Tải bản đầy đủ (.pdf) (400 trang)

Giáo trình luật thi hành án dân sự việt nam trường đại học luật hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 400 trang )


1390-2019/CXBIPH/28-14/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình

(Tái bản lần thứ 4)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2019

3


Chủ biên
TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH
PGS.TS. BÙI THỊ HUYỀN

Tập thể tác giả
1. TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

Chƣơng I & III

2. TS. NGUYỄN TRIỀU DƢƠNG

Chƣơng IV


3. PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

Chƣơng VII

4. PGS.TS. BÙI THỊ HUYỀN

Chƣơng II

5. TS. TRẦN PHƢƠNG THẢO

Chƣơng VI

6. PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN

Chƣơng V

4


LỜI GIỚI THIỆU
Thi hành án dân sự là một trong những nội dung cơ bản
của tư pháp dân sự, có tác động trực tiếp tới hiệu quả của việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể thông qua
hoạt động tư pháp. Vì vậy, thi hành án dân sự luôn được Nhà
nước và xã hội quan tâm.
Thời gian qua, cùng với những thành tựu của công cuộc
cải cách tư pháp, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở
nước ta cũng đã có nhiều tiến bộ và ngày càng có hiệu quả.
Tuy vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động thi hành
án dân sự, ngày 14 tháng 11 năm 2008 tại kì họp thứ 4 Quốc

hội Khoá XII đã thông qua Luật thi hành án dân sự và ngày 25
tháng 11 năm 2014 tại kì họp thứ 8 Quốc hội Khoá XIII đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành
án dân sự. Việc Nhà nước ban hành Luật thi hành án dân sự
Việt Nam và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi
hành án dân sự đã đánh dấu bước phát triển mới của pháp
luật thi hành án dân sự Việt Nam và kịp thời đáp ứng nhu cầu
điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ phát sinh trong
thi hành án dân sự.
Trong chương trình đào tạo cử nhân luật, Luật thi hành án
dân sự Việt Nam là môn học giáo dục chuyên nghiệp. Để đáp
ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật thi
5


hành án dân sự của các sinh viên, cán bộ giảng dạy, nghiên
cứu và hoạt động thực tiễn pháp luật, tập thể giảng viên Bộ
môn luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội đã
biên soạn cuốn Giáo trình luật thi hành án dân sự Việt Nam.
Nội dung cuốn Giáo trình này bao gồm bảy chương trình bày
những vấn đề lí luận cơ bản về luật thi hành án dân sự như
khái niệm luật thi hành án dân sự, nguồn của luật thi hành án
dân sự, quan hệ pháp luật thi hành án dân sự, xã hội hoá thi
hành án dân sự v.v.. Ngoài ra, còn phân tích làm rõ các quy
định của pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành về
thời hiệu, thẩm quyền và nguyên tắc thi hành án dân sự; nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thi
hành án dân sự; đối tượng, thẩm quyền và thủ tục thi hành án
dân sự v.v.. Hi vọng cuốn Giáo trình này sẽ đáp ứng được yêu
cầu của các độc giả quan tâm đến luật thi hành án dân sự.

Mặc dù tập thể tác giả đã cố gắng trình bày các vấn đề về
luật thi hành án dân sự trong cuốn Giáo trình một cách rõ
ràng và có hệ thống nhưng vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến góp ý của bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BPKCTT
BLTTDS

Biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

LCT

Luật cạnh tranh

LTHADS

Luật thi hành án dân sự


LSĐBSLTHADS Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành
án dân sự
LTCTAND

Luật tổ chức toà án nhân dân

LTCVKSND

Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân

LTTTM

Luật trọng tài thƣơng mại

PLTHADS

Pháp lệnh thi hành án dân sự

TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

7


8



CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
VỀ LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƢỢNG ĐIỀU CHỈNH, PHƢƠNG
PHÁP ĐIỀU CHỈNH VÀ NGUỒN CỦA LUẬT THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm luật thi hành án dân sự Việt Nam
Quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng
sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Việc giải quyết vụ
việc dân sự tại toà án tuy rất quan trọng nhƣng thực ra mới
chỉ là giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự. Trong giai đoạn này, toà án mới chỉ làm
rõ các tình tiết của vụ việc dân sự và áp dụng các quy phạm
pháp luật quyết định quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự.
Quyền và nghĩa vụ của các đƣơng sự trong vụ việc dân sự đã
đƣợc toà án, trọng tài, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh quyết
định muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi
hành án. Trong đó, ngƣời có quyền thi hành án yêu cầu ngƣời
có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án
của họ đối với mình và ngƣời có nghĩa vụ thi hành án phải
thực hiện nghĩa vụ của mình vì lợi ích của ngƣời có quyền thi
hành án. Do vậy, theo nghĩa chung thì thi hành án dân sự là
9


thực hiện bản án, quyết định dân sự của toà án, trọng tài, hội
đồng xử lí vụ việc cạnh tranh.
Thi hành án dân sự xuất phát và gắn liền với hoạt động xét

xử của toà án, trọng tài, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh. Tuy
vậy, theo nghĩa một thuật ngữ pháp lí thì còn có các ý kiến
khác nhau về thi hành án dân sự.(1) Ý kiến thứ nhất cho rằng thi
hành án dân sự là một dạng của hoạt động hành chính, bởi thi
hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành
mà điều hành và chấp hành là đặc trƣng của hoạt động hành
chính. Mặt khác, thi hành án dân sự ở nƣớc ta lại không do toà
án - cơ quan tƣ pháp tổ chức. Ý kiến thứ hai cho rằng thi hành
án dân sự là một dạng của hoạt động hành chính-tƣ pháp vì thi
hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành
quyết định của toà án - cơ quan tƣ pháp, trọng tài, hội đồng xử lí
vụ việc cạnh tranh. Hơn nữa, trong quá trình thi hành án dân sự
còn phải tiến hành các hoạt động mang tính hành chính nhƣ
chứng thực bản sao giấy tờ, việc uỷ quyền thi hành án dân sự,
trƣớc bạ chuyển quyền sở hữu nhà cho ngƣời đƣợc thi hành án
v.v.. Ý kiến thứ ba lại cho rằng thi hành án dân sự là một dạng
của hoạt động tƣ pháp vì thi hành án dân sự gắn liền với hoạt
động xét xử, mang tính tài sản, độc lập và do cơ quan tƣ pháp
có thẩm quyền tổ chức thực hiện. Qua nghiên cứu, chúng tôi
thấy ý kiến này là có cơ sở khoa học hơn cả.
(1).Xem: Công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nƣớc “Luận cứ khoa học và
thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong
giai đoạn mới” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc Bộ tƣ pháp chủ trì
thực hiện năm 2003, tr. 13; Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ “Những
quan điểm cơ bản về BLTTDS Việt Nam” do Viện nhà nƣớc và pháp luật thuộc
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia chủ trì thực hiện năm 2001,
tr. 63 và Tạp chí luật học, số 2/2001, tr. 22.

10



Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, giải quyết
tranh chấp vì xét xử, giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự
là hai mặt của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự. Xét xử, giải quyết tranh chấp là tiền đề của thi hành
án dân sự, không có xét xử thì không có thi hành án dân sự.
Ngƣợc lại, thi hành án dân sự tiếp nối với xét xử làm cho bản
án, quyết định có hiệu lực trên thực tế nên có tác dụng củng cố
kết quả xét xử.
Thi hành án dân sự mang tính tài sản - đặc trƣng của quan
hệ dân sự. Trên thực tế, phần lớn các bản án, quyết định dân sự
đƣợc đƣa ra thi hành đều quyết định các vấn đề về tài sản nhƣ
chia thừa kế, trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
v.v.. Thông qua thi hành án dân sự, ngƣời phải thi hành án phải
thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của họ và ngƣời đƣợc thi
hành án dân sự sẽ nhận đƣợc các quyền, lợi ích về tài sản.
Thi hành án dân sự mang tính độc lập - đặc trƣng của hoạt
động tƣ pháp. Thi hành án là quá trình diễn ra phức tạp, trong đó
cơ quan thi hành án dân sự thƣờng phải chịu áp lực, tác động từ
nhiều phía. Để bảo đảm hiệu quả của thi hành án dân sự thì cơ
quan thi hành án dân sự và chấp hành viên phải đƣợc độc lập và
không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đƣợc can thiệp trái pháp
luật vào quá trình thi hành án dân sự. Vì vậy, khác với các văn
bản quy phạm pháp luật quy định về thi hành án dân sự đƣợc
ban hành trƣớc, Pháp lệnh thi hành án dân sự (PLTHADS) năm
2004 và Luật thi hành án dân sự (LTHADS) đã quy định cơ quan
thi hành án dân sự tách khỏi các cơ quan tƣ pháp địa phƣơng,
không phụ thuộc về tổ chức và quản lí của các cơ quan này.
Thi hành án dân sự do cơ quan thi hành án dân sự - cơ quan
11



tƣ pháp tổ chức thực hiện. Việc thực hiện quyền tƣ pháp của
Nhà nƣớc do nhiều cơ quan tƣ pháp thực hiện và toà án chỉ là
một trong các cơ quan đó. Cơ quan thi hành án dân sự có chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện quyền tƣ pháp của Nhà
nƣớc cho nên cơ quan thi hành án dân sự là một trong các cơ
quan tƣ pháp. Để xã hội hoá thi hành án, các văn phòng thừa
phát lại cũng đƣợc tổ chức thi hành án đối với một số bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành. Tuy vậy, việc tổ chức thi hành
án dân sự của văn phòng thừa phát lại trong một số trƣờng hợp
vẫn chịu sự kiểm soát của cơ quan thi hành án dân sự nhƣ
trƣờng hợp cƣỡng chế thi hành án dân sự.(1)
Ngoài ra, để thực hiện các bản án, quyết định đƣợc đƣa ra
thi hành thì trong quá trình thi hành án dân sự đôi khi các chủ
thể tham gia thi hành án còn phải tiến hành các hoạt động nhƣ
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chứng thực bản sao giấy tờ,
việc uỷ quyền thi hành án, trƣớc bạ chuyển quyền sở hữu nhà
cho ngƣời đƣợc thi hành án v.v.. Tuy vậy, những hoạt động
này không phải là hoạt động cơ bản, chỉ mang tính bổ trợ cho
việc thi hành bản án, quyết định dân sự.
Thi hành án dân sự là nhằm mục đích đƣa bản án, quyết
định dân sự ra thực hiện trên thực tế. Do vậy, đối tƣợng thi
hành án dân sự trƣớc hết phải là các bản án, quyết định giải
quyết các vụ việc dân sự, sau đó là các quyết định về tài sản
trong các bản án hình sự, hành chính của toà án. Hiện nay, nhìn
(1).Xem: Nghị định của Chính phủ số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức
và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm ở Thành phố Hồ Chí Minh; Nghị
định của Chính phủ số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi
và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và

hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh.

12


chung pháp luật về thi hành án dân sự của các nƣớc trên thế
giới đều quy định đối tƣợng thi hành án dân sự theo hƣớng
này. Tuy vậy, pháp luật về thi hành án dân sự của một số nƣớc
lại quy định đối tƣợng thi hành án dân sự bao gồm cả các quyết
định giải quyết tranh chấp về tài sản của cơ quan, tổ chức khác
nhƣ quyết định của cơ quan thuế (Thuỵ Điển), quyết định của
trọng tài (Pháp, Đức và Thuỵ Điển) hoặc các thoả thuận về
quyền, nghĩa vụ dân sự của các đƣơng sự (Pháp, Nhật Bản). Sở
dĩ ở nhiều nƣớc pháp luật về thi hành án dân sự quy định đối
tƣợng thi hành án dân sự bao gồm cả các quyết định của các cơ
quan, tổ chức khác và các thoả thuận về quyền, nghĩa vụ dân
sự của các đƣơng sự vì theo pháp luật về thi hành án dân sự
của các nƣớc này toà án là cơ quan có quyền hạn, nhiệm vụ
quản lí thi hành án và ra quyết định thi hành án. Mặt khác, đây
đều là các quyết định giải quyết tranh chấp về tài sản hay thoả
thuận về quyền, nghĩa vụ đối với tài sản và trƣớc khi ra quyết
định thi hành án toà án đã xem xét tính hợp pháp và tính có căn
cứ của chúng. Do vậy, về hình thức tuy là thi hành quyết định
của các cơ quan, tổ chức khác hoặc sự thoả thuận của các
đƣơng sự nhƣng về nội dung thực chất vẫn là thi hành quyết
định dân sự của toà án.
Ở Việt Nam, trƣớc ngày 01/7/2003, đối tƣợng thi hành án
dân sự bao gồm bản án, quyết định dân sự của toà án.. Tuy
vậy, từ ngày 01/7/2003, đối tƣợng thi hành án dân sự bao gồm
cả quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài thƣơng mại

Việt Nam (Điều 57 Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003).
Sau đó, Điều 67 Luật trọng tài thƣơng mại năm 2010
(LTTTM), Điều 2 PLTHADS năm 2004 và Điều 121 Luật
cạnh tranh năm 2004 quy định quyết định của trọng tài thƣơng
13


mại, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh cũng đƣợc thi hành theo
thủ tục thi hành án dân sự. Kế thừa các quy định này, Điều 1
LTHADS năm 2008 tiếp tục quy định đối tƣợng thi hành án
dân sự bao gồm bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch
thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lí vật
chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết
định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính
của toà án, bản án, quyết định dân sự của toà án nƣớc ngoài,
quyết định của trọng tài nƣớc ngoài đƣợc toà án công nhận và
cho thi hành ở Việt Nam, quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh
có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của hội đồng
xử lí vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thƣơng mại
Việt Nam. Vì vậy, theo nghĩa pháp lí thì thi hành án dân sự là
một dạng hoạt động tƣ pháp trong việc thực hiện bản án, quyết
định dân sự của toà án và các quyết định của các cơ quan, tổ
chức khác đƣợc đƣa ra thi hành theo quy định của pháp luật.
Quá trình thi hành án dân sự có sự tham gia của nhiều cá
nhân, cơ quan, tổ chức nên đã phát sinh nhiều mối quan hệ
khác nhau giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác liên quan đến việc thi hành án. Trong đó,
mỗi chủ thể tham gia vào quá trình này với những động cơ,
mục đích riêng. Mặt khác, thực tế thi hành án dân sự cũng cho
thấy nhiều ngƣời phải thi hành án đã chây ỳ, không chịu thực

hiện nghĩa vụ thi hành án của họ làm cho cơ quan thi hành án
dân sự buộc phải tổ chức cƣỡng chế thi hành án nên dễ xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của những ngƣời liên quan
đến thi hành án. Để bảo đảm việc thi hành án dân sự có hiệu
quả, bảo vệ đƣợc lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi hành
14


án dân sự Nhà nƣớc phải đặt ra các quy phạm pháp luật quy
định cụ thể những vấn đề liên quan đến thi hành án dân sự nhƣ
thời hiệu yêu cầu thi hành án, thẩm quyền thi hành án, quyền
và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia thi
hành án, trình tự, thủ tục yêu cầu thi hành án, thụ lí đơn yêu
cầu thi hành án, ra quyết định thi hành án, áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án, áp dụng biện pháp cƣỡng chế thi hành án,
khiếu nại, tố cáo và kháng nghị về thi hành án v.v.. Trƣớc đây,
hoạt động thi hành án dân sự đƣợc xem là một dạng của hoạt
động tố tụng dân sự cho nên tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức phát sinh trong quá trình thi hành án
dân sự đƣợc coi là chế định cơ bản của luật tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, theo xu thế phát triển của khoa học pháp lí ở Việt Nam
các ngành luật ngày càng đƣợc chia nhỏ hơn, theo đó tập hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
một lĩnh vực nhất định cũng có thể trở thành ngành luật độc
lập. Thi hành án dân sự có sự độc lập tƣơng đối và có nhiệm
vụ khác với việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong thi hành án
dân sự, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền không xem xét lại
vụ việc dân sự, không ra quyết định giải quyết lại nội dung vụ

việc dân sự mà chỉ áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tổ
chức thực hiện các quyết định trong bản án, quyết định dân sự
đƣợc đƣa ra thi hành. Các hành vi của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân tham gia thi hành án dân sự cũng chỉ nhằm thực hiện
các quyết định trong bản án, quyết định dân sự đƣợc đƣa ra thi
hành và không có mục đích làm sáng tỏ vụ việc nhƣ trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự. Do đó, tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân
15


sự, văn phòng thừa phát lại với đƣơng sự, cá nhân, cơ quan và
tổ chức phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự có thể
thành một ngành luật - Luật thi hành án dân sự.
Luật thi hành án dân sự Việt Nam là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với đương sự, cơ quan, tổ
chức và cá nhân liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát
sinh trong quá trình thi hành án dân sự nhằm bảo đảm việc thi
hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
2. Đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự
Việt Nam
Tham gia vào quá trình thi hành án dân sự ngoài cơ quan
thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại, các đƣơng sự còn
có các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Vì vậy, các quan hệ phát
sinh trong quá trình thi hành án dân sự khá đa dạng, bao gồm:
Các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa
phát lại với đƣơng sự; các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân
sự, văn phòng thừa phát lại với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên

quan đến việc thi hành án dân sự; các quan hệ giữa cơ quan thi
hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với toà án, viện kiểm
sát, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh và trọng tài; các quan hệ
giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với
nhau và các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng
thừa phát lại với cơ quan quản lí công tác thi hành án. Ngoài ra,
để thực hiện bản án, quyết định của toà án trong một số trƣờng
hợp còn phát sinh các quan hệ khác nhƣ quan hệ giữa các
đƣơng sự với cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan.
16


Tuy vậy, để bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án dân sự,
luật thi hành án dân sự Việt Nam chỉ quy định quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ mà việc thực hiện
có ý nghĩa trực tiếp đối với việc thi hành bản án, quyết định
đƣợc đƣa ra thi hành. Đối với quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia vào các quan hệ mà việc thực hiện tuy có ý nghĩa
đối với việc thi hành án nhƣng không mang tính trực tiếp nhƣ
quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với cơ quan quản lí
công tác thi hành án dân sự, quan hệ giữa đƣơng sự với các cơ
quan nhà nƣớc khác trong việc thực hiện một số công việc nhƣ
công chứng, chứng thực việc uỷ quyền, bản sao giấy tờ liên
quan đến thi hành án, việc đăng kí trƣớc bạ, sang tên, công
nhận quyền sở hữu nhà ở của nguyên đơn tại cơ quan quản lí
nhà đất sau khi toà án xử chấp nhận yêu cầu đƣợc sở hữu nhà ở
của nguyên đơn v.v. thì không do luật thi hành án quy định.
Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự
Việt Nam là các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn
phòng thừa phát lại với đương sự, cơ quan, tổ chức và cá nhân

liên quan đến việc thi hành án dân sự phát sinh trong quá trình
thi hành án dân sự.
Đối tƣợng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự Việt Nam
là tiêu chí cơ bản để phân biệt luật thi hành án dân sự với các
ngành luật khác. Tuy cũng là các quan hệ phát sinh giữa cơ
quan nhà nƣớc với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác nhƣ
quan hệ pháp luật hành chính, quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự, quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nhƣng các quan hệ thuộc
đối tƣợng điều chỉnh luật thi hành án dân sự Việt Nam có một
số đặc trƣng cơ bản sau đây:
- Các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật thi hành
17


án dân sự phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự, từ khi
đƣơng sự thực hiện quyền yêu cầu thi hành án đến khi kết thúc
thi hành án. Đối với trƣờng hợp cơ quan thi hành án dân sự chủ
động thi hành án, quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật thi
hành án dân sự phát sinh từ khi toà án chuyển giao bản án, quyết
định cho cơ quan thi hành án dân sự.
- Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật thi hành án
dân sự có tác dụng trực tiếp đối với việc thi hành bản án, quyết
định đƣợc đƣa ra thi hành.
- Một bên chủ thể của quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh
của luật thi hành án dân sự là cơ quan thi hành án dân sự hoặc
văn phòng thừa phát lại còn bên kia là đƣơng sự hoặc cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác.
Các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật thi hành
án dân sự rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các

mối quan hệ này có thể chia đối tƣợng điều chỉnh của luật thi
hành án dân sự thành ba nhóm:
- Nhóm thứ nhất bao gồm các quan hệ giữa cơ quan thi
hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các đƣơng sự.
- Nhóm thứ hai bao gồm các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các cá nhân, cơ quan và
tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự.
- Nhóm thứ ba bao gồm các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với toà án, trọng tài, hội
đồng xử lí vụ việc cạnh tranh và viện kiểm sát.
Trong các nhóm quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của
luật thi hành án dân sự thì nhóm quan hệ giữa cơ quan thi hành
18


án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các đƣơng sự mang tính
phổ biến, bởi đƣơng sự là ngƣời có quyền hoặc nghĩa vụ thi
hành án dân sự còn cơ quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ và
quyền hạn tổ chức thi hành án dân sự. Để bảo đảm việc thi
hành án nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ đƣợc lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trƣớc hết
pháp luật phải điều chỉnh quan hệ này. Đối với các quan hệ
khác, cũng có thể phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự
nhƣng không phải trƣờng hợp nào cũng có. Tuy vậy, để nâng
cao đƣợc hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, pháp luật thi
hành án dân sự phải điều chỉnh cả các quan hệ này.
3. Phương pháp điều chỉnh của luật thi hành án dân sự
Việt Nam
Phƣơng pháp điều chỉnh của luật thi hành án dân sự là tổng
hợp những cách thức mà luật thi hành án dân sự tác động lên

các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của nó. Do đối tƣợng
điều chỉnh của luật thi hành án dân sự khá đa dạng và trong thi
hành án dân sự các đƣơng sự vẫn có quyền quyết định quyền
lợi của họ nên luật thi hành án dân sự Việt Nam điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự bằng hai
phƣơng pháp là mệnh lệnh và định đoạt.
Luật thi hành án dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong quá trình thi hành án dân sự bằng phƣơng pháp mệnh
lệnh thể hiện ở chỗ quy định địa vị pháp lí của cơ quan thi
hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại hoàn toàn khác với địa
vị pháp lí của các chủ thể khác. Trong quá trình thi hành án
dân sự, các chủ thể khác đều phải phục tùng cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại. Quyết định của cơ quan thi
19


hành án dân sự đƣợc đƣa ra trong quá trình thi hành án dân sự
các chủ thể khác đều phải thực hiện, nếu không sẽ bị cƣỡng
chế thực hiện. Sở dĩ pháp luật thi hành án dân sự quy định các
chủ thể khác phải nghiêm chỉnh thực hiện quyết định của cơ
quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại là xuất phát
từ yêu cầu của công tác thi hành án dân sự. Trong thi hành án
dân sự, việc can thiệp của cơ quan thi hành án dân sự, văn
phòng thừa phát lại là rất cần thiết, là yếu tố bảo đảm cho việc
thi hành án dân sự đƣợc thực hiện. Thực tế đã chứng minh,
trong nhiều trƣờng hợp, nếu không có sự can thiệp của cơ quan
thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại thì việc thi hành án
dân sự sẽ không thể thực hiện đƣợc. Ngoài ra, cơ quan thi hành
án dân sự là cơ quan nhà nƣớc, văn phòng thừa phát lại là tổ
chức có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thi hành án dân sự và

đƣợc thực hiện quyền lực của Nhà nƣớc để tổ chức thi hành án
dân sự. Để các cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa
phát lại thực hiện đƣợc chức năng, nhiệm vụ Nhà nƣớc giao thì
các cơ quan này phải có những quyền lực pháp lí nhất định đối
với các chủ thể khác. Do đó, ở các quan hệ do luật thi hành án
dân sự điều chỉnh không có sự bình đẳng giữa cơ quan thi hành
án dân sự, văn phòng thừa phát lại với các chủ thể khác.
Ngoài phƣơng pháp mệnh lệnh, luật thi hành án dân sự Việt
Nam cũng điều chỉnh các quan hệ phát sinh quá trình thi hành
án dân sự bằng phƣơng pháp định đoạt. Theo đó, trong quá
trình thi hành án dân sự, các đƣơng sự vẫn đƣợc tự quyết định
quyền, lợi ích hợp pháp của họ và việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Khi bản án, quyết định đƣợc thi hành, các
đƣơng sự có quyền tự quyết định việc thi hành án dân sự nhƣ
yêu cầu đƣơng sự bên kia hoặc cơ quan thi hành án dân sự tổ
20


chức thi hành án. Trong quá trình thi hành án dân sự, các
đƣơng sự vẫn có thể thƣơng lƣợng, thoả thuận việc thi hành án,
tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa. Sở dĩ luật
thi hành án dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thi hành án dân sự bằng cả phƣơng pháp định đoạt vì bản
chất của thi hành án dân sự là việc các đƣơng sự thực hiện các
quyền dân sự của họ. Trong giao lƣu dân sự, các đƣơng sự có
quyền tự quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì khi
thực hiện quyền dân sự trong thi hành án dân sự họ cũng phải
có quyền tự quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Nhƣ vậy, luật thi hành án dân sự điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong quá trình thi hành án bằng cả phƣơng pháp

mệnh lệnh và phƣơng pháp định đoạt. Tuy nhiên, do yêu cầu
của thi hành án dân sự nên phƣơng pháp mệnh lệnh là phƣơng
pháp đƣợc sử dụng chủ yếu nhất.
4. Nguồn của luật thi hành án dân sự Việt Nam
Các văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hình
thức thể hiện ý chí của Nhà nƣớc trong quản lí xã hội nên đƣợc
coi là nguồn cơ bản của luật. Nguồn của luật thi hành án dân
sự Việt Nam bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành
án dân sự, toà án, viện kiểm sát, các đƣơng sự và những ngƣời
khác tham gia vào quá trình thi hành án dân sự. Các văn bản
quy phạm pháp luật là nguồn của luật thi hành án dân sự Việt
Nam hiện nay bao gồm nhiều loại nhƣ Hiến pháp, Bộ luật tố
tụng dân sự (BLTTDS), Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân
(LTCVKSND), LTHADS, các nghị quyết của Quốc hội, các nghị
định của Chính phủ và quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ, các
21


thông tƣ và thông tƣ liên bộ quy định về thi hành án dân sự.
- Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc, quy định về
chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, thể chế hoá mối
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nƣớc
quản lí. Các văn bản quy phạm pháp luật khác đƣợc Nhà nƣớc
ban hành nhằm cụ thể hoá các quy định của hiến pháp. Hiện
nay, Hiến pháp năm 1992 là nguồn quan trọng của luật thi
hành án dân sự Việt Nam. Trong Hiến pháp năm 1992 có các

quy định về nguyên tắc thi hành án dân sự nhƣ quy định về
hiệu lực của bản án, quyết định (Điều 136), quy định về kiểm
sát các hoạt động thi hành án dân sự (Điều 137) v.v.. Trên cơ
sở quy định này của Hiến pháp năm 1992, các văn bản quy
phạm pháp luật thi hành án dân sự quy định cụ thể về thời
hiệu, thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong thi
hành án dân sự và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
- BLTTDS quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự là cơ bản. Tuy vậy, trong
BLTTDS năm 2015 có Phần thứ chín có 9 điều luật, từ Điều
482 đến Điều 488 quy định các vấn đề về thi hành án dân sự
nhƣ các bản án, quyết định đƣợc thi hành; ghi nhận và giải
thích về quyền yêu cầu thi hành án dân sự; thời hạn chuyển
giao bản án, quyết định; giải thích, sửa chữa bản án, quyết định
của toà án; giải quyết yêu cầu, kiến nghị đối với bản án, quyết
định của toà án; thẩm quyền, thủ tục xét miễn, giảm nghĩa vụ
thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nƣớc của toà
án v.v.. Đây là các quy định mang tính chất chung, tính nguyên
tắc về thi hành án dân sự và vì vậy BLTTDS là một trong các
22


nguồn cơ bản của luật thi hành án dân sự Việt Nam.
- LTCVKSND chủ yếu quy định về tổ chức của viện kiểm
sát. Tuy vậy, trong LTCVKSND cũng có những quy định về
thi hành án dân sự nhƣ quy định về kiểm sát các hoạt động thi
hành án dân sự (Điều 6, Điều 28 LTCVKSND năm 2014), do
đó các văn bản quy phạm pháp luật này cũng là một trong các
nguồn của luật thi hành án dân sự Việt Nam.
- LTHADS là văn bản quy phạm pháp luật quy định trực

tiếp và hệ thống tất cả các vấn đề liên quan đến thi hành án dân
sự nhƣ đối tƣợng thi hành án dân sự, nguyên tắc thi hành án
dân sự, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân trong thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án
dân sự, thẩm quyền thi hành án dân sự, thủ tục thi hành án dân
sự, biện pháp bảo đảm và biện pháp cƣỡng chế thi hành án dân
sự, khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự, việc xử lí các
hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự v.v.. Vì vậy,
hiện nay LTHADS là nguồn cơ bản và quan trọng nhất của luật
thi hành án dân sự Việt Nam. Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật thi hành án dân sự (LSĐBSLTHADS)
năm 2014 cũng là một nguồn cơ bản quan trọng của luật thi
hành án dân sự Việt Nam.
- Nghị quyết của Quốc hội, nghị định của Chính phủ, quyết
định của Thủ tƣớng Chính phủ, thông tƣ của các bộ và thông
tƣ liên bộ cũng là những nguồn của luật thi hành án dân sự
Việt Nam. Đây là các văn bản quy phạm pháp luật hƣớng dẫn
thi hành LTHADS. Nội dung của các văn bản này bao gồm các
quy định chi tiết hoá, cụ thể hoá các quy định của LTHADS
nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng và có hiệu quả các quy
định của LTHADS.
23


II. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Vai trò của luật thi hành án dân sự Việt Nam
Là ngành luật trong hệ thống pháp luật của nƣớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luật thi hành án dân sự Việt Nam
có vai trò bảo đảm việc thực hiện đƣờng lối, chính sách của

Đảng về phát triển kinh tế, xã hội đồng thời bảo đảm việc thi
hành án dân sự có hiệu quả và nâng cao đƣợc ý thức pháp luật
của các chủ thể trong xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định sự phát triển
của xã hội. Ở nƣớc ta, đƣờng lối, chính sách của Đảng là kim
chỉ nam cho các hoạt động xã hội. Pháp luật có vai trò thể chế
hoá các đƣờng lối, chính sách của Đảng để mọi ngƣời thực
hiện. Khi Đảng chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội,
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm cho dân
giàu, nƣớc mạnh thì pháp luật nói chung và luật thi hành án
dân sự nói riêng càng có vai trò quan trọng. Các quan điểm, tƣ
tƣởng của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội, cải cách tƣ pháp
ngày nay đƣợc quán triệt trong các quy định của luật thi hành
án dân sự buộc các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện là
yếu tố rất quan trọng trong việc thực hiện đƣờng lối, chính
sách của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội và đặc biệt là đối
với việc thực hiện mục tiêu cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta:“Xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lí, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.(1)
(1). Xem: Mục I Nghị quyết của Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ƣơng Đảng
cộng sản Việt Nam khoá IX số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp đến năm 2020.

24


Quá trình thi hành án dân sự bao gồm nhiều công việc khác
nhau, nảy sinh các quan hệ khác nhau giữa các chủ thể tham
gia vào quá trình này. Trong đó, mỗi chủ thể tham gia vào các

quan hệ này với những động cơ, mục đích và nhiệm vụ khác
nhau nên rất phức tạp. Vì vậy, các quy định của luật thi hành
án dân sự Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, thời
hiệu thi hành án, thẩm quyền thi hành án, thủ tục thi hành án,
thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm và biện pháp cƣỡng chế
thi hành án v.v. có tác dụng điều chỉnh các quan hệ quan hệ
phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự bảo đảm đƣợc hiệu
quả của việc thi hành án dân sự.
Ngoài ra, luật thi hành án dân sự Việt Nam còn quy định cả
cơ chế giám sát, kiểm sát các hoạt động thi hành án dân sự,
trách nhiệm pháp lí của các chủ thể trong việc tổ chức hoặc
tham gia thi hành án dân sự v.v.. Các quy định này vừa có tác
dụng nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự vừa có tác dụng
nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tổ chức hoặc tham gia thi
hành án dân sự, mặt khác còn góp phần nâng cao đƣợc ý thức
pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
2. Nhiệm vụ của luật thi hành án dân sự Việt Nam
Nhận thức đƣợc vai trò to lớn của luật thi hành án dân sự
Việt Nam, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật Nhà nƣớc
ta đã ban hành nhƣ BLTTDS, PLTHADS, LTHADS v.v.. đều
có quy định về các nhiệm vụ của luật thi hành án dân sự. Theo
quy định của các văn bản quy phạm pháp luật này thì luật thi
hành án dân sự Việt Nam có các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, luật thi hành án dân sự Việt Nam có nhiệm vụ
thể chế hoá đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc trong
25


×