Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

quyền và nghĩa vụ của người không nuôi con sau khi ly hôn, thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân quận hải châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.21 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA LUẬT
------

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI KHÔNG NUÔI CON SAU
KHI LY HÔN, THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU
Lưu ý:
Chương 2 phải có phần viết về thực trạng pháp luật của vấn để
nghiên cứu, xem lại trong email hướng dẫn để chỉnh lại
Ở danh mục tài liệu tham khảo có những tài liệu là bài viết của tác
giả, nhưng ko hề có footnote trong bài chỉ ra là tài liệu đó được sử
dụng ở chỗ nào.


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Sinh viên thực hiện

: Phommasan Suphanan

Lớp

: 42k13

Giảng viên hướng dẫn : ThS. Đỗ Trần Hà Linh


Đà Nẵng, ngày 20 tháng 03 năm 2020

2


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN

Cánh cửa đại học tuy không phải là cánh cửa cuối cùng của cuộc đời, tuy nhiên
nó chính là cánh cửa quan trọng nhất để quyết định tương lai cả cuộc đời sau này của
một con người. Qua thời gian học tập và rèn luyện tại khoa Luật trường Đại học Kinh
tế - Đại học Đà Nẵng, được sự giảng dạy, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong khoa
đã giúp em tích luỹ được những kiến thức cũng như các kĩ năng cần thiết để em có thể
hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp này.
Thực tập là một trong những yêu cầu đối với mỗi sinh viên nói chung và sinh
viên khoa Luật trường Đại học Kinh Tế - Đại học Đà Nẵng nói riêng. Đó là quá trình
vận dụng những kiến thức đã được đội ngũ giảng viên truyền đạt tại trường xuyên suốt
quá trình học tập vào thực tế. Có thể nói đây là phương pháp thực tế khá hữu ích cho
mỗi sinh viên, quá trình này giúp cho bản thân mỗi sinh viên sau khi ra trường cảm
thấy tự tin, vững vàng hơn và đáp ứng được phần nào yêu cầu của xã hội nói chung và
của các công việc nói riêng
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến Quý Thầy Cô của khoa Luật, trường
Đại học Kinh tế Đà Nẵng đã tận tình giảng dạy và trang bị cho em những kiến thức
quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường để phục vụ cho công việc và cuộc sống
hằng ngày. Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Đỗ Trần Hà Linh đã giúp
đỡ em trong quá trình hoàn thành bản báo cáo thực tập tốt nghiệp này.
Em cũng xin được cảm ơn các cô, chú, anh, chị tại Tòa án Nhân dân thành phố
Đà Nẵng đã tạo điều kiện giúp đỡ, chỉ bảo cho em được làm quen với những vấn đề
thực tiễn liên quan đến bài báo cáo chuyên đề thực tập và các kiến thức đã học.
Sau hơn 4 tháng thực tập (Từ ngày 23/12/2019 đến ngày 19/04/2020 ), em nhận

được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong trường, các cô chú trong Tòa án
Nhân dân quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng, đặc biệt là các anh chị và thầy cô hướng dẫn
thực tập, cho đến nay báo cáo thực tập của em đã được hoàn thành. Nhưng do có
những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm tìm hiểu thực tế chưa có nhiều nên báo
cáo thực tập của em còn nhiều sai sót. Báo cáo thực tập này là những kinh nghiệm em
tích lũy được qua quá trình học tập tại Bộ môn Luật Hôn nhân gia đình, ngành Luật
học, Khoa luật – Đại học Kinh tế Đà nẵng và thực tập tiếp cận với thực tiễn áp dụng
pháp luật tại Tòa án Nhân dân quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng.
Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy cô và những ý kiến
đóng góp của các bạn để báo cáo thực tập của em được hoàn thiện hơn. Những ý kiến
của các thầy cô giáo sẽ rất quan trọng để giúp em có thể nắm vững kiến thức và tiếp
cận thực tế trong hoạt động xây dựng, hoàn thiện và áp dụng pháp luật ngày càng tốt
3


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hơn, những kinh nghiệm đó và vốn quý phục vụ cho quá trình công tác làm việc sau
này.
Em xin chân thành cảm ơn!

4


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................6

2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài............................................................................7
3. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................7
5. Kết cấu đề tài...........................................................................................................7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA,ME
SAU KHI LY HÔN......................................................................................................9
1.1 Khái niệm về ly hôn................................................................................................9
1.2 Hậu quả của việc ly hôn..........................................................................................9
1.3. Quyền của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn................................10
1.3.1. Quyền được thăm nom...................................................................................10
1.3.2. Quyền được yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con..................................12
1.4. Nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi khi ly hôn......................14
1.4.1.............Nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp
nuôi..........................................................................................................................14
1.4.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng......................................................................................16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN
HẢI CHÂU................................................................................................................. 20
2.1. Giới thiệu về Tòa án Nhân dân quận Hải Châu, điều kiện kinh tế- xã hội tại
quận Hải Châu............................................................................................................. 20
2.1.1. Vài nét về điều kiện kinh tế- xã hội quận Hải Châu........................................20
2.1.2. Giới thiệu Tòa án nhân dân quận Hải Châu....................................................20
2.2. Tình hình giải quyết ly hôn ở Tòa án nhân dân quận Hải Châu.......................21
2.3. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn........................................................................................................21
2.3.1. Quyền thăm nuôi con.....................................................................................21
2.3.2. Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con........................................................22

5



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.3.3. Nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp
nuôi..............................................................................................................................
26
2.3.4.................Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn
........................................................................................................................... 27
2.4. Kết quả áp dụng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người không
trực tiếp nuôi con tại Tòa án Nhân dân quận Hải Châu..........................................33
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THỰC
HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON
SAU KHI LY HÔN....................................................................................................36
3.1. Kiến nghị nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.....................................................................36
3.2. Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thực thi các quy định pháp luật về việc
áp dụng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp
nuôi con........................................................................................................................38
KẾT LUẬN................................................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................41

DANH MỤC BẢNG BIỂU

6


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ hôn nhân theo pháp luật Hôn nhân và gia đình tại Việt Nam được quy định

tại khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi kết hôn”1. Hôn nhân được tạo ra sẽ gắn kết nam nữ lại với nhau, cùng
nhau xây dựng và duy trì nòi giống cho xã hội. Còn “Kết hôn là việc nam và nữ xác
lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình về điều kiện
kết hôn và đăng ký kết hôn”. Nếu như mục đích cơ bản và quan trọng nhất của đời
sống hôn nhân là việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, qua đó góp phần duy
trì nòi giống, đảm bảo tương lai tồn tại của cả một dân tộc, thì ly hôn lại là một mặt
trái hoàn toàn của mối quan hệ hôn nhân, mặt trái của xã hội. Những cuộc hôn nhân
hạnh phúc có thể mang lại cho vợ chồng sự quan tâm, chia sẻ nhưng ngược lại thì việc
ly hôn cũng để lại những hậu quả hết sức nặng nề: đó là những thiếu thốn vật chất, đó
là những sự suy sụp tinh thần, và đặc biệt là hậu quả mà những đứa con phải gánh chịu
sau những cuộc hôn nhân đổ vỡ. Gia đình luôn là tế bào của xã hội, là nơi những
người có quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng cùng chung sống. Khi gia đình
hòa thuận và hạnh phúc thì sẽ góp phần vào sự phát triển và phồn thịnh chung của xã
hội. Khi kết hôn, vợ chồng cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh và đầy đủ. Họ cùng
nhau nuôi dạy con cái, làm việc phục vụ cho cuộc sống hạnh phúc. Đó là điều mà cặp
vợ chồng nào cũng đều mong muốn hướng tới, đây cũng là mục đích của việc xây
dựng gia đình do pháp luật đặt ra. Tuy nhiên, trên thực tế, quan hệ hôn nhân do nhiều
tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, đã không giữ được giá trị và ý
nghĩa mong muốn như ban đầu. Cuộc sống chung của vợ, chồng đã không còn hạnh
phúc, nên pháp luật đã dự liệu được khả năng cho họ quyền được giải phóng khỏi quan
hệ hôn nhân bằng việc ly hôn.
Khi cha mẹ ly hôn, hậu quả đầu tiên và cũng được xem là hậu quả nghiêm trọng
nhất đó là việc những đứa con sẽ không có được sự chăm sóc quan tâm của cả bố và
mẹ. Đối với những đứa trẻ đã trưởng thành thì việc không được sống chung với cha
mẹ đã khó có thể chấp nhận, huống hồ là đối với những đứa trẻ nhỏ khi thể chất và
nhân cách còn chưa hoàn thiện, điều này ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng tới đời sống
cũng như sự phát triển của trẻ nhỏ. Khi ly hôn, một bên cha hoặc mẹ sẽ trực tiếp nuôi
dưỡng con cái tùy thuộc vào độ tuổi của con nhỏ,theo sự thỏa thuận của các bên, hoặc
xem xét theo nguyện vọng của con cái cũng như theo khả năng của cha mẹ, tuy nhiên

1 Khoản 1, điều 3, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

7


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
không vì thế mà người còn lại không còn “trách nhiệm” gì với con cái. Mà ngược lại,
họ cũng có những quyền, nghĩa vụ cơ bản được quy định rõ tại Điều 82 và Điều 84
Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Pháp luật Việt Nam quy định những quyền và nghĩa vụ của cha mẹ không trực
tiếp nuôi con sau khi ly hôn để đảm bảo sự tiến bộ của pháp luật Hôn nhân gia đình
nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung, đảm bảo cho sự bình đẳng giữa cả cha và
mẹ đối với con cái sau khi ly hôn và đặc biệt là đảm bảo cho sự phát triển toàn diện
của con chung.
Với những lý do trên em quyết định chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Để tìm hiểu, làm rõ cơ sở pháp lý và những bất cập hiện nay khi thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
Từ mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp
nuôi con khi ly hôn.
- Thực tiễn của việc áp dụng quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn tại và qua đó phát hiện những vấn đề còn bất cập trong các quy định
của pháp luật cũng như những khuyết điểm, sai sót và hạn chế của việc áp dụng pháp
luật.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao và đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ
của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
3. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài chuyên đề chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Nghị quyết số 87/2001/NĐCP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình và một số văn
bản khác có liên quan đến việc áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của ch a, mẹ
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Nghiên cứu những bản án áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thông qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân
quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của bộ Luật tố tụng dân sự 2015, Luật Hôn
nhân và gia đình 2014, Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 và một số văn bản
8


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi
ly hôn. Đồng thời, nghiên cứu về việc áp dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ của
cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn tại Tòa án Nhân dân quận Hải Châu.
Phương pháp nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm: phương
pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp chứng minh, phương pháp thống kê, so sánh.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo thì kết cấu chính của chuyên đề tốt nghiệp
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận các về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ khi ly hôn
Chương 2: Thực trạng áp dụng qui định pháp luật quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ
sau khi ly hôn tại Tòa án Nhân dân quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng
Chương 3: Kiến nghị các biện pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của cha, mẹ sau khi ly hôn

9



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA,ME
SAU KHI LY HÔN
1.1 . Khái niệm về ly hôn
Ly hôn là “việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
của Tòa án” 2.(khoản 14, điều 3, Luật hôn nhân và gia đình 2014). Trên thực tế, quan
hệ hôn nhân do nhiều tác động của những yếu tố chủ quan và khách quan nên đã
không giữ được giá trị và ý nghĩa mong muốn như ban đầu. Cuộc sống chung của vợ,
chồng đã không còn hạnh phúc, nên pháp luật đã dự liệu được khả năng cho họ quyền
được giải phóng khỏi quan hệ hôn nhân bằng việc ly hôn. Ly hôn là một hiện tượng
xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự phát triển của xã hội và ngày càng được xã hội
quan tâm bởi những hậu quả nặng nề, không mong muốn của nó . Khi cuộc sống hôn
nhân rơi vào tình trạng khủng hoảng, mục đích hôn nhân không đạt được, thì ly hôn
chính là cách giải thoát cho cả hai bên.
Ly hôn có hai trường hợp là thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn. Thuận tình ly
hôn là trường hợp ly hôn theo yêu cầu của cả hai vợ chồng khi đã thỏa thuận được tất
cả những vấn đề quan hệ vợ chồng. Tòa án sẽ thực hiện theo thủ tục ly hôn thuận tình
và ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận giữa các đương sự. Còn
đơn phương ly hôn là khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải không thành và
thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điều 56, luật Hôn nhân và gia đình
2014 thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Đơn phương ly hôn thường không đạt được các
thỏa thuận về tài sản và con cái. Thủ tục của trường hợp này cũng lâu hơn do các yếu
tố khách quan nên Tòa án thường ra quyết định tạm đình chỉ đề có nhiều thời gian hơn
để giải quyết.
1.2 Hậu quả của việc ly hôn
Khi ly hôn, vợ, chồng thường xảy ra tranh chấp về quan hệ tài sản và quan hệ nhân
thân. Quan hệ tài sản được thỏa thuận và sau khi ly hôn sẽ thuộc về phần sở hữu riêng
của mỗi người, không còn liên quan gì đến nhau. Nhưng hậu quả đầu tiên và cũng
được xem là hậu quả nghiêm trọng nhất về quan hệ nhân thân đó là việc con cái không

còn được sống chung với cả cha và mẹ. Khi cha, mẹ ly hôn thì người chịu thiệt thòi và
đau khổ nhất vẫn là những đứa con. Đối với những đứa trẻ đã trưởng thành thì việc
không được sống chung với cha mẹ đã khó có thể chấp nhận, huống hồ là đối với
những đứa trẻ chưa thành niên khi thể chất và nhân cách còn chưa hoàn thiện, điều này
ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng tới đời sống cũng như sự phát triển của trẻ nhỏ. Trẻ
2 Khoản 14, điều 3, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

10


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
em là tương lai của đất nước, nhiều nghiên cứu cho thấy gia đình có sự ảnh hưởng rất
lớn đến sự hình thành nhân cách trẻ nhỏ. Chính vì thế, gia đình đổ vỡ chính là một
trong những ảnh hưởng lớn nhất đến tâm lý cũng như sự phát triển của trẻ nhỏ. Những
đứa trẻ đã quen được hưởng sự yêu thương, chăm sóc, sự giáo dục quý giá từ gia đình
bởi vậy nên khi cha mẹ chúng ly hôn thì cuộc sống không hạnh phúc, thậm chí nhiều
trẻ nhỏ vì hận cha mẹ mình đã bỏ nhà ra đi, tinh thần suy sụp trở nên bất cần đời và sa
vào các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, lừa đảo, nghiện hút, giết người,... Những nghiên
cứu xã hội học, nhân chủng học gần đây ở nước ta về trẻ em lang thang, trẻ em bỏ nhà
đi kiếm sống, tội phạm vị thành niên, thanh thiếu niên trộm cắp, nghiện ma tuý, mại
dâm,… đều đưa ra những kết luận khá thống nhất rằng: Phần lớn các em đều có bố mẹ
ly hôn, ly thân hoặc giữa bố mẹ có quá nhiều xung đột. Nên đây được coi là một trong
những hậu quả nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến các trẻ em có cha mẹ ly hôn. Chính
vì vậy, chuyên đề này đề cập đến việc áp dụng đến quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn nhằm đảm bảo cho những đứa trẻ có cha, mẹ
ly hôn có môi trường và điều kiện phát triển tốt nhất như những đứa trẻ bình thường.
1.3. Quyền của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1.3.1. Quyền được thăm nom
Quyền này lần đầu tiên được quy định tại Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 và
được coi là một điểm mới và tiến bộ của các nhà làm luật. Sau ly hôn, vợ chồng vẫn có

nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên
nhưng mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Quan hệ của cha mẹ với con chung
không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của vợ chồng, điều đó có nghĩa là cho dù vợ
chồng có sống chung, hay ly hôn thì vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với con cái như
nhau. Việc trông nom, chăm sóc con cái sau ly hôn là quyền của cha mẹ, điều
này được pháp luật thừa nhận. Không ai có quyền ngăn cấm, cản trở việc thực hiện
quyền này. Do vậy, người không trực tiếp nuôi con sau ly hôn vẫn có quyền thăm nuôi
con chung, để đảm bảo cho con cái vẫn được chăm sóc và quan tâm một cách đầy đủ.
Một đứa trẻ nếu được sống trong một gia đình yên ấm, hạnh phúc, mọi người yêu
thương đùm bọc lẫn nhau thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách sau
này của trẻ. Ngược lại, nếu trẻ sống trong gia đình mà ở đó cha mẹ luôn bất đồng với
nhau, luôn cãi cọ, mọi người không có sự yêu thương che chở, quan tâm lẫn nhau thì
sẽ làm cho nhân cách của trẻ phát triển đi sai với những chuẩn mực của xã hội, đặc
biệt là khi cha mẹ ly hôn. Chính vì thế, việc thăm nuôi con đã được pháp luật cụ thể
hóa trong các văn bản pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ sau khi cha mẹ
11


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ly hôn. Đây vừa được coi là quyền, cũng có thể được coi là nghĩa vụ của cha mẹ sau
khi ly hôn, để có thể bù đắp cho trẻ phần nào nỗi đau khi cha mẹ không còn sống
chung.
Khi cha mẹ ly hôn thì việc con cái bị thiếu đi sự quan tâm, tình yêu thương ,chăm
sóc là một điều đương nhiên cho dù người cha hoặc mẹ (người trực tiếp chịu trách
nhiệm nuôi dưỡng) có bù đắp như thế nào đi nữa thì điều mà các em cần và mong
muốn nhất là sự quan tâm của cả hai người, đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi chưa thành niên
càng cần quan tâm nhiều hơn. Chính vì thế, khi

ly hôn cha mẹ phải cùng có


trách nhiệm quan tâm, chăm sóc tới các em nhiều hơn, dù ai là người trực tiếp
nuôi dưỡng hay không trực tiếp nuôi dưỡng thì cũng phải thường xuyên quan tâm, hỏi
han giành những tình cảm cho các em để bù đắp cho sự thiếu hụt về tình yêu thương,
những thiệt thòi về mặt tình cảm mà chúng phải gánh chịu khi cha mẹ ly hôn. Bởi hậu
quả người lớn gây ra thì không thể để con trẻ phải gánh hết được. Nhu cầu được yêu
thương quan tâm chăm sóc là một nhu cầu hiển nhiên và vô cùng quan trọng đối với
trẻ, trẻ lớn lên không chỉ cần vật chất mà yếu tố tinh thần cũng vô cùng quan trọng. Vì
thế mà mà pháp luật đã quy định về quyền thăm nuôi con như một công cụ giúp cha
mẹ thực hiện quyền cũng như nghĩa vụ đối với con cái.
Tuy nhiên, sau khi ly hôn, vợ chồng không còn sống chung nên con chung cũng
chỉ có thể ở với một bên bố hoặc mẹ, chính vì thế người không trực tiếp nuôi con cũng
bị hạn chế, không thể lạm dụng quyền thăm nuôi để gây ảnh hưởng đến cuộc sống của
người trực tiếp nuôi con cũng như ảnh hưởng tới con chung, làm xáo trộn cuộc sống
hàng ngày của con và của người trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy mà luật Hôn nhân và gia
đình 2014 đã có những quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người trực tiếp
nuôi con. Khi người không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nuôi con để cản
trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của
người đó. Có thể thấy, pháp luật đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên một
cách công bằng, pháp luật cũng đã dự liệu được các tình huống không hay xảy ra khi
một bên lạm dụng quyền nuôi con làm ảnh hưởng đến cuộc sống của con chung cũng
như của người trực tiếp nuôi con mà hạn chế quyền này của người không trực tiếp
nuôi con. Đồng thời cũng bảo vệ trẻ nhỏ cách tốt nhất, không làm ảnh hưởng tới cuộc
sống và sự phát triển bình thường của trẻ, vì khi cha mẹ ly hôn, thì có lẽ con cái là
người chịu thiệt thòi nhất, nhất là trẻ vị thành niên càng nên được pháp luật quan tâm
và bảo vệ nhiều hơn nữa.
12


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Mặt khác, lại có những trường hợp người trực tiếp nuôi con không tạo điều kiện
thuận lợi cho người không trực tiếp nuôi con được thăm nuôi con, nguyên nhân xuất
phát từ tâm lý hẹp hòi, cố chấp, hành động theo kiểu “trả thù” cho những mâu thuẫn
giữa hai người, mặc cho con cái phải gánh chịu hậu quả không được sự thăm nom,
chăm sóc đầy đủ của cả hai bên. Do sự thiếu hiểu biết về pháp luật nên không thấy
được hành động như thế là vi phạm pháp luật. Điều này cũng được pháp luật bảo vệ
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho cả cha và mẹ khi ly hôn vẫn được chăm sóc, quan tâm
con cái cách tốt nhất. Việc ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia
đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em
với nhau cũng là hành vi bạo lực gia đình theo quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình 2007.
“Khi bị một bên cản trở quyền thăm nom con sau khi ly hôn. Người không trực
tiếp chăm sóc con có thể thực hiện như sau:
1. Nhờ tổ trưởng dân phố chứng kiến và xác nhận vào đơn về việc có đến thăm
nom nhưng người kia gây khó khăn, cản trở.
2. Đến trường làm đơn xác nhận, xin sao chụp hồ sơ học bạ, sổ liên lạc… để
minh chứng tình trạng sức khỏe, hạnh kiểm và học lực của con
3, Làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án giải quyết cho thi hành vấn đề thăm
nom, chăm sóc c.on chung theo án Tòa.”3
Nghĩa là việc ngăn cản phải được xác minh bằng cách lập thành văn bản có xác
nhận của chính quyền địa phương và nhà trường để người không trực tiếp nuôi con
được thực hiện đầy đủ quyền của mình đối với con chung. Sau đó, cơ quan Thi hành
án mời các bên đến làm việc, người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con sẽ phải cam
kết về việc tạo mọi điều kiện cho người kia được thăm con, không gây khó nữa. Nội
dung này được ghi vào biên bản, có ký tên đóng dấu của cơ quan thi hành án. Nếu
người nuôi con không thi hành việc cho thăm con thì người kia có quyền làm đơn yêu
cầu thi hành án. Trường hợp không tự nguyện thi hành, có thể bị cưỡng chế thi hành
theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2014.
Nếu sự việc xảy ra nghiêm trọng, gia đình hoặc cha mẹ trực tiếp nuôi con vẫn có
những hành vi cản trở người không trực tiếp nuôi con thì trong trường hợp trên, người

bị cản trở quyền thăm nom có thể khởi kiện về việc yêu cầu Tòa thay đổi người trực
tiếp nuôi con. Điều này là hoàn toàn có cơ sở và có thể được chấp nhận, khi bên không
trực tiếp nuôi con chứng minh quyền thăm nom con bị cản trở, mặc dù đã nhờ đến cơ
3 Điều 2, Luật Phòng chống bạo hành gia đình 2007.

13


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan, chính quyền can thiệp nhưng người trực tiếp nuôi con vẫn không tạo điều kiện
để bên còn lại được thực hiện quyền thăm nuôi của mình thì họ có thể làm đơn yêu cầu
Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Với những chứng cứ và quy trình đã làm,
Tòa án có thể chấp nhận yêu cầu của người nộp đơn, quyết định cho thay đổi người
nuôi con một cách thuyết phục.
Nhìn chung, với các quy định của Luật hôn nhân gia đình 2014, cùng các văn bản
pháp lý liên quan, pháp luật Việt Nam đã quy định và cụ thể hóa việc thăm nuôi con
sau khi ly hôn để đảm bảo quyền lợi cho cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn,
cũng như đảm bảo quyền lợi con cái không trực tiếp sống chung với cha mẹ cách tốt
nhất.
1.3.2. Quyền được yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con
Việc thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo dục để
con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đứa, trở thành người con hiếu thảo
của gia đình, công dân có ích cho xã hội, cũng như việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình là quyền, đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ. Hơn nữa cha, mẹ có nghĩa vụ
và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con, vì thế mà cha mẹ có
quyền nuôi con và quyền đó cũng là ngang nhau, do đó sau khi ly hôn việc chăm sóc,
nuôi dưỡng con vẫn không thay đổi. Để đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho con,
pháp luật đã dự liệu, đưa ra cách giải quyết việc nuôi con sau khi ly hôn. Theo đó, việc

thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định tại Điều 84 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014.
Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cũng như luật hôn nhân của nhiều quốc gia
khác đều có những điều khoản cụ thể quy định về quyền nuôi con và cũng có thể coi
đó là nghĩa vụ của người vợ hoặc người chồng sau khi ly hôn. Tuy nhiên, trong hầu hết
các vụ án ly hôn, việc tranh giành hay từ bỏ quyền, nghĩa vụ nuôi con vẫn luôn căng
thẳng không kém gì chuyện phân chia tài sản.
Về nguyên tắc, việc ai là người nuôi con khi ly hôn có thể được các đương sự tự
thỏa thuận với nhau và được tòa ghi nhận trong bản án. Quyết định của tòa án căn cứ
vào quyền lợi về mọi mặt và hướng tới tương lai tốt đẹp của con. Các quyền lợi đó có
thể là: điều kiện học tập, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, đi lại, ăn ở, giáo dục. Chính
vì vậy, có thể thấy người nào có điều kiện tốt hơn về tài sản, thu nhập, công việc, tình
cảm, đạo đức, phương pháp nuôi dạy con cái…và khi con đủ 7 tuổi, đủ để nhận biết
14


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
việc ở với ba hay mẹ là thuận tiện hơn thì toà án sẽ hỏi ý kiến, nguyện vọng của con,
cũng là một căn cứ để Tòa án xem xét giao con cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi
dưỡng .Ngoài ra, nếu con dưới 3 tuổi thì tòa sẽ giao cho người mẹ nuôi dưỡng, bởi lẽ
con dưới 3 tuổi thì người mẹ sẽ đáp ứng được nhu cầu cũng như có điều kiện chăm sóc
con tốt hơn. Ngoại trừ trường hợp người mẹ không muốn nuôi con, hay các bên có
thỏa thuận khác thì sẽ giao cho người còn lại trực tiếp nuôi dưỡng.
Việc ai là người có quyền nuôi con phụ thuộc phần lớn vào quyền lợi và tương lai
của chính người con. Chính vì thế khi một bên vợ hoặc chồng, bên trực tiếp nuôi con
không đáp ứng đủ các điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
cái hoặc các bên có thỏa thuận thay đổi quyền nuôi con để đáp ứng nhu cầu tốt nhất
cho con thì Tòa án sẽ xem xét việc thay đổi quyền nuôi con. Tức là khi giành được
quyền nuôi con khi ly hôn, nhưng trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc con, nếu
người cha người mẹ không hoàn thành trách nhiệm của mình thì người kia có quyền

nộp đơn yêu cầu thay đổi người nuôi con.
Như vậy, trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của các bên hoặc theo yêu cầu
của người thân thích, Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà
nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ và vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định
thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng cho
con. Pháp luật quy định không chỉ cha mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án
thay đổi người trực tiếp nuôi con, mà người thân thích, những cơ quan nhà nước khác
cũng có quyền này. Đây được coi là một điểm tiến bộ của pháp luật Việt Nam, để đảm
bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ em. Bởi trên thực tế, nhiều trường hợp người không trực
tiếp nuôi con không có điều kiện và không biết được việc bên còn lại nuôi dưỡng con
không đảm bảo được quyền lợi tốt nhất cho con, như vậy, người thân của trẻ hoặc các
cơ quan nói trên hoàn toàn có cơ sở để yêu cầu Tòa án thay đổi quyền nuôi con, với
mục đích cuối cùng cũng là để cho trẻ em được nuôi dưỡng và phát triển tốt nhất.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện trong trường hợp người
đang trực tiếp nuôi con không đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của con: chăm sóc,
giáo dục, học tập. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét đến nguyện
vọng của con từ 7 tuổi trở lên. Căn cứ theo quy định này, khi lợi ích của con chung
không đảm bảo, thì các bên vợ chồng có thể thỏa thuận để thay đổi người trực tiếp
nuôi con. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được, thì người không trực tiếp nuôi
con có quyền làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện (quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh) xem xét, giải quyết, kèm với các dẫn chứng, căn cứ kèm theo. Sau đó, Tòa
15


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
án sẽ xem xét nếu thấy việc ở với người không trực tiếp nuôi con trước kia sẽ đảm bảo
quyền lợi về mọi mặt cho đứa trẻ, tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi
con theo quy định của pháp luật.
1.4.


Nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi khi ly hôn

1.4.1. Nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp
nuôi
Khi vợ chồng ly hôn, thông thường thì hai bên sẽ thỏa thuận để lựa chọn người
nuôi con, khi hai bên không tự thỏa thuận được thì Tòa án mới tiền hành giải quyết,
Tòa án sẽ căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau với mục đích tìm được người có thể đáp
ứng tối đa yêu cầu cho sự phát triển của đứa trẻ. Nhìn chung Tòa án sẽ dựa trên các
yếu tố sau: Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…các
yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ; Các yếu tố về tinh thần bao
gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến
nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha
mẹ; Nguyện vọng của con: Con mong muốn được ở với ai (chỉ áp dụng với con từ đủ 7
tuổi trở lên). Tuy nhiên cho dù là ai lựa chọn thì cũng phải đặt quyền lợi của con cái
lên hàng đầu, đảm bảo cho con có quyền lợi tốt nhất. Việc giao con cho một bên trực
tiếp nuôi dưỡng phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt là đảm bảo về
học tập, điều kiện cho sự phát triển về thể chất và tinh thần. Chính vì thế, khi đã lựa
chọn được người trực tiếp nuôi con tức là người đó đã có đủ điều kiện về mọi mặt để
nuôi con, nên người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền của
con được sống chung với người trực tiếp nuôi, tránh các hành vi gây cản trở, gây sức
ép tới con cái làm ảnh hưởng cuộc sống của con với người trực tiếp nuôi dưỡng.
Tôn trọng là sự đánh giá đúng mực, coi trọng danh dự, phẩm giá và lợi ích của
người khác, thể hiện lối sống văn hóa của mỗi người. Nhu cầu được tôn trọng bao gồm
được tôn trọng về uy tín, về danh dự, được thừa nhận, được tiếp nhận… Tôn trọng
là được người khác coi trọng, ngưỡng mộ, khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ
tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là điều
không thể thiếu đối với mỗi con người. Tôn trọng quyền nuôi dưỡng của người trực
tiếp nuôi dưỡng ở đây nghĩa là chấp nhận cũng như có thái độ đúng đắn với người trực
tiếp nuôi con, tránh các hành vi quá khích, coi thường người trực tiếp nuôi con. Khi ly
hôn, tức là quan hệ vợ chồng đã kết thúc, vợ chồng có thể không còn nghĩa vụ đối với

nhau, nhưng con vẫn là con chung, cha mẹ dù sống chung hay không sống chung cũng
16


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với con cái, và nghĩa vụ tôn trọng quyền của
con được sống chung với người trực tiếp nuôi chính là một trong những nghĩa vụ đó.
Đặc biệt, người không trực tiếp nuôi con không chỉ có nghĩa vụ tôn trọng người
trực tiếp nuôi con chung mà còn phải tôn trọng con chung. Đây là một trong những
nhu cầu vô cùng quan trọng của trẻ nhất là đối với những trẻ có bố mẹ ly hôn vì các
em hay bị mặc cảm tự ti về bản thân, chính vì điều này mà mọi người cần có cái nhìn
bao dung hơn, quan tâm hơn đến các em hãy tôn trọng các em hãy cho các em các
quyền được vui chơi học tập tham gia và những công việc như những bạn trẻ khác vì
như vậy mới giúp các em nhận thấy được cuộc sống vẫn có nhiều điều tốt đẹp, không
phải ai cũng xa lánh mình, coi thường mình khi bố mẹ li hôn. Còn với bản thân bố mẹ
thì hãy tôn trọng những suy nghĩ và quyết định của con cái họ vì đây chính là cách làm
duy nhất để bù đắp những thiệt thòi cho con cái mình, tránh tình trạng ép buộc con
phải sống chung với ai hoặc không được sống chung với ai, vì tâm lý trẻ chưa thành
niên chưa phát triển toàn diện nên việc gây sức ép sẽ dễ gây tổn thương đến tâm lý của
trẻ, mà nghiêm trọng hơn còn gây ra các bệnh tâm lý như trầm cảm, tự ti...
Tuy nhiên, không phải mọi cặp vợ chồng sau khi ly hôn đều tôn trọng nhau. Sau
khi ly hôn, nhiều vợ chồng có những thái độ thiếu tôn trọng người còn lại, hoặc thậm
chí xem nhau như kẻ thù. Họ lợi dụng quyền thăm nuôi con mà tới quấy rối người bên
kia , hay có những lời nói, hành vi thiếu tôn trọng người trực tiếp nuôi con. Pháp luật
cũng đã dự liệu được những tình huống như thế. Đối với những trường hợp như vậy,
người trực tiếp nuôi con có thể yêu cầu chính quyền địa phương can thiệp giải quyết,
nếu sau khi nhờ chính quyền địa phương can thiệp, nhưng người không trực tiếp nuôi
con vẫn có những hành vi thiếu tôn trọng người trực tiếp nuôi con gây ảnh hưởng đến
cuộc sống của con chung thì người đó có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án hạn chế quyền
thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 29 Bộ luật tố

tụng dân sự 2015:
“"Điều 29. Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án:
4. Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền
thăm nom con sau khi ly hôn. ”.4
Có thể thấy, để bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất, giúp các em có được một cuộc
sống tốt đẹp, bù đắp phần nào tổn thương các em phải gánh chịu của cha mẹ sau ly
hôn, pháp luật đã có những quy định cụ thể về quyền để đảm bảo quyền lợi tốt nhất
4 Điều 29, Bộ Luật Dân sự 2015.

17


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cho con, bên cạnh đó pháp luật cũng có nhứng quy định nhằm hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con khi có những hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, để không ảnh hưởng tới cuộc sống cũng như sự phát
triển của con chung.
1.4.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng
Nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là: Con sinh ra không phụ
thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ. Con cái đều có nghĩa vụ như nhau đối với
cha và mẹ và ngược lại cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với con cái cho
dù cha mẹ có trực tiếp nuôi dưỡng hay không. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự
phân biệt đối xử giữa các con, không phải cha mẹ trực tiếp nuôi con thì có thể có
quyền lớn hơn đối với con cái, hay con cái trực tiếp sống chung thì sẽ có nghĩa vụ lớn
hơn đối với người trực tiếp nuôi dưỡng. Điều này thể hiện tính tiến bộ của chế độ hôn
nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. Và một trong những nghĩa vụ cũng như quyền lợi
cơ bản thể hiện sự tiến bộ này là nghĩa vụ cấp dưỡng. Cấp dưỡng có thể hiểu một cách
khát quát, cấp là cung cấp, còn dưỡng là nuôi dưỡng. Cấp dưỡng là biểu tượng của tình
đoàn kết và trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình. Nó còn là nghĩa vụ trong

các trường hợp mà pháp luật quy định thể hiện tính trách nhiệm của các thành viên
trong gia đình với nhau.
Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau: “2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con
có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.”5
Thêm nữa, điều 110 Luật này quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con
nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.6
Đây vừa được coi là quyền cũng như nghĩa vụ của cha (mẹ)- người không trực
tiếp nuôi con. Con chưa thành niên là con chưa có sự trưởng thành về thể chất và tinh
thần, cuộc sống của trẻ em phụ thuộc vào cha mẹ ở nhiều khía cạnh khác nhau, đáp
ứng các nhu cầu vật chất là một trong những khía cạnh đó. Chính vì thế, khi cha mẹ
không trực tiếp nuôi dưỡng con thì phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là lẽ
đương nhiên. Nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này không phụ thuộc vào yêu cầu
cũng như khả năng kinh tế của người trực tiếp nuôi con. Dù người trực tiếp nuôi con
không yêu cầu bên kia cấp dưỡng và có khả năng để nuôi con thì người không trực
5 Điều 82, Luật Hôn nhân và gia đình 2014
6 Điều 110, Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

18


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiếp nuôi con vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong một số trường hợp luật
định. Khi con đã thành niên, thì nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ sẽ được hủy bỏ, tuy
nhiên trong một số trường hợp cha mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản đẻ tự nuôi mình,
đây là những nghĩa vụ cơ bản của cha mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con đối với con ,
thật ra chỉ là một cách hiểu khác của việc nuôi con trực tiếp hoặc không nuôi con thì

có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các thành viên
trong gia đình, thể hiện trách nhiệm, sự quan tâm của các thành viên trong gia đình với
nhau. Tuy nhiên không phải lúc nào nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cũng thực hiện
được. Với thực trạng hiện nay các mối quan hệ về hôn nhân gia đình xuống cấp
nghiêm trọng về mặt đạo đức, vì vậy pháp luật quy định về cấp dưỡng lại càng cần
thiết nhằm đề cao trách nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với nhau, nhằm
đảm bảo sự ổn định, bền vững, và hạnh phúc của gia đình và các mối quan hệ xã
hội. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên,
người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu. Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt
thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt
thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình.
Cha, mẹ và con trong thời kỳ hôn nhân sống chung với nhau thì phát sinh quan hệ
nuôi dưỡng căn cứ theo nguyên tắc cha mẹ có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình. Còn quan hệ cấp dưỡng được đặt ra trong các trường hợp cha mẹ không
còn trực tiếp sống chung với con cái nữa, ở đây có hai trường hợp cơ bản:
Thứ nhất, khi hôn nhân đang tồn tại mà cha mẹ không có điều kiện trực tiếp nuôi
con (phải chấp hành án phạt tù, hay vì lý do cá nhân mà không thể sống chung với
con…). Trong trường hợp này, con được giao cho người khác trông nom thì cha mẹ
phải có nghĩa vụ cấp dưỡng con. Trong trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền cha mẹ
đối với con chưa thành niên tại Điều 85 Luật HNGĐ 2014, hoặc trường hợp cha mẹ bị
Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Như vậy, có thể thấy dù có trực tiếp sống chung hay không, dù có ly hôn hay
19



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chưa thì nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được coi là một trong những nghĩa vụ cơ bản và
quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của con, chính vì như vậy
điều này cần được pháp luật quan tâm và chú trọng hơn nữa.
Thứ hai, khi cha, mẹ ly hôn người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân
sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Con phải rơi
vào các trường hợp nêu trên thì nguời không trực tiếp nuôi con mới có nghĩa vụ cấp
dưỡng, còn con đã thành niên không rơi vào trường hợp trên thì cha, mẹ không có
nghĩa vụ cấp dưỡng.
Thứ ba, trường hợp cha, mẹ phải cấp dưỡng cho con ngoài giá thú khi người con
này ở với người còn lại. Trong trường hợp người cha, người mẹ trốn tránh trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Theo nguyên tắc: Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha
mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại
Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Ngoài ra, nếu người không trực tiếp nuôi con có đủ khả năng tài chính nhưng trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng khiến người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 186
Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017: Tội từ chối hoặc trốn tránh
nghĩa vụ cấp dưỡng
“Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp
dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà
từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”7

Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng được coi là một trong những nghĩa vụ cơ bản và
quan trọng nhất để đảm bảo cuộc sống hằng ngày cũng như ổn định cho con, đã và
đang được pháp luật bảo vệ, bởi lẽ vấn đề cấp dưỡng không chỉ thể hiện sự quan tâm,
chăm sóc giữa cha mẹ với con cái mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống, tới
nhu cầu vật chất mà mọi cá nhân cần phải có.
7 Điều 186, Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

20


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

21


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI KHÔNG TRỰC TIẾP NUÔI CON TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN
HẢI CHÂU
2.1. Giới thiệu về Tòa án Nhân dân quận Hải Châu, điều kiện kinh tế- xã hội tại
quận Hải Châu
2.1.1. Vài nét về điều kiện kinh tế- xã hội quận Hải Châu
Hải Châu là quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, Việt Nam.
Quận Hải Châu l Là nơi tập trung chủ yếu các cơ quan ban ngành và là trung tâm
kinh tế, văn hóa, chính trị và giáo dục của Thành phố Đà Nẵng. Trên địa bàn quận
có Sân bay quốc tế Đà Nẵng. Nếu không tính diện tích sân bay (8,42 km²) thì diện tích
quận là 12,17 km². Mật độ dân số năm 2005 là 16.340 người/km².
Theo Nghị định số 07/1997/NĐ-CP của Chính phủ, quận Hải Châu được thành
lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường Hải Châu I, Hải
Châu II, Thạch Thang, Thanh Bình, Thuận Phước, Bình Thuận, Hoà Thuận, Nam

Dương, Phước Ninh, Bình Hiên, Hoà Cường, Khuê Trung của khu vực I thành phố Đà
Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng cũ. Khi mới thành lập, quận có 2.373 ha
diện tích tự nhiên và 203.264 người, gồm 12 phường.
Năm 2005, phường Hoà Cường được tách thành phường Hoà Cường Nam và
phường Hoà Cường Bắc, phường Hoà Thuận được tách thành thành phường Hoà
Thuận Đông và phường Hoà Thuận Tây, phường Khuê Trung chuyển sang trực thuộc
quận Cẩm Lệ. Từ đó, quận có 13 phường, giữ ổn định cho đến nay. Là một quận trung
tâm, nằm sát trục giao thông Bắc Nam và cửa ngõ ra Biển Đông. Với một hệ thống hạ
tầng giao thông phát triển mạnh, đồng thời, là trung tâm hành chính, thương mại, dịch
vụ của thành phố, tập trung đông dân cư và các cơ quan, văn phòng của hầu hết các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, quận Hải Châu có một tầm quan trọng đặc biệt
trong sự phát triển của TP Đà Nẵng về tất cả mọi mặt.
Nhờ những điều kiện kinh tế tự nhiên như vậy nên đời sống xã hội ở quận Hải
Châu được nâng cao.
2.1.2. Giới thiệu Tòa án nhân dân quận Hải Châu
Tên của đơn vị thực tập: Tòa án nhân dân quận Hải Châu, TP.Đà Nẵng.
Địa chỉ của đơn vị thực tập: là 01 trong 07 Tòa án cấp quận tại Thành phố Đà
Nẵng, có thẩm quyền trong lãnh tổ Quận Hải Châu. Có trụ sở tại 24 Đường Hoàng
Văn Thụ, Phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng. Đơn vị có tổng
cộng 34 lao động, trong đó có 19 Thẩm phán và 08 Thư ký.
Là đơn vị thuộc một quận trung tâm của TP. Đà Nẵng nên TAND quận Hải
22


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Châu là một trong những đơn vị có lượng án thụ lý, giải quyết cao, nhiều án phức tạp
trong các quận huyện. Mặc dù lượng công việc nhiều, trong khi nguồn nhân lực cũng
như cơ sở vật chất còn thiếu thốn, song với tinh thần trách nhiệm cao, trong những
năm qua đơn vị luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và được các cấp lãnh đạo
đánh giá cao.

Với những nỗ lực đó, liên tục trong nhiều năm liền TAND quận Hải Châu đã
đạt được những kết quả tốt. Trong đó, năm 2012 đơn vị vinh dự được Chủ tịch nước
tặng thưởng “Huân chương Lao động hạng II”, năm 2014 được Thủ tướng Chính phủ
tặng Cờ thi đua Chính phủ, liên tục nhận danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc của
Chánh án TANDTC; Bằng khen của Chánh án TANDTC và TAND TP Đà Nẵng công
nhận danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến trong nhiều năm
liền. ………………………………..
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………….

…………………..
……………………………………………………………………………………
…………
2.2. Tình hình giải quyết ly hôn ở Tòa án nhân dân quận Hải Châu
Thống kê từ năm 2017 đến năm 2019, tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã thụ
lý 1517 vụ án, đã giải quyết 1497 vụ án các loại đạt tỉ lệ 98,68 %. Tòa án nhân dân
quận Hải Châu đã đẩy nhanh tiến độ và nâng cao hiệu quả quy trình giải quyết, xét xử
các vụ án đồng thời đẩy mạnh việc tranh luận nên hầu hết các vụ án được giải quyết
trong thời hạn luật định và đúng căn cứ pháp luật. Trong đó số vụ án Hôn nhân và gia
đình được thống kê với kết quả như sau:
Năm

2017

2018
23


2019


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tổng số vụ án đã
thụ lý
Tổng số vụ án đã
giải quyết
Tỷ lệ

423

541

553

419

528

550

99,05%

97,59%

99,45%

Bảng 2.1. Bảng thống kê thụ lý vụ việc Hôn nhân và gia đình từ năm 2017 đến 2019

Theo khảo sát thực tế tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu, các tranh chấp về Hôn
nhân và gia đình chiếm tỉ lệ cao trong các vụ án mà Tòa án nhân dân quận Hải Châu
thụ lý. Tổng số án Hôn nhân gia đình thụ lý 1517 vụ việc, chiếm 78% tổng số án dân
sự đã thụ lý trong năm 2018. Công tác giải quyết vụ án luôn đạt tỉ lệ cao, trong đó
công nhận thuận tình ly hôn 898 vụ việc, đạt tỷ lệ 60,6; hòa giải đoàn tụ thành 212 vụ
việc, đạt tỷ lệ 14,16% . Trong quá trình giải quyết án Hôn nhân và gia đình, Ban lãnh
đạo và Thẩm phán luôn đề cao tinh thần hòa giải, tạo mọi điều kiện để những cặp vợ
chồng có thể về đoàn tụ với nhau, cùng nhau tiếp tục xây dựng một gia đình êm ấm,
hạnh phúc. Theo khảo sát thực tế cho thấy, số lượng vụ án áp dụng quyền và nghĩa vụ
của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn chiếm tỉ lệ khoảng 13%. Nhưng
những vụ án đưa ra xét xử đều mang tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều người và
cần phải có nhiều thời gian xác minh làm rõ của Tòa án nên có những vụ án phải tạm
đình chỉ và đưa ra xét xử nhiều lần.
Qua thời gian thực tập và làm việc tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu thì có
thống kê được số vụ án về Hôn nhân và gia đình tương đối nhiều, chiếm tỉ lệ cao trong
tổng số vụ án đã thụ lí. Trong khi đó các các vụ án về quyền và nghĩa vụ của người
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn ở Tòa án nhân dân quận Hải Châu lại rất ít so
với tổng vụ án Hôn nhân và gia đình. Cụ thể là:

Năm

Tổng thụ lý

Tỷ lệ trên tổng số vụ án
Hôn nhân và gia đình

2017

54


423

2018

75

541

2019

68

553

Bảng 2.2. Bảng thống kê thụ lý vụ việc áp dụng quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn từ năm 2017 đến 2019
Qua bảng thống kê số vụ án về việc áp dụng quyền và nghĩa vụ của người không
trực tiếp nuôi con tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu từ năm 2017-2019 cho thấy số
24


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vụ án thụ lý về việc áp dụng quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau
khi ly hôn trong một năm rất ít so với tổng số vụ án Hôn nhân và gia đình đã thụ lý.
Hiện nay, các vụ án về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ không trực tiếp nuôi con
sau khi ly hôn ngày càng trở nên phức tạp và khó giải quyết. Vì khi giải quyết những
vụ việc trên thì đòi hỏi Tòa án phải xác minh một cách chính xác và đầy đủ để đưa ra
quyết định đảm bảo đúng với pháp luật và tạo điều kiện tốt nhất cho đứa trẻ phát triển
như những đứa trẻ bình thường khác. Điều nay tạo nên một sức ép không hề nhỏ cho
thẩm phán khi ra quyết định cuối cùng. Tuy nhiên, thực tế đời sống phong phú, đa

dạng nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều tình huống mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh hoặc
quy định chưa cụ thể khiến cho việc thực hiện gặp nhiều khó khăn.
2.3. Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn
2.3.1. Quyền thăm nuôi con
Sau ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ về mặt pháp luật là không thay đổi,
được pháp luật quy định một cách công bằng không phụ thuộc vào việc có trực tiếp
nuôi dưỡng con chung hay không. Thực tế cho thấy, nhiều cha mẹ không trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn vẫn thường xuyên đến thăm nom con vào cuối tuần hay các dịp lễ
tết, tuy quan hệ hôn nhân không còn nhưng quan hệ huyết thống với con chung vẫn
còn. Chính vì thế, họ vẫn đảm bảo thực hiện quyền này một cách đầy đủ và tốt nhất.
Việc thăm nuôi con sau khi ly hôn để bù đắp cho những tổn thương về tinh thần của
trẻ, giúp trẻ phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Đồng thời, người trực tiếp
nuôi con sau ly hôn cũng tạo điều kiện cho bên còn lại thực hiện quyền thăm nom một
cách đầy đủ. Như vậy, nỗi đau về tinh thần của trẻ sẽ được giảm bớt phần nào. Nhận
thức được điều này nên trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn thì Tòa án đã giải thích
rất rõ về quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cho các
đương sự. Điều này chứng tỏ Tòa án rất quan tâm đến những đứa trẻ có cha, mẹ ly hôn
và đó cũng là trách nhiệm của những người làm Luật.
Tuy nhiên, không phải cha mẹ nào trên thực tế sau ly hôn cũng thực hiện quyền
và nghĩa vụ đối với con một cách đầy đủ. Thăm nom con sau khi ly hôn được quy định
là quyền của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Chính vì được coi là
quyền nên nhiều cha mẹ thường coi thường quyền đó, thiếu trách nhiệm với con cái.
Họ cho rằng sau khi ly hôn thì thăm cũng được, mà không thăm cũng được, hay có
những suy nghĩ chỉ cần cấp dưỡng cho con là đủ, việc thăm nom không quan trọng.
25


×