng việc thừa nhận các tập quán hình thành
trong thực tiễn khai thác, sử dụng biển như là các quy phạm có
giá trị pháp lí bắt buộc. Dù thông qua hình thức nào, cơ chế
hình thành các nguyên tắc và quy phạm của Luật biển quốc tế
phải dựa trên sự tự nguyện và bình đẳng của các chủ thể. Mọi
sự lừa dối, ép buộc, bất bình đẳng trong quá trình hình thành
các nguyên tắc và quy phạm Luật biển quốc tế đều làm cho các
nguyên tắc và quy phạm đó trở nên vô hiệu và không có giá trị
ràng buộc đối với các bên chủ thể.
Luật quốc tế được hình thành với hai nguồn cơ bản là điều
ước quốc tế và tập quán quốc tế nhưng khác với các ngành luật
khác và cũng là đặc thù của Luật biển quốc tế, đó là vai trò của
tập quán trong cơ chế hình thành ngành luật này.
d. Cơ chế thực thi Luật biển quốc tế
Vấn đề thực thi Luật biển quốc tế cũng không nằm ngoài
cơ chế chung của việc thực thi luật quốc tế. Theo UNCLOS

1982, các quốc gia có chủ quyền và quyền chủ quyền đối với
các vùng biển nội thuỷ, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền
18


kinh tế và thềm lục địa. Tại những vùng biển này, quốc gia ven
biển có quyền thiết lập một trật tự pháp luật quốc gia phù hợp
với quy định của UNCLOS 1982 để đảm bảo quyền và lợi ích
của quốc gia trong tiến hành các hoạt động khai thác và sử
dụng biển. Trên biển cả và Vùng, quốc gia phải tôn trọng các
quy định của Luật biển quốc tế khi tham gia các hoạt động hợp
tác trong khai thác và sử dụng biển.
Các nguyên tắc và quy phạm của Luật biển quốc tế được
các chủ thể bảo đảm thi hành thông qua cơ chế tự cưỡng chế,
bao gồm cưỡng chế riêng lẻ và cưỡng chế tập thể. Đây cũng là
cơ chế thực thi chung của luật quốc tế. Luật biển quốc tế đề
cao sự tự nguyện thực hiện của các chủ thể. Trong trường hợp
có hành vi vi phạm ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể khác,
các bên có thể thoả thuận thông qua các biện pháp hoà bình để
giải quyết tranh chấp. Sự thiết lập và thẩm quyền của các cơ
quan tài phán quốc tế cũng không phải là đương nhiên mà phải
dựa trên ý chí của các bên tranh chấp.
3. Vai trò của Luật biển quốc tế
Luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể, đặc
biệt là giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền. Vì vậy, chủ
quyền quốc gia xác định quyền tài phán của quốc gia đối với
lãnh thổ, dân cư và các hoạt động diễn ra trên đó. Luật biển
quốc tế phân chia đại dương thành các vùng biển: nội thủy,
lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa,
biển cả và V ng; đồng thời xác định quyền tài phán của quốc

gia đối với không gian biển. Luật biển quốc tế quy định các
quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển và các quốc gia khác
19


ở các vùng biển. Do đó, vai trò của Luật biển quốc tế là kết
hợp hài hòa quyền và lợi ích của các quốc gia trên cơ sở lợi ích
chung của nhân loại trong quá trình khai thác và sử dụng biển.
Đây là vai trò hết sức quan trọng của Luật biển quốc tế trong
việc điều chỉnh quan hệ quốc tế giữa các quốc gia độc lập có
chủ quyền và các chủ thể khác.
Xuất phát từ việc điều chỉnh quan hệ chủ yếu giữa các quốc
gia, Luật biển quốc tế đòi hỏi sự hợp tác giữa các quốc gia
trong quản lí, khai thác các vùng biển. Sở dĩ như vậy là vì Luật
biển xác lập nên các không gian pháp lí từ điều kiện tự nhiên
và như vậy, hệ sinh thái biển có tính độc lập riêng, do đó các
loài cá và nguồn lợi thủy sản với đặc điểm di trú và di cư sẽ
không phụ thuộc vào không gian pháp lí.1 Hợp tác quốc tế là
điều kiện tiên quyết cho việc bảo tồn các nguồn tài nguyên
sinh vật biển cũng như đa dạng sinh học. Mặt khác, hoạt động
sử dụng biển gia tăng đi liền với ô nhiễm môi trường biển, nhất
là tính lan tỏa của các nguồn ô nhiễm. Do đó càng cần thiết cho
hợp tác quốc tế để bảo vệ môi trường biển. Tính chất phức tạp
của các đại dương tác động tới hoạt động nghiên cứu khoa học
biển. Không chỉ khai thác nguồn lợi tự nhiên, biển còn là môi
trường để con người sử dụng cho giao thông, vì vậy, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực hàng hải và bảo đảm an toàn hàng hải
được thực hiện thông qua khung pháp lí.
Luật biển quốc tế khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán của quốc gia và hợp tác quốc tế giữa các quốc

1

Yoshifumi Tanaka, The International Law of the Sea (Second Edition),
Cambridge University Press, p. 21.

20


gia. Nếu chỉ nghiêng về lợi ích đơn lẻ sẽ ảnh hưởng tới lợi ích
chung của cộng đồng quốc tế, ngược lại nếu chỉ chú trọng hợp
tác sẽ là nguy cơ xâm phạm tới chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán của quốc gia.1 Vì vậy, Luật biển quốc tế xác lập
sự hài hòa trong quản lí, khai thác và sử dụng biển.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
1. Sự phát triển của khoa học tự nhiên trong mối quan
hệ với sự hình thành và phát triển của Luật biển quốc tế
Biển và đại dương thuộc về tự nhiên trước khi thuộc về luật
pháp, vì vậy nó là đối tượng của khoa học tự nhiên trước khi là
đối tượng điều chỉnh của luật pháp.2 Địa lí tự nhiên là một bộ
môn khoa học mô tả hình dạng trái đất, địa hình và sự phân bố
hình thái tự nhiên. Kiến thức địa lí đã bắt đầu phát triển từ thời
đại đồ đá. Người Sumer đã tìm cách vẽ bản đồ thế giới vào
khoảng 5.000 và 4.000 năm TCN. Người Babylon đi tiên phong
về toán, thiên văn trong thời kì từ 2.000 đến 500 năm TCN. Họ
là những người đầu tiên tiên đoán chính xác nhật thực, nguyệt
thực và sáng chế ra cột đồng hồ mặt trời để đo thời gian. Người
Phoenicia và người Minoa đã có nhiều đóng góp vào tri thức
địa lí bằng việc thu thập những thông tin về gió, hải lưu, thủy
triều. Thales (640 - 546 TCN), người đã sáng tạo môn hình học

và tiên đoán chính xác hiện tượng nhật thực toàn phần xảy ra
1

Yoshifumi Tanaka, The International Law of the Sea (Second Edition),
Cambridge University Press, p. 22.
2
Bộ Ngoại giao, Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của Luật biển ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 11.

21


vào ngày 28/5/585 TCN. Sự quan tâm của ông đến không gian
biển với quan niệm nước là yếu tố cơ bản và là cơ sở của mọi
sự sống. Pythagoras (570 - 500 TCN), nhà khoa học Hy Lạp
với khái niệm quả đất hình cầu, nguyên lí cơ bản của môn địa
lí tự nhiên. Erathosthenes là người đã đặt nền móng cho khoa
học trắc địa. Poseidonius ở Apamea (khoảng năm 135 - 50 TCN)
đã viết một luận thuyết “về đại dương”, ông là một trong
những người đầu tiên gắn quy luật dao động của thủy triều với
sự tương tác giữa mặt trời và mặt trăng. Quan điểm và các số
liệu của Poseidonius đã được kiểm nghiệm trong các thế kỉ sau
và có ảnh hưởng đối với Christopher Columbus với sự khám
phá ra châu Mỹ.
Trên cơ sở tư duy mới, khoa học phát triển và tri thức thực
tiễn đã chuẩn bị cho hướng phát triển mới để khám phá trái đất
trong đó có đại dương. Các nhà khoa học như Galile, Descartes
và Newton cùng với các cuộc khám phá diễn ra cuối thế kỉ
XVIII của Cook, Vancoure Bougainville thì phần lớn các khu
vực trên trái đất đã được mọi người biết đến.

Việc tìm ra vĩ tuyến có sự đóng góp to lớn của nhà thiên
văn thời cổ đại Hipparchus ở Nicacea (khoảng năm 146 - 127
TCN). Vĩ tuyến được xác định bằng cách sử dụng tỉ lệ giữa
ngày dài nhất và ngày ngắn nhất tại một vị trí nhất định. Cho
đến thế kỉ XVII, kinh tuyến vẫn còn là một đối tượng khó đo
chính xác, nhất là ngoài biển. Năm 1666, Viện Hàn lâm khoa
học Hoàng gia Pháp do Vua Louis XIV thành lập và việc xác
định kinh tuyến được coi là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của
Viện. Việc áp dụng phương pháp dựa trên sự che khuất của các
22


vệ tinh của sao Mộc (Jupiter) nhưng vẫn chưa giải quyết được
cho các thiết bị thiên văn đặt trên tàu.
Năm 1675, Đài thiên văn Hoàng gia Anh ở Greenwich
được xây dựng, việc tìm và xác định kinh tuyến thu hút sự
quan tâm của các nhà khoa học Anh bởi nó sẽ giúp nước Anh
chi phối được trên biển. Sở dĩ như vậy là vì thời kì này được
gọi là trật tự Anh,1 trong đó Anh là nước có ảnh hưởng lớn trên
biển và là quốc gia có xu hướng đối lập với học thuyết tự do
biển cả. Phát minh của John Harrison (1693 - 1776) bằng máy
đo thời gian trên biển và việc xác định kinh tuyến trên biển với
độ chính xác đã được giải quyết.
Vĩ tuyến đáp ứng cho việc xác định vị trí ở Bắc hay Nam
đường xích đạo và được mô tả bằng hệ thống các đường song
song với xích đạo. Theo hệ thống đo này, bề mặt trái đất được
chia thành độ (o), phút (’) và giây (”), một độ bằng 60 phút và
một phút bằng 60 giây. Từ xích đạo tới một địa cực là 90 độ
(một phần tư quả đất hình cầu). Do đó, vĩ tuyến cao nhất là 90
độ Bắc và 90 độ Nam. Chiều dài 1 độ của cung vĩ tuyến

khoảng 69 hải lí, chiều dài này thay đổi theo đường cong
không đồng đều của bề mặt trái đất, từ 68,7 hải lí ở xích đạo
tới 69,4 hải lí ở địa cực. Kinh tuyến để xác định vị trí ở Đông
hay Tây của một điểm so với điểm chuẩn và được mô tả bằng
hệ thống các vòng tròn lớn đi qua hai địa cực. Điểm chuẩn
được toàn thế giới chấp nhận và kinh tuyến đi qua đó là kinh
1

Học viện Ngoại giao, Phạm Bình Minh (chủ biên), Cục diện thế giới đến 2020,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 11.

23


tuyến chuẩn (Đài thiên văn Greenwich thuộc nước Anh). Theo
hệ thống này, bề mặt trái đất được chia thành độ, phút, giây, do
đó có thể đo tới 180 độ Đông và 180 độ Tây từ kinh tuyến
chuẩn, cả hai tạo ra trái đất là vòng tròn đủ 360 độ. Các kinh
tuyến được đánh dấu và vạch từ địa cực này đến địa cực kia.
Xích đạo là nơi khoảng cách giữa hai kinh tuyến cách nhau xa
nhất và giá trị của mỗi kinh tuyến khoảng 67,1 hải lí. Tại các
địa cực là nơi các kinh tuyến hội tụ. Vị trí của một điểm được
xác định bằng cách đo phối hợp vĩ tuyến và kinh tuyến. Sự
phối hợp thể hiện bằng một khung hay tọa độ của giao điểm
những đường cắt nhau, nhờ đó có thể biết rõ tọa độ vị trí căn
cứ vào xích đạo và đường kinh tuyến chính.1
Với sự phát triển của khoa học địa lí tự nhiên, xác định
kinh tuyến, vĩ tuyến thì việc vẽ hải đồ và thủy văn học hiện đại
đã đưa con người từng bước khám phá và chinh phục biển.
Việc nâng cao độ chính xác trong xác định vị trí và đo đạc trên

biển trong các giai đoạn lịch sử được đặc trưng bằng sự phối
hợp giữa khoa học, công nghệ và kinh nghiệm hàng hải. Thế kỉ
XVI, XVII, các quốc gia muốn phát triển thương mại và chính
trị tiếp tục ủng hộ các cuộc thám hiểm thăm dò các v ng biển
chưa được biết đến và chưa thể hiện trên các hải đồ. James
Cook (1728 - 1779) là một trong những nhà hàng hải nổi tiếng.
Ông đã quan sát và ghi chép chính xác tất cả những gì ông
chứng kiến hay khám phá, đó là: mô tả phần lớn các khu vực ở
1

Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Chương trình biển KT-03), Đề tài:
Cơ sở khoa học của việc hoạch định và quản lí các vùng biển và thềm lục địa
Việt Nam, Hà Nội, 1996, tr. 65.

24


vùng biển phía Nam (bao gồm phần lớn Thái Bình Dương) và
Nam Cực. Ngày nay, các hải đồ phần lớn được xây dựng dựa
trên các phát hiện của James Cook.
Những tri thức của khoa học tự nhiên cho phép con người
xác định đại dương theo đúng bản chất của nó là một khối
năng lượng toàn cầu bao gồm những hệ thống tự nhiên có thể
xác định và có tác động lẫn nhau. Nhu cầu khai thác biển và
yêu cầu quản lí biển đòi hỏi sự song hành của luật pháp gắn
liền quá trình con người khám phá, chinh phục biển.
2. Nguồn gốc hình thành Luật biển quốc tế
Cùng với sự ra đời của nhà nước, các cuộc đấu tranh giữa
các nhà nước giành quyền thống trị đối với các v ng đất liên
tục nổ ra và đến khi xã hội loài người phát triển tới mức có thể

tiến hành khai thác các nguồn lợi từ đại dương, thì các cuộc
đấu tranh giành quyền kiểm soát chúng cũng bắt đầu.
Con người biết và quan tâm đến biển như một nguồn cung
cấp thực phẩm, đặc biệt là việc khai thác, sử dụng cột nước bề
mặt biển như một môi trường phục vụ cho hàng hải, sự truyền
đạo và các cuộc viễn chinh tới các vùng xa xôi. Buổi sơ khai,
do quan niệm tài nguyên biển cả là vô tận, cho nên không có
các cuộc đấu tranh giành quyền lực trên biển. Thực tế đó tồn
tại cho đến thế kỉ XV, khi biển cả từ một môi trường, phương
tiện trở thành đối tượng chinh phục của các quốc gia muốn
mở rộng quyền lực của mình ra biển. Điều này càng thêm rõ
nét khi các quốc gia ý thức được rằng tài nguyên biển không
phải là vô tận.
25


×