Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

tranh chấp về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân quận hải châu thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.63 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
----------

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:

TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ VÀ THỰC TIỄN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN HẢI CHÂU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Lê
Lớp: 42k13
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Đỗ Trần Hà Linh
Đơn vị thực tập: Tòa án nhân dân quận Hải Châu Thành
phố Đà Nẵng.

Đà Nẵng, ngày 25 tháng 04 năm 2020


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

MỤC LỤC

2


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.



LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, cho phép em gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giảng viên Ths. Đỗ Trần Hà Linh,
người đã luôn bên cạnh giúp đỡ đưa ra những ý kiến, nhận xét, chỉ ra những lỗi sai giúp
em hoàn thành một cách tốt nhất Chuyên đề thực tập lần này.
Tiếp theo, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn bộ giảng viên của Trường Đại Học
Kinh Tế- Đại Học Đà Nẵng, đặc biệt là những thầy cô trong khoa Luật, những người đã
luôn tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức hữu ích trong suốt quá trình em học
tập và rèn luyện tại trường.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà
Nẵng đã tạo điều kiện để em được phép thực tập tại đây, được gặp và làm việc với những
anh chị, cô chú trong ngành, được mọi người giúp đỡ nhiệt tình, giúp em có được cái
nhìn đúng đắn nhất về ngành nghề đang học cũng như được cọ xát thực tế nhất với công
việc.

Đà Nẵng, ngày 25 tháng 04 năm 2020.

Sinh viên Phạm Thị Lê

3


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

4


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13


Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nhập hóa- toàn cầu hóa là xu hướng hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam cũng không ngoại lệ, hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển. Ở thành
phố cũng như hầu hết nông thôn, mạng lưới dịch vụ phát triển tương đối mạnh mẽ để
phục vụ cho nhu cầu của nhân dân và nó đã trở thành một xu thế khách quan chi phối sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính vì thế mà nhu cầu tất yếu là cần có một cơ
sở pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện các giao dịch này. Hợp đồng là một là một lựa
chọn hàng đầu đối với các nhà đầu tư. Hầu như, đa số các giao dịch đều được cụ thể hóa
dưới hình thức hợp đồng, nó là căn cứ nhằm ràng buộc các bên vào những gì mà họ đã
cam kết, để khi có tranh chấp xảy ra thì đó là một trong các căn cứ quan trọng để xác
định trách nhiệm của các bên. Gắn liền với những quy định về hoạt động cung ứng dịch
vụ là những quy định về hợp đồng dịch vụ - loại hợp đồng được ký kết rất nhiều trong
thực tế. Hợp đồng dịch vụ xuất hiện, đó là sự thỏa thuận của bên cung ứng dịch vụ và bên
thuê dịch vụ, các hợp đồng về mua bán hàng hóa, dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn trong
tổng số các loại hợp đồng mà các doanh nghiệp thực hiện, vì trên thực tế hiện nay thì nền
kinh tế dịch vụ và mua bán hàng hóa mang lại một doanh thu khổng lồ cho nền kinh tế
quốc dân các nước. Một khi có sự liên kết giữa các chủ thể khác nhau thì vấn đề tranh
chấp là không thể tránh khỏi. Để phục vụ cho vấn đề này thì nước ta cũng đưa ra những
quy định pháp luật cụ thể để quản lý chặt chẽ hơn. Bộ luật dân sự năm 2015, cũng như
luật thương mại 2005 đã có những quy định để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp
đồng dịch vụ. Hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng dân sự, vì vậy nó mang các đặc
điểm của hợp đồng dân sự và ngoài ra nó cũng mang những đặc điểm riêng biệt. Cũng
bởi tính phổ biến của nó và những đặc điểm riêng mà các tranh chấp liên quan đến hợp
đồng dịch vụ ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Hiện tại, em đang theo thực tập tại Tòa
án nhân dân quận Hải Châu thành phố đà nẵng, để hiểu hơn về loại hợp đồng dịch vụ
cũng như cách giải quyết tranh chấp như thế nào, em đã chọn chủ đề “Tranh chấp về hợp

đồng dịch vụ và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành
phố Đà Nẵng” để nghiên cứu, tìm hiểu kĩ để hiểu hơn về vấn đề này.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi chúng ta muốn nghiên cứu tìm hiểu về một vấn đề nào đó, chắc hẳn đó sẽ là một chủ
đề mà ta quan tâm, muốn biết rõ hơn về chúng. Mục đích trước tiên chắc chắn sẽ là giải
đáp thắc mắc của chính bản thân mình. Tiếp theo đó, đây là một lĩnh vực mà em nghĩ sau
này sẽ theo đuổi, một công việc chính thức của bản thân nên việc tìm hiểu về chúng sẽ
góp một phần nào đó hiểu rõ hơn về thực trạng hiện tại cũng như những luật lệ mà pháp
luật qui định, hạn chế tối đa mắc phải những lỗi mà pháp luật cấm. Và mục đích cụ thể
hơn ở bài luận này là nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến hợp đồng
5


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

dịch vụ. Trên cơ sở đó sẽ phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và thực tiễn
thực hiện pháp luật ở nước ta, cụ thể là tại tòa án nhân dân quận Hải Châu Thành phố Đà
Nẵng. Từ đó, đưa ra những đánh giá và những giải pháp để góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là về tranh chấp hợp đồng dịch vụ và thực tiễn giải quyết tranh
chấp tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng.
-

Phạm vi nghiên cứu:

Những qui định của pháp luật hiện hành về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn giải quyết tranh

chấp tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng.
Không gian: Trên địa bàn quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng.
Thời gian: Từ năm 2014 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu được thực hiện dựa trên những phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp,
liệt kê, qui nạp, diễn dịch… Và trong quá trình thực hiện đề tài có tìm hiểu, tiếp thu chọn
lọc những kết quả nghiên cứu, các đánh giá, tổng kết của các chuyên gia về những vấn
đề pháp lý và thực tiễn về hợp đồng dịch vụ trên địa bàn quận HảiChâu thành phố Đà
Nẵng.
5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục chữ viết tắt, phụ
lục,… thì bài báo cáo được chia làm 3 chương với nội dung cụ thể:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ và giải quyết tranh chấp hợp đồng
dịch vụ
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng của việc tranh chấp hợp đồng dịch
vụ tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Kiến nghị và giải pháp về tranh chấp hợp đồng dịch vụ.

6


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

NỘI DUNG
Chương 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
1.1. Hợp đồng dịch vụ
1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm hợp đồng
1.1.1.1.
Khái niệm hợp đồng
Để hiểu đúng nhất về một vấn đề cụ thể nào thì điều đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu đó
chính là nguồn gốc của chúng. Hợp đồng dịch vụ cũng vậy, khi chúng ta muốn đi sâu vào
để hiểu nội dung, tính chất của nó trước hết chúng ta cần hiểu được thế nào là hợp đồng
bởi lẽ hợp đồng dịch vụ trước hết là một loại hợp đồng. Từ khi xuất hiện đến nay, hợp
đồng có rất nhiều tên gọi khác nhau như hợp đồng, khế ước, thỏa thuận,… được thiết lập
dựa trên sự thỏa thuận của các bên trong mối quan hệ ký kết hợp đồng.
Ở mỗi quốc gia, hợp đồng có những cách hiểu riêng. Cụ thể, trong pháp luật La Mã, hợp
đồng được coi là “ Hình thức thể hiện ý chí của các giao dịch song phương và việc xác
lập chúng có thể trực tiếp là xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ” 1
(1).Trong Bộ luật dân sự pháp (Điều 1011) thì hợp đồng được định nghĩa như sau: “ Hợp
đồng là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không
làm một việc nào đó 2 (2). Đối với Bộ luật dân sự Nga Năm 1994 thì: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự ”3 (3).Bộ Luật dân sự Trung Quốc quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận về
việc xác lập , thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng,
tự nhiên nhân, pháp nhân và các tổ chức khác” 4 (4).Theo pháp luật Hoa Kỳ, hợp đồng
được xem là “sự thoả thuận có hiệu lực pháp luật” 5 (5).
Ở Việt Nam, hợp đồng cũng có một cách hiểu riêng qua từng thời kỳ. Từ “Hợp đồng” nó
được xuất hiện lần đầu tiên tại Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 29/9/1989 với
tên gọi là Hợp đồng kinh tế. Cụ thể với nội dung “ Hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận
bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất,
trao đổi hàng hóa, dịch vụ nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa
thuận khác mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
1 Đinh Mai Phương, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, nxb Tư pháp, 2005, trang 8.
2 Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ luật dân sự nước cộng hòa Pháp, nxb Chính trị quốc gia, năm 1998, trang 34.
3 Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự Việt Nam, nxb Tư pháp 2005, trang 35.
4 Đinh Mai Phương, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, nxb Tư pháp, 2005, trang 14.

5 Đinh Mai Phương, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, nxb Tư pháp, 2005, trang 17.

7


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

để xác định và thực hiện kế hoạch của mình” 6 (6). Cột mốc tiếp theo có thể kể ở đây đó
là sự xuất hiện của hai từ hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005 tại Điều 388 với nội dung “
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự” 7. Trong Điều luật này thuật ngữ hợp đồng vẫn chưa được tách
biệt. Và cho đến gần đây nhất, tại Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 đã đưa ra khái niệm về
hợp đồng, cụ thể: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” 8. Theo khái niệm này, nó chỉ khác khái niệm tại Điều
388 ở chỗ, thay thế “ hợp đồng dân sự” thành “hợp đồng”, điểm mới này không chỉ là sửa
đổi về kỹ thuật lập pháp mà còn thể hiện tính minh bạch, đồng thời nó phù hợp với thực
tiễn áp dụng, mở rộng phạm vi điều chỉnh: Hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp
đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm,…
Tóm lại ở mỗi quốc gia cũng như một quốc gia mà ở nhiều thời kỳ thì cách hiểu về hợp
đồng có những điểm không giống nhau, từ tên gọi cho đến một số đặc điểm cụ thể. Tuy
nhiên, suy sau cùng thì chúng đều có điểm chung và quan trọng nhất đó là đề cao sự tự do
thỏa thuận ý chí giữa các bên trong giao kết hợp đồng và coi hợp đồng là căn cứ phát sinh
quan hệ pháp luật, hoặc coi hợp đồng là một loại quan hệ pháp luật, hoặc coi là hình
thức thể hiện pháp luật.
1.1.1.2.
Đặc điểm của hợp đồng
Đầu tiên, theo như khái niệm thì Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, qua đó ta có thể
rút ra được đặc điểm đầu tiên của hợp đồng đó chính là sự thỏa thuận, sự thỏa thuận có

nghĩa là tự nguyện khi giao kết giữa hai hay nhiều bên và phải thống nhất ý chí của các
bên với nhau, quan trọng hơn nó phải phù hợp với ý chí của nhà nước. Tại sao ở đây ta
nói là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên mà không phải là chỉ một bên? Bởi lẽ, sự thỏa
thuận giữa hai bên trở lên mới có thể hình thành hợp đồng dân sự, nếu là một bên nó chỉ
là hành vi pháp lý đơn phương. Nguyên tắc của pháp luật dân sự là bình đẳng, dựa trên sự
thỏa thuận, tự nguyện, nếu các bên không thống nhất ý chí thì nó không được coi là hợp
đồng dân sự. Bên cạnh đó, sự thống nhất ý chí này phải phù hợp với ý chí của Nhà nước,
nếu không thì hợp đồng sẽ không phát sinh trên thực tế.
Thứ hai, hợp đồng dân sự là một sự kiện pháp lý nó sẽ làm phát sinh, thay đổi, hay chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên trong hợp đồng. Vậy thế nào là sự kiện pháp
lý? Thì sự kiện pháp lý là sự kiện xảy ra trong thực tế mà việc xuất hiện hay mất đi của
6 Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 29/9/1989.
7 Điều 388 Bộ luật dân sự 2005.
8 Điều 385 Bộ luật dân sự 2015.

8


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

nó được pháp luật gắn với việc hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp
luật.9 Hợp đồng dân sự là một sự kiện pháp lý, theo đó các bên có nhu cầu tham gia giao
lưu dân sự nhằm thỏa mãn mục đích của mình sẽ tiến hành thực hiện. Còn về quyền và
nghĩa vụ dân sự, nó có phạm vi rất rộng, hiện tại theo quy định của pháp luật hiện hành
thì nó không liệt kê cụ thể đó là gì tuy nhiên về bản chất thì quyền và nghĩa vụ mà các
bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là để đáp ứng thỏa mãn nhu cầu trong
sinh hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt hợp
đồng dân sự với các hợp đồng kinh tế, thương mại.

Thứ ba, nội dung trong hợp đồng sẽ là các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể họ quy
định cho nhau. Khi các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng được quy định cụ thể và đã
được ký kết, nếu một trong các bên vi phạm điều khoản đó sẽ dẫn đến những tranh chấp
và hợp đồng có thể bị vô hiêu, sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ,…
Thứ tư, mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp, không trái đạo đức xã hội mà
các bên cùng hướng tới. Chỉ khi mục đích của hợp đồng dân sự được chứng minh hoặc
được thừa nhận là hợp pháp, không trái đạo đức xã hội thì hợp đồng dân sự mới phát sinh
hiệu lực, qua đó quyền và nghĩa vụ của các bên mới có thể thực hiện được trên thực tế.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng dịch vụ
1.1.2.1.
Khái niệm hợp đồng dịch vụ
Hợp đồng dịch vụ cũng là một loại hợp dồng dân sự, vì vậy nó cũng mang bản chất giống
như hợp đồng dân sự. Nếu bên hợp đồng dân sự được hình thành theo sự thỏa thuận giữa
hai hay nhiều bên thì hợp đồng dịch vụ cũng được hình thành theo sự thỏa thuận, tuy
nhiên ở đây có điểm khác biệt là theo sự thỏa thuận của hai bên, cụ thể là bên cung ứng
dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ. Qua đó, sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên do
pháp luật quy định.
Theo Điều 513 của Bộ luật dân sự 2015 thì “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên cung ứng dich vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử
dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”.10
Vậy thế nào là cung ứng dịch vụ? Thì theo Khoản 9 Điều 3 Luật thương mại 2005: “Cung
ứng dịch vụ là hoạt động thương mại theo đó một bên( sau đây gọi là bên cung ứng dịch
vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán, bên sử dụng dịch
vụ( sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử
9 .
10 Điều 513 Bộ luật dân sự 2015.

9



Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

dụng dịch vụ theo thỏa thuận” 11. Hoạt động này bao gồm rất nhiều loại hình dịch vụ
trong đời sống thường ngày của người dân như dịch vụ khám chữa bệnh, hướng dẫn du
lịch, các loại hình tư vấn…
1.1.2.2.
Đặc điểm hợp đồng dịch vụ
Đặc điểm đầu tiên của hợp đồng dịch vụ là thể hiện sự thỏa thuận, tự nguyện giữa các
bên, đó là sự thỏa thuận về việc thực hiện một công việc cụ thể, là một hoạt động cung
ứng những nhu cầu nhất định mà bên này muốn bên kia làm. Toàn bộ những thỏa thuận,
những ý chí đó sẽ được ghi lại thông qua hợp đồng. Theo Bộ luật dân sự 2015, đối tượng
của hợp đồng dịch vụ chính là một công việc, không phải là tài sản, cho dù công việc đó
có thể xoay quanh một tài sản nào đó. Ví dụ cụ thể như, khi chúng ta thuê luật sư để bảo
hộ chúng ta xoay quanh về vấn đề tranh chấp quyền sử dụng đất thì đây là hợp đồng liên
quan đến tài sản nhưng đối tượng chính của hợp đồng là công việc của luật sư.
Thứ 2, hợp đồng dịch vụ thuộc loại hợp đồng song vụ. Ở đây cả bên cung ứng dịch vụ và
bên sử dụng dịch vụ đều có quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó quyền của của bên
cung ứng dịch vụ sẽ là nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ và ngược lại quyền của bên sử
dụng dịch vụ sẽ là nghĩa vụ của bên cung ứng . Bên cạnh đó, hợp đồng dịch vụ cũng là
hợp đồng ưng thuận, nó có hiệu lực ngay từ thời điểm các bên thỏa thuận xong các điều
khoản chủ yếu của hợp đồng.
Thứ 3, hợp đồng dịch vụ nó có thể là một dịch vụ đơn giản, nó cũng có thể là một dịch vụ
phức tạp. Trong hợp đồng dịch vụ giản đơn thì chỉ là mối quan hệ trực tiếp giữa bên thuê
dịch vụ và bên cung ứng dịch vụ. Còn đối với hợp đồng dịch vụ phức tạp, sẽ có hai quan
hệ: quan hệ giữa bên thuê dịch vụ và bên cung ứng dịch vụ (gọi là quan hệ bên trong) và
quan hệ giữa người làm dịch vụ và người thứ ba (gọi là quan hệ bên ngoài). Trong quan
hệ bên trong, các bên phải thỏa thuận cụ thể về nội dung làm dịch vụ theo đó bên cung
ứng dịch vụ phải thực hiện những hành vi nhất định vì lợi ích của bên thuê dịch vụ. Trong

quan hệ bên ngoài, bên cung ứng dịch vụ phải nhân danh mình để tham gia các giao dịch
dân sự, mà không được nhân danh bên thuê dịch vụ để giao dịch với người thứ ba. Bên
cung ứng dịch vụ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước người thứ ba,
nếu pháp luật không quy định khác hoặc các bên không có thỏa thuận khác12.
Thứ 4, hợp đồng dịch vụ là hợp đồng mang tính thương mại vì hoạt động cung ứng dịch
vụ chính là một hoạt động thương mại. Tính thương mại của hợp đồng dịch vụ nhấn

11 Khoản 9 Điều 3 Luật thương mại 2005.
12 />
10


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

mạnh vào mục đích sinh lời của hợp đồng, mục đích của bên cung ứng dịch vụ và bên sử
dụng dịch vụ cũng nhằm vào khi ký kết hợp đồng đó là lợi nhuận.
Qua đó ta có thể nhận thấy được đặc điểm khác nhau cơ bản giữa hợp đồng dịch vụ và
hợp đồng mua bán hàng hóa đó là đối tượng của hợp đồng. Trong hợp đồng mua bán đối
tượng của nó là hàng hóa, còn trong hợp đồng dịch vụ đối tượng của nó là một hoạt động
cung ứng những nhu cầu nhất định, một công việc cụ thể do các chủ thể hợp đồng xác
định. So với hợp đồng lao động thì thì đây cũng là điểm khác biệt bởi đặc tính của hợp
đồng dịch vụ là người thực hiện công việc tương đối độc lập.
1.1.2.3.
Phân loại hợp đồng dịch vụ
Hợp đồng dịch vụ là một loại hợp đồng kinh tế đặc thù, khi giao kết và thực hiện các hợp
đồng dịch vụ phải theo những nguyên tắc, những quy định chung của pháp luật. Hiện nay
thì Luật chưa đưa ra cách phân loại ngành, phân ngành dịch vụ cụ thể giống như
GATS( Hiệp định chung về thương mại dịch vụ). Cụ thể, trong GATS được chia thành 12

ngành và 155 phân ngành:
-

Các dịch vụ kinh doanh. Ví dụ: Tư vấn pháp lý, xử lý dữ liệu, nghiên cứu phát
triển nhà đất, cho thuê, quảng cáo,…
Các dịch vụ thông tin liên lạc. Ví dụ: bưu chính, viễn thông, truyền hình,…
Các dịch vụ xây dựng và kỹ thuật liên quan đến xây dựng. Ví dụ xây dựng, lắp
máy…
Các dịch vụ phân phối. Ví dụ: bán buôn, bán lẻ,…
Các dịch vụ giáo dục.
Các dịch vụ môi trường. Ví dụ: vệ sinh, xử lý chất thải,…
Các dịch vụ tài chính. Ví dụ ngân hàng, bảo hiểm,…
Các dịch vụ liên quan đến y tế và dịch vụ xã hội.
Các dịch vụ liên quan đến du lịch và lữ hành.
Các dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao.
Các dịch vụ giao thông vận tải
Các dịch vụ khác.13

Tuy nhiên, mỗi loại hợp đồng dịch vụ lại có những đặc điểm riêng, chính vì thế căn cứ
vào đối tượng của hợp đồng dịch vụ có thể chia hợp đồng dịch vụ thành những những
loại như: Hợp đồng dịch vụ thi công (sửa chữa, vận chuyển, nội thất;….); Hợp đồng dịch
vụ bảo hiểm; Hợp đồng dịch vụ cho thuê, mướn tài sản; Hợp đồng dịch vụ kiểm dịch;
Hợp đồng dịch vụ khoa học kỹ thuật; Hợp đồng dịch vụ tư vấn, thiết kế. Các hoạt động
dịch vụ chuyên biệt sẽ có những quy định cụ thể điều chỉnh, nhưng việc giao kết và thực
13 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)

11


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13


Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

hiện hợp đồng dịch vụ phải tuân theo những quy định chung của pháp luật điều chỉnh về
hợp đồng dịch vụ.
1.1.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ
Qua phần đặc điểm đã tìm hiểu ở trên, ta thấy hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ.
Vậy, hợp đồng song vụ là gì? Theo Khoản 1 Điều 402 Bộ luật dân sự 2015 về các loại
hợp đồng chủ yếu “ hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với
nhau”14. Chính vì thế, trong hợp đồng dịch vụ nó cũng sẽ phát sinh quan hệ giữa các bên
tham gia hợp đồng - bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ- và trong quan hệ
nghĩa vụ đó mỗi bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, được quy định trong hai
văn bản quy phạm pháp luật đó là Luật thương mại 2005 và Bộ luật dân sự 2015. Cụ thể
như sau:
1.1.3.1.
Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ
Theo Điều 518 của bộ luật dân sự 2015, bên cung ứng dịch vụ có các quyền như: Yêu cầu
bên sử dụng dịch vụ cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện để thực hiện công việc;
Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên sử dụng dịch vụ mà không nhất thiết
phải chờ ý kiến của bên sử dụng dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên sử
dụng dịch vụ, nhưng phải báo ngay cho bên sử dụng dịch vụ biết và quyền cuối cùng là
yêu cầu bên sử dụng dịch vụ trả tiền dịch vụ 15. Trong luật thương mại 2005 thì lại không
có điều luật nào quy định rõ ràng, cụ thể về quyền của bên cung ứng dịch vụ.
Bên cạnh quyền sẽ là nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ, nó được quy định trong hai văn
bản quy phạm pháp luật là Bộ luật dân sự 2015 và Luật thương mại 2005.
Trong bộ luật dân sự 2015, nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ được quy định chung tại
Điều 517, với nội dung:
1. Thực hiện công việc đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và thỏa thuận khác.
2. Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc nếu không có sự đồng ý của
bên sử dụng dịch vụ.

3. Bảo quản và phải giao lại cho bên sử dụng dịch vụ tài liệu và phương tiện được giao
sau khi hoàn thành công việc.
4. Báo ngay cho bên sử dụng dịch vụ về việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương
tiện không bảo đảm chất lượng để hoàn thành công việc.
14 Khoản 1 Điều 402 Bộ luật dân sự 2015.
15 Điều 518 Bộ luật dân sự 2015.

12


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

5. Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
6. Bồi thường thiệt hại cho bên sử dụng dịch vụ, nếu làm mất, hư hỏng tài liệu, phương
tiện được giao hoặc tiết lộ bí mật thông tin.16
Trong luật thương mại 2005 thì nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ được quy định trong
ba Điều từ Điều 78 đến Điều 80. Cụ thể trong Điều 78, nghĩa vụ của bên cung ứng dịch
vụ nó được quy định tương tự giống như trong Điều 517 của Bộ luật dân sự, nhưng
Khoản 2 “Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc nếu không có sự
đồng ý của bên sử dụng dịch vụ” và Khoản 6 “ Bồi thường thiệt hai cho bên sử dụng dịch
vụ, nếu làm mất, hư hỏng tài liệu, phương tiện được giao hoặc tiết lộ bí mật thông tin” nó
không được đề cập trong điều này. Tuy nhiên, trong Luật thương mại 2005 nó có nêu cụ
thể hơn về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ theo kết quả công việc và theo nỗ lực, khả
năng cao nhất tại lần lượt các Điều 79, 80. Đối với Điều 79, theo kết quả công việc thì
nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ là phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả
phù hợp với các điều khoản và mục đích của hợp đồng nếu tính chất của loại dịch vụ
được cung ứng yêu cầu bên cung ứng phải đạt được một kết quả nhất định. Còn trong

trường hợp hợp đồng không có quy định cụ thể về tiêu chuẩn kết quả cần đạt được thì bên
cung ứng dịch vụ phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với tiêu
chuẩn thông thường của loại dịch vụ đó. Còn với Điều 80, nghĩa vụ của bên cung ứng
dịch vụ theo nỗ lực và khả năng cao nhất, được quy định cụ thể với nội dung “Trừ trường
hợp có thoả thuận khác, nếu tính chất của loại dịch vụ được cung ứng yêu cầu bên cung
ứng dịch vụ phải nỗ lực cao nhất để đạt được kết quả mong muốn thì bên cung ứng dịch
vụ phải thực hiện nghĩa vụ cung ứng dịch vụ đó với nỗ lực và khả năng cao nhất”. 17
1.1.3.2.
Quyền và nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ
Cũng như bên cung ứng dịch vụ, quyền của bên sử dụng dịch vụ trong Luật thương mại
2005 cũng không quy định cụ thể tại một điều khoản nào. Chỉ có trong Bộ luật dân sự
2015 quy định cụ thể về quyền của bên sử dụng dịch vụ với nội dung: “Yêu cầu bên cung
ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và
thỏa thuận khác; Trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì
bên sử dụng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại”.

16 Điều 517 Bộ luật dân sự 2015.
17 Điều 80 Luật thương mại 2005.

13


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

Đi đôi với quyền sẽ là nghĩa vụ của bên sử dụng dịch vụ. Nếu quyền lợi của bên cung
ứng dịch vụ là được cung cấp thông tin, tài liệu và các phương tiện cần thiết để thực hiện
công việc hay là được trả tiền dịch vụ theo thỏa thuận thì đây chính là nghĩa vụ của bên

sử dụng dịch vụ và nó được quy định trong điều 515 Bộ luật dân sự 2015. Bên cạnh đó
thì trong luật thương mại 2005 có thêm một vài nghĩa vụ cụ thể hơn của khách hàng như:
Cung cấp kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác để việc cung ứng dịch vụ
được thực hiện không bị trì hoãn hay gián đoạn; Hợp tác trong tất cả những vấn đề cần
thiết khác để bên cung ứng có thể cung ứng dịch vụ một cách thích hợp; Trường hợp một
dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên cung ứng
dịch vụ khác, khách hàng có nghĩa vụ điều phối hoạt động của các bên cung ứng dịch vụ
để không gây cản trở đến công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào.
1.1.4. Gía Giá dịch vụ và thời hạn thanh toán
Điều đầu tiên và quan trọng nhất của hợp đồng đó chính là hình thành dựa trên sự thỏa
thuận và tự nguyện giữa các bên tham gia ký kết. GiáGía dịch vụ chính là một trong số
điều khoản cần được thỏa thuận với nhau trong hợp đồng dịch vụ. Các bên sẽ thỏa thuận
với nhau về giá tiền dịch vụ phụ thuộc vào tính chất công việc, mức độ hoàn thành và vào
sức lao động mà bên cung ứng dịch vụ bỏ ra khi thực hiện công việc. Nếu trong trường
hợp không có thỏa thuận về giá dịch vụ, không có thỏa thuận về phương pháp xác định
giá dịch vụ và cũng không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được
xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung
ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác
có ảnh hưởng đến giá dịch vụ( Điều 86 luật thương mại 2005). 18Về việc trả tiền dịch vụ,
bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ tại địa điểm thực hiện công việc khi hoàn thành
dịch vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác của hai bên. Trong trường hợp nếu như dịch
vụ được cung ứng không đạt được như thỏa thuận hoặc công việc không được hoàn thành
đúng thời hạn thì bên sử dụng dịch vụ có quyền giảm tiền dịch vụ và yêu cầu bồi thường
thiệt hại.
Đối với thời hạn thanh toán thì các bên cũng có quyền thỏa thuận với nhau. Theo Điều 87
của Luật thương mại 2005, “trong trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không
có bất kỳ một thói quen nào về việc thanh toán thì thời hạn thanh toán là thời điểm cung
ứng dịch vụ được hoàn thành”. 19Vậy, thời điểm cung ứng dịch vụ hoàn thành là thời
điểm nào? Nó có thời hạn hay không? Điều này còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng. Nếu như không có sự thỏa thuận thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn

18 Điều 86 Luật thương mại 2005.
19 Điều 87 Luật thương mại 2005.

14


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều kiện và hoàn
cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất
kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ.
Ngoài ra việc hoàn thành dịch vụ cũng phát sinh một số vấn đề, cụ thể trong trường hợp
một hợp đồng dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung ứng
dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó không có nghĩa
vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó đươc đáp ứng. Đối với
trường hợp sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vẫn chưa
hoàn thành, nếu khách hàng không phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung
ứng theo nội dung đã thoả thuận và phải bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại phát sinh.
1.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp
Bất kỳ một sự kiện pháp lý nào xảy ra, hầu như đều có nguyên nhân của nó. Đối với hợp
đồng dịch vụ cũng vậy, khi có sự kết hợp của hai bên sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ
tương ứng, khi lợi ích của một bên nào đó không đạt được hoặc một bên vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ thì phát sinh tranh chấp hợp đồng là việc không thể tránh khỏi. Nguyên
nhân tiếp theo có thể kể đến là do sự chủ quan hoặc tin tưởng, đặt niềm tin quá cao cho
chủ thể còn lại mà trong khi soạn thảo hợp đồng có những điều khoản họ không đưa vào
dẫn đến những lổ hỏng trong hợp đồng để bên kia lợi dụng dẫn đến tranh chấp. Hoặc do
một bên cố tình không thực hiện các giao kết trong hợp đồng dẫn tới bên còn lại buộc
phải khởi kiện tại Tòa án để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài những nguyên nhân

trên, đối với những hợp đồng dịch vụ có yếu tố nước ngoài thì nguyên nhân dẫn đến tranh
chấp có thể do sự thiếu hiểu biết về pháp luật và tập quán thương mại quốc tế hoặc do
năng lực của doanh nghiệp còn có sự hạn chế.
Không tìm hiểu kỹ đối tác, tư cách chủ thể của người ký kết hợp đồng dẫn đến khi tranh
chấp hợp đồng không thể khởi kiện được, nhiều doanh nghiệp đạo đức kinh doanh còn
yếu, chỉ quan tâm lợi nhuận mà bất chấp cả việc vi phạm và phá vỡ các thỏa thuận.
Doanh nghiệp không chú trọng đến vấn đề pháp lý của hợp đồng mà chỉ quan tâm đến
vấn đề lợi nhuận đạt được từ hợp đồng. Thiếu hiểu biết về pháp luật điều chỉnh.
Những nguyên nhân được kể trên chính là nguyên nhân chủ quan, còn nguyên nhân
khách quan có thể dẫn đến tranh chấp hợp đồng dịch vụ đó là có các sự kiện bất khả
kháng xảy ra trong thực tế mà không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng
dịch vụ hai bên đã ký kết. Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự 2015 thì sự kiện bất khả
kháng được hiểu là “sự kiện xảy ra ngoài ý chí của con người khiến chúng ta không thể
lường trước và khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết, khả năng cho

15


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

phép”. 20Các điều kiện để đáp ứng và được xem là sự kiện bất khả kháng khi: “Sự kiện
xảy ra một cách khách quan hay gọi là sự kiện khách quan, tức sự kiện đó nằm ngoài
phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng; Hậu quả của sự kiện không thể lường
trước được tại thời điểm giao kết hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến trước
thời điểm xảy ra hành vi vi phạm; Hậu quả của sự kiện đó không thể khắc phục được mặc
dù áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.
1.3. Các khía cạnh cần phải xem xét của hợp đồng dịch vụ
Để hiểu rõ về hợp đồng dịch vụ, cần phải xem xét chúng theo nhiều khía cạnh, cụ thể qua

việc nghiên cứu về nguyên tắc giao kết, căn cứ giao kết, chủ thể của hợp đồng, đối tượng
của hợp đồng, hình thức và mục đích của hợp đồng, nội dung của hợp đồng. Mỗi khía
cạnh ta cần tìm hiểu kỹ càng và hiểu rõ về nó để hợp đồng được ký kết không bị mắc lỗi,
không vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, một phần giảm thiểu bớt tranh chấp có
thể xảy ra sau khi hợp đồng đã ký kết.
Thứ nhất, về nguyên tắc giao kết hợp đồng dịch vụ:
Hợp đồng dịch vụ về cơ bản nó cũng là một hợp đồng dân sự, chính vì vậy nó có những
bản chất của hợp đồng dân sự. Trong Bộ luật dân sự 2015, những nguyên tắc giao kết hợp
đồng được quy định thông qua Điều 3, taị mỗi Khoản sẽ tương ứng với từng nguyên tắc.
Khoản 1 Điều 3 “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do
nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài
sản”, qua đó rút ra được nguyên tắc đầu tiên về giao kết hợp đồng đó là bình đẳng.
Nguyên tắc thứ hai là tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận, điều này được thể hiện qua
Khoản 2 Điều 3 “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với
các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Khoản 3 “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập,
thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực”,
đây sẽ là nguyên tắc thứ ba, nguyên tắc thiện chí trung thực. Nguyên tắc thứ tư là nguyên
tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác, được rút ra thông qua Khoản 4 “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác”. Cuối cùng sẽ là nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự : “
Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ dân sự”(Khoản 5). 21 Nguyên tắc này sẽ là cơ sở để giải quyết tranh
20 Khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự 2015.
21 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015.

16



Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

chấp nếu có, là một trong những biện pháp buộc các bên phải thực hiện nghiêm túc
những thỏa thuận, cam kết trong mối quan hệ dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Qua đó ta thấy được nguyên tắc giao kết hợp đồng đó là những tư tưởng chỉ
đạo được quán triệt trong những quy phạm pháp luật về hợp đồng có tính chất bắt buộc
đối với các chủ thể trong khi tiến hành ký kết hợp đồng. Trong nền kinh tế thị trường,
việc giao kết hợp đồng về nguyên tắc không còn là kỷ luật của nhà nước, là nhiệm vụ của
các tổ chức, cơ quan và các đơn vị kinh tế nữa. Đó là quyền tự do hợp đồng một trong
những nội dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh.
Thứ hai, về căn cứ giao kết hợp đồng dịch vụ:
Các căn cứ để giao kết hợp đồng có thể là căn cứ vào tính hợp pháp của hoạt hoạt động
sản xuất kinh doanh và khả năng đảm bảo về tài sản của các bên tham gia ký kết hợp
đồng. Hoặc căn cứ vào khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động
kinh tế của đơn vị. Hoặc căn cứ vào các chính sách chế độ, chuẩn mực kinh tế kế hoạch
hiện hành, theo định hướng kế hoạch của Nhà nước.
Thứ ba, về chủ thể của hợp đồng dịch vụ:
Chủ thể của hợp đồng là các bên tham gia quan hệ hợp đồng, như vậy chủ thể của hợp
đồng dịch vụ là bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ, các bên phải bình đẳng, tự
nguyện thỏa thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ với nhau. Cụ thể hơn, chủ thể
của hợp đồng dịch vụ có thể là thương nhân, và theo Điều 6 luật thương mại 2005 thì
thương nhân gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Để trở thành thương nhân
các các nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân tổ hợp
tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật
nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì cơ quan nha nước có quyền cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân. Chủ thể của hợp đồng dịch vụ cũng

có thể là chi nhánh của thương nhân nước ngoài. Theo Khoản 3 Điều 19 Luật thương mại
2005 thì chi nhánh của thương nhân nước ngoài có quyền giao kết hợp đồng tại Việt Nam
phù hợp với nội dung hoạt động quy định trong giấy phép thành lập chi nhánh và theo
quy định của pháp luật.
Thứ tư, về đối tượng của hợp đồng dịch vụ:
Đối tượng chính của hợp đồng dịch vụ là một công việc có thể thực hiện được, không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và không phải là tài sản, cho dù công
việc đó có thể xoay quanh một tài sản nào đó. Chẳng hạn như chúng ta thuê luật sư để
luật sư bảo hộ chúng ta xoay quanh về vấn đề tranh chấp sử dụng đất thì rõ ràng đây là
17


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

hợp đồng liên quan đến tài sản nhưng đối tượng chính của hợp đồng là công việc của luật
sư. Theo Khoản 1 Điều 75 Luật thương mại 2005, thương nhân có các quyền cung ứng
dịch vụ sau “Cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt
Nam; Cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt
Nam; Cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài;
Cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ nước
ngoài” và theo Khoản 2 Điều 75 Luật thương mại 2005 thương nhân có các quyền sử
dụng dịch vụ sau đây: “Sử dụng dịch vụ do người cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh
thổ Việt Nam; Sử dụng dịch vụ do người không cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh
thổ Việt Nam; Sử dụng dịch vụ do người cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ nước
ngoài; Sử dụng dịch vụ do người không cư trú tại Việt Nam cung ứng trên lãnh thổ nước
ngoài”. 22
Trong hợp đồng dịch vụ, người thực hiện công việc tương đối độc lập cũng chính vì thế
đây là điểm khác biệt so với hợp đồng lao động. Trong hợp đồng lao động thì đối tượng

của nó cũng là thực hiện một công việc, tuy nhiên khi triển khai công việc thì tính độc lập
không cao, theo sự chỉ dẫn, áp đặt của người sử dụng lao động.
Thứ năm, về hình thức và mục đích của hợp đồng dịch vụ;
Theo như quy định tại Điều 74 của Luật thương mại 2005 thì : “Hợp đồng dịch vụ được
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể; Đối với các
loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân
theo các quy định đó”23. Pháp luật yêu cầu hình thức hợp đồng dịch vụ như vậy là khá
phù hợp với thực tiễn hiện nay, bởi lẽ hiện nay giao dịch thông qua các phương tiện kỹ
thuật như internet, điện tử viễn thông đang rất phổ biến điều nay đòi hỏi các hình thức
giao kết phải hết sức thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả.
Mục đích chủ yếu của hợp đồng dịch vụ là tạo sự ràng buộc cho các bên trong mối quan
hệ giao kết hợp đồng. Là cơ sở để giải quyết quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia ký
kết hợp đồng khi có tranh chấp xảy ra.
Thứ sáu, về nội dung của hợp đồng dịch vụ:
Hợp đồng được soạn thảo dựa trên sự thỏa thuận, tự nguyện của các bên tham gia ký kết
của hợp đồng, chính vì thế nội dung của hợp đồng dịch vụ cũng sẽ là thỏa thuận của các
bên về quyền và nghĩa vụ của họ. Theo Điều 398 Bộ luật dân sự 2015, các bên trong hợp
22 Điều 75 Luật thương mại 2005.
23 Điều 74 Luật thương mại 2005.

18


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

đồng có thể thỏa thuận về các nội dung như: Đối tượng của hợp đồng; Số lượng chất
lượng; Giá, phương thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp
đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phương thức giải

quyết tranh chấp. Tất cả các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng sẽ là cơ sở để cho các
bên ký kết thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, ràng buộc các bên với nhau, nó
cũng chính là căn cứ để xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra.
1.4. Thực hiện hợp đồng dịch vụ
Như đã chứng minh ở mục trên trong phần đặc điểm, hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song
vụ. Theo Điều 410 Bộ luật dân sự 2015, Thực hiện hợp đồng song vụ: “Trong hợp đồng
song vụ, khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện
nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực
hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 411 và Điều 413 của Bộ
luật này”24. Cụ thể, Điều 411 quy định quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng
song vụ “Bên phải thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ, nếu khả
năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực
hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa
vụ hoặc có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; Bên phải thực hiện nghĩa vụ sau có
quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ đến hạn nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện
nghĩa vụ của mình khi đến hạn”25 và Điều 413- Nghĩa vụ không thực hiện được do lỗi
của một bên: Trong hợp đồng song vụ, khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của
mình do lỗi của bên kia thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với
mình hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên không
thỏa thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa
vụ đối với nhau; nếu nghĩa vụ không thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực
hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ đó phải được thực hiện trước” 26.
1.5. Sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng dịch vụ
1.5.1. Sửa đổi hợp đồng dịch vụ
Một hợp đồng đã được ký kết và các công việc trong hợp đồng cũng đang trong quá trình
thực hiện thì các bên vẫn có quyền thoả thuận để sửa đổi các điều khoản, họ có thể thêm
vào hoặc bớt đi những điều khoản cần thiết để phù hợp với thực tại (Khoản 1 Điều 421
Bộ luật dân sự 2015). Tuy nhiên họ phải giải quyết hậu quả của việc sửa đổi đó.

24 Điều 410 Bộ luật dân sự 2015.

25 Điều 411 Bộ luật dân sự 2015.
26 Điều 413 Bộ luật dân sự 2015.

19


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

Hợp đồng còn có thể được sửa đổi theo Điều 420 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể trong
trường hợp khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu
bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Trường hợp các bên không thể
thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên
có thể yêu cầu Tòa án chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định; Sửa đổi hợp đồng
để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tuy
nhiên, Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt
hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa
đổi. Và trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc,
các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác. Vậy trường hợp nào được coi là hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Theo
Khoản 1 Điều 420 Bộ luật dân sự 2015, hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều
kiện: Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp
đồng; Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay
đổi hoàn cảnh; Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng
đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác; Việc tiếp
tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại
nghiêm trọng cho một bên; Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn
chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.27

Bên cạnh đó, trong trường hợp, nếu hợp đồng được thành lập bằng văn bản, được công
chứng chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo
hình thức đó (Khoản 3 Điều 421 Bộ luật dân sự 2015).
1.5.2. Chấm dứt hợp đồng dịch vụ.
Đối với các loại hợp đồng thì hầu hết đều chấm dứt theo như các trường hợp được quy
định theo Điều 422 của Bộ luật dân sự 2015. Hợp đồng dịch vụ cũng vậy, nó cũng sẽ
chấm dứt trong các trường hợp đó. Đầu tiên đó là hợp đồng đã được hoàn thành, có nghĩa
là khi các công việc trong hợp đồng đã được giải quyết, quyền và nghĩa vụ của các bên đã
thực hiện đầy đủ, cả hai bên không còn gì ràng buộc với nhau. Tiếp theo chấm dứt hợp
đồng do sự thỏa thuận của các bên, khi cả hai bên thỏa thuận được và tự nguyện muốn
chấm dứt hợp đồng thì hợp đồng cũng sẽ được chấm dứt. Hoặc cá nhân giao kết hợp
đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá
nhân, pháp nhân đó thực hiện. Hoặc do đối tượng của hợp đồng không còn. Và trường
hợp nữa đó là đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trong hợp đồng dịch vụ. Khi hợp
đồng được ký kết và đang trong quá trình thực hiện thì các bên vẫn có quyền đơn phương
27 Khoản 1 Điều 420.

20


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ theo Điều 520 của Bộ luật dân sự 2015. Theo như
điều luật, trong trường hợp việc tiếp tục thực hiện công việc không có lợi cho bên sử
dụng dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng, tuy nhiên phải báo cáo cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý và
bên cạnh đó phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện
và bồi thường thiệt hại. Bên cung ứng dịch vụ cũng có quyền đơn phương chấm dứt thực

hiện hợp đồng dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên sử dụng dịch
vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ.
1.5.3. Hủy bỏ hợp đồng dịch vụ
Hủy bỏ hợp đồng được phân chia trong thành nhiều trường hợp, có trường hợp khi hủy
bỏ sẽ không bị bồi thường thiệt hại, cũng có những trường hợp hủy bỏ sẽ bị bồi
thường.Trong trường hợp bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã
thỏa thuận hoặc bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng thì bên còn lại có
quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại. Như vậy, thế nào được coi là
vi phạm nghiêm trọng? Thì theo như khoản 2 Điều 423 Bộ luật dân sự 2015 “Vi phạm
nghiêm trọng là việc không thực hiện nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia
không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng” 28. Một trường hợp hủy bỏ hợp
đồng dịch vụ nữa là do chậm thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể trong một thời hạn hợp lý mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thì bên có
quyền có thể hủy bỏ hợp đồng, hoặc trong trường hợp do tính chất của hợp đồng, cũng có
thể là do ý chí của các bên, hợp đồng sẽ không đạt được mục đích nếu không được thực
hiện trong thời hạn nhất định bởi vậy khi hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng( Điều 423,424 Bộ luật dân sự
2015). Trường hợp cuối cùng có thể hủy bỏ hợp đồng là do bên cung ứng dịch vụ không
thể thực hiện được một phần hoặc tòan bộ công việc, nghĩa vụ của mình làm cho mục
đích của bên sử dụng dịch vụ không thể thực hiện được thì bên sử dụng dịch vụ có quyền
hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu đối phương bồi thường thiệt hại. Tất cả các trường hợp hủy
bỏ hợp đồng trên, bên muốn hủy bỏ hợp đồng phải báo ngay cho bên kia biết về việc
muốn hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường tổn thất tương
ứng theo quy định pháp luật, hoặc theo thỏa thuận trước đó.
1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ
1.6.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng:
Hợp đồng được tạo ra và ký kết dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Cũng chính vì thế khi những thỏa thuận trước
đó, những điều khoản trong hợp đồng không thực hiện thì sẽ dẫn đến tranh chấp. Như
28 Khoản 2 Điều 423.


21


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

vậy, ta có thể đưa ra khái niệm tranh chấp hợp đồng đó là ý kiến không thống nhất của
các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ
vi phạm đó. Hoặc Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên
tham gia quan hệ hợp đồng liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền và
nghĩa vụ theo hợp đồng. 29
Tranh chấp hợp đồng nó cũng sẽ có những đặc điểm riêng. Cụ thể việc tranh chấp sẽ phát
sinh trực tiếp từ quan hệ hợp đồng, điều này đồng nghĩa với việc nó luôn thuộc quyền
định đoạt của các bên tranh chấp. Nó mang những yếu tố và gắn liền lợi ích các bên trong
tranh chấp. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng cũng là bình đẳng, thỏa
thuận, đảm bảo nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật.
1.6.2. Giải quyết tranh chấp.
Khi có xảy ra tranh chấp hợp đồng, việc giải quyết phải được thỏa đáng bằng những
phương thức chọn lựa thích hợp, phải đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tranh chấp. Đồng thời phải đảm bảo trật tự pháp luật kỹ cương xã hội, giáo dục được
ý thức tôn trọng pháp luật của công dân góp phần ngăn ngừa các hành vi vi phạm hợp
đồng. Quyết định giải quyết các tranh chấp phải có tính khả thi cao, thi hành được và quá
trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự định đoạt của các bên. Các bên
tranh chấp có thể chọn lựa một phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng phù hợp
hoặc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp với nhau. Các phương thức để giải quyết tranh
chấp hợp đồng có thể kể đến ở đây như : phương thức thương lượng hòa giải; Phương
thức giải quyết tranh chấp hợp đồng theo thủ tục tố tụng tư pháp…
Đối với phương thức giải quyết theo thương lượng, hòa giải thì các bên tranh chấp cùng

nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến thống nhất một phương án giải quyết những bất đồng,
những mâu thuẫn của họ và sẽ tự nguyện thực hiện phương án đã thỏa thuận qua hòa giải.
Một khi thương lượng, hòa giải không được mới đưa ra Tòa án giải quyết, và ngay cả khi
đã đưa ra Tòa các bên vẫn có thể tiếp tục hòa giải với nhau. Đây là một hình thức giải
quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất trong trong lịch sử với trên nhiều lĩnh vực khác nhau
chứ không chỉ riêng đối với tranh chấp hợp đồng. Phương thức giải quyết tranh chấp này
sẽ có những ưu và nhược điểm riêng. Về ưu điểm thì nó là một phương thức giải quyết
tranh chấp đơn giản, nhanh chóng, ít tốn kém. Và với phương thức này sẽ không gây ra
tình trạng đối đầu, vẫn duy trì được thiện cảm giữa hai bên, theo đó sẽ duy trì được việc
tiếp tục hợp tác, thực hiện hợp đồng hiện tại một cách nghiêm túc cũng như tạo tiền đề
cho những lần hợp tác về sau. Bên cạnh đó, các bên dễ dàng kiểm soát được việc cung
cấp chứng từ và sử dụng chứng từ đó giữ được bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên.
29 />
22


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

Về mặt hạn chế, nếu phương thức hòa giải này bất thành thì lợi thế về chi phí thấp trở
thành gánh nặng bổ sung cho các bên tranh chấp. Hơn thế nữa nếu gặp đúng chủ thể thiếu
thiện chí, họ sẽ lợi dụng thủ tục hòa giải để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình và
điều này có thể dẫn đến hậu quả là bên có quyền lợi sẽ bị tốn kém một khoảng thời gian
nhất định có dễ dẫn đến hết thời hạn khởi kiện tại Tòa án đánh mất quyền của mình. Hòa
giải, thương lượng cũng có các hình thức khác nhau như tự hòa giải, hòa giải qua trung
gian, hòa giải ngoài thủ tục tố tụng, hòa giải trong thủ tục tố tụng. Tự hòa giải là việc các
bên tranh chấp tự bàn bạc để đưa ra một phương án nhất định, cả hai bên đều thống nhất
phương án đó và không cần tới sự giúp đỡ của pháp luật hay một bên nào khác. Tiếp theo
là hòa giải qua trung gian, các bên sẽ tranh chấp tiến hành hòa giải với nhau dưới sự hỗ

trợ, giúp đỡ của người thứ ba, người thứ ba ở đây có thể là cá nhân, tổ chức hay Tòa án
do các bên tranh chấp họ tự lựa chọn có những trường hợp nhất định sẽ do pháp luật quy
định. Hình thức hòa giải ngoài tố tụng là việc hòa giải được các bên tiến hành trước khi
đưa đơn khởi kiện ra Tòa án. Cuối cùng là hình thức hòa giải trong thủ tục tố tụng, việc
hòa giải này được tiến hành tại Tòa án, khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh
chấp theo đơn khởi kiện của một bên việc hòa giải sẽ được tiến hành dưới sự trợ giúp của
Tòa án. Khi thỏa thuận này được Tòa công nhận thì quyết định này có giá trị cưỡng chế
thi hành đối với các bên.
Đối với phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng theo thủ tục tố tụng tư pháp thì khi
có tranh chấp phát sinh nếu các bên không tự thương lượng, hòa giải được với nhau thì
các bên có thể nộp đơn để được Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Phương thức này có
các lợi thế ở chỗ khi các quyết định của Tòa án được thông qua thì các quyết định này có
tính cưỡng chế đối với các bên, điều này có nghĩa là các bên bắc buộc phải thực hiện, bên
có nghĩa vụ không thể trốn tránh được nghĩa vụ của mình. Cùng với đó với nguyên tắc
hai cấp xét xử sẽ hạn chế được những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp hay
nếu có sai sót cũng có khả năng được phát hiện và khắc phục kịp thời. Bên cạnh những
ưu điểm sẽ là những mặt hạn chế của việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng qua Tòa án.
Với việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì thời gian sẽ là mặt hạn chế đầu tiên. Bởi
lẽ, thủ tục Tòa án ở nước ta khá chặt chẽ, thời hạn chờ đợi để qua từng thủ tục kéo dài
một thời gian hợp lý để Tòa kịp thời tìm hiểu để giải quyết và khả năng tác động của các
bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế.

23


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

Chương 1.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CỦA VIỆC

TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI
CHÂU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực trạng pháp luật
2.1.1.
Các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp
hợp đồng dịch vụ.
2.1.1.1.
Chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ
Trong quan hệ tố tụng thì Tòa án là chủ thể bắt buộc, chủ thể khác là các bên tranh chấp.
Vậy chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ là bao gồm:
Bên tranh chấp: gồm có nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến
việc giải quyết tranh chấp.
Bên tố tụng: Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng gồm có Chánh
án, Phó Chánh án, các Thẩm phán và Thư ký Tòa án. Cơ cấu tổ chức hiện nay đảm bảo
tính thống nhất về tổ chức, cơ quan xét xử, tổ chức bộ máy nhà nước gọn nhẹ đảm bảo
hiệu quả hoạt động.30 Các đặc điểm của giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ được
xem xét dưới nhiều góc độ, cụ thể:
Căn cứ phát sinh việc tranh chấp là do có sự vi phạm của bên cung ứng dịch vụ và bên sử
dụng dịch vụ(tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên) và yêu cầu Tòa án giải quyết.
Mục đích của việc giải quyết tranh chấp là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng.
Việc xét xử của Tòa án nhân dân quận Hải Châu về các tranh chấp hợp đồng dịch vụ phải
tuân theo các nguyên tắc của Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
2.1.1.2.
Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ theo thủ tục
sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng.
Bao gồm các thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện, thủ tục hòa giải tại tòa án, thủ tục xét
xử sơ thẩm.
Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện:

Thông qua bộ phận tiếp nhận đơn khởi kiện do người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án
hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc qua phương thức gửi trực tuyến, nếu trong trường
30 Tham khảo hồ sơ tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu Thành phố Đà Nẵng.

24


Sinh viên: Phạm Thị Lê_Lớp 42k13

Báo cáo thực tập tốt nghiệp_Năm 2020.

hợp nhận đơn khởi kiện trực tiếp thì Tòa án cấp giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện, còn
nếu trong trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn hai ngày làm
việc kể từ ngày nhận đơn Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện,
trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa phải thông báo
ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử. Trong thời hạn 3
ngày kể từ ngày nhận đơn khởi kiện, Chánh án phân công một Thẩm phán xem xét đơn
khởi kiện, và sau 5 ngày kể từ ngày được phân công Thẩm phán phải xem xét đơn khởi
kiện và đưa ra một trong các quyết định: Yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện; Tiến
hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn; Chuyển
đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án khác; Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ
việc đó không thuộc thẩm quyền của Tòa án.31
Trong quá trình xem xét đơn khởi kiện, Thư ký tòa án cùng với Thẩm phán giải quyết vụ
án cần kiểm tra các tài liệu gửi kèm theo đơn của đương sự có đầy đủ hồ sơ pháp lý hay
không. Nếu chủ thể là pháp nhân thì cần kiểm tra hồ sơ pháp nhân, bao gồm: Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh; điều lệ hoạt động của pháp nhân; nếu các doanh nghiệp kinh
doanh các ngành nghề có điều kiện thì phải yêu cầu đương sự cung cấp giấy phép kinh
doanh. Các tranh chấp về hợp đồng dịch vụ là các tranh chấp về hợp đồng mà các bên
trước đó đã thiết lập tạo ra quan hệ ràng buộc giữa các bên. Chính vì vây, khi xem xét để

thụ lý đơn khởi kiện đối với tranh chấp này, Thư ký tòa án phải kiểm tra và yêu cầu
đương sự giao nộp hợp đồng, các phụ lục hợp đồng, các hóa đơn chứng từ, các biên bản
đối chiếu xác nhận công nợ, các biên bản làm việc.
Nếu đơn khởi kiện được Thẩm phán quyết định tiến hành thủ tục thụ lý vụ án thì căn cứ
vào quy định của bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm thông báo cho
nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí để có căn cứ thụ lý vụ án. Sau khi đương sự nộp
biên lai đã nộp tiền tạm ứng án phí, Thư ký tòa án vào sổ thụ lý vụ án và làm thông báo
thụ lý vụ án gửi đến Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho bị đơn và người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan biết để có cơ sở triệu tập họ đến Tòa án để giải quyết vụ án. 32
Thủ tục hòa giải tại Tòa án:
Hòa giải là một thủ tục tố tụng quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng
dịch vụ tại Tòa án. Hòa giải tại Tòa án do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
31 Nhìn nhận thông qua quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu Thành phố Đà Nẵng và tham khảo
Điều 191Bộ luậtTố tụng dân sự 2015.
32 Nhìn nhận thông qua quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu Thành phố Đà Nẵng và tham khảo
Chương XII Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

25


×