Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

15 câu hỏi tự luận ôn tập tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.53 KB, 21 trang )

Đinh Xuân Diễn (VL37)

Câu 1: Phân tích ảnh hưởng của truyền thống văn hóa nhân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại
đối với sự hình thành tư tưởng HCM
Ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân tộc
Tư tưởng HCM, trước hết là bắt nguồn từ các giá trị truyền thống của dân tộc, đó là truyền thống yêu
nước, kiên cường bất khuất, là tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng,
là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách, là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng hiền tài,
khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc, là tinh thần lạc quan
yêu đời của dân tộc VN,…
Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình cảm cao quý, thiêng liêng
nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dung cảm của người VN, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ
bản của dân tộc
Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và
hành động của mỗi con người. Chính từ thực tiễn đó, HCM đã đúc kết chân lý: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nuớc. Đó là một truyền thống quý bàu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn song vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó luớt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nuớc và cướp nước.”
Ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa nhân loại
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương đông với các thành tựu hiện đại của văn minh
phương tây-Đó chính lá nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách văn hóa HCM
Văn hóa phương đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của nho giáo, phật giáo và tư tưởng tiến bộ khác
của văn hóa phương đông.
Nho giáo:
Tiếp thu: Đó là các triết lý hành động, tư tượng nhập thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã
hội bình trị, hòa mục, hòa đồng, là triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra
truyền thống hiếu học.
Hạn chế: Có những tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp (Quân tử và
tiểu nhân), trọng nam khinh nữ.
Phật giáo:
Tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổi, cứu nạn, thương người


như thể thương thân; Là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giãn dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần
bình đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp.
Hạn chế về thế giới quan duy tâm chủ quan, hướng con người tới xuất gia tu hành, làm hạn chế tính
tích cực xã hội của con nguời.
“Chủ nghĩa tam dân” của Tôn Trung Sơn: Người đã tìm thấy những "điều thích hợp với điều kiện của
nước ta”
Văn hóa phương Tây:
HCM chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và CM phương tây như: Tư tưởng tự do, bình
đẳng trong “Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền” của đại CM Pháp 1791; Các giá trị về quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.
1


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Người cũng tiếp thu tư tuởng tiến bộ của các nhà khai sáng Vonte, Rút xô, Môngtétxkiơ
Chủ nghĩa Mác – Lenin:
Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tt HCM
Việc tiếp thu chủ nghĩa mác lenin ở HCM diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy
được chắt lọc, hấp thụ và 1 vốn chính trị, vốn hiểu biểu phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt
động và thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc,
Bản lĩnh trí tệu đó đã nâng cao khả năng độc lập tự chủ và sáng tạo ở Người khi vận dụng các nguyên
lý cách mạch của thời đại vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của VN.
Từ những nhận thức ban đầu của chũ nghĩa lenin; HCM đã tiến dần đến những nhận thức “ Lý tính”,
trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn, để rồi tiếp thu học thuyết của các ông 1 cách có chọn lọc, không
rập khuôn, máy mọc, không sao chép giáo điều, Người tiếp thu lý luận mac – Lenin theo phương pháp
mácxit, nắm lấy cái tinh thần, bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện
chứng của chủ nghĩa mac-lenin để giải quyết các vấn đề thực tiễn của CM VN, chứ không đi tìm những
kết luận có sẵn trong sách vở.
Vai trò của chủ nghĩa mac-lenin đối với tt HCM thể hiện ở chỗ:

Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tương HCM
Quyết định phương pháp hành động biện chứng của HCM
Tt HCM là chủ nghĩa mac-lenin ở VN, là tt VN thời hiện đại
Nhờ chủ nghĩa mac-lenin giúp HCM tiếp thu văn hóa thời đại, tìm được con đường giải phóng dân tộc
theo con đường vô sản
Câu 2: Phân tích vai trò của chũ nghĩa mac-lenin đối với sự hình thành tt HCM?
Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tt HCM, là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản
chất của tư tưởng HCM, đồng thời tt của người góp phần làm phong phú thêm CN mac-lenin ở thời đại
các dân tộc bị áp bức, vùng lên giành độc lập, tự do.
HCM đã đến với nghĩa mác lenin là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của CM Việt Nam
Việc tiếp thu chủ nghĩa mác lenin ở HCM diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy
được chắt lọc, hấp thụ và 1 vốn chính trị, vốn hiểu biểu phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt
động và thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc,
Bản lĩnh trí tuệ đã nâng cao khả năng độc lập tự chủ và sáng tạo ở Người khi vận dụng các nguyên lý
cách mạch của thời đại vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của VN.
Từ những nhận thức ban đầu của chũ nghĩa lenin; HCM đã tiến dần đến những nhận thức “ Lý tính”,
trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn, để rồi tiếp thu học thuyết của các ông 1 cách có chọn lọc, không
rập khuôn, máy mọc, không sao chép giáo điều, Người tiếp thu lý luận mac – Lenin theo phương pháp
mácxit, nắm lấy cái tinh thần, bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện
chứng của chủ nghĩa mac-lenin để giải quyết các vấn đề thực tiễn của CM VN, chứ không đi tìm những
kết luận có sẵn trong sách v
Vai trò của chủ nghĩa mac-lenin đối với tt HCM thể hiện ở chỗ:
Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tương HCM
Quyết định phương pháp hành động biện chứng của HCM
2


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Tt HCM là chủ nghĩa mac-lenin ở VN, là tt VN thời hiện đại

Thế giới quan và phương pháp luận mac-lenin đã giúp HCM tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực
tiễn để tìm ra con đường cứu nước: Kết hợp với chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết
hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với CN xã hội, nâng chủ quyền yêu nước lên 1 trình độ mới
trên lập trước của chũ nghĩa mac-lenin
Như vậy, CN mac-lenin đống vai trò quan trọng chủ yếu trong việc hình thành tư tưởng HCM, là bộ
phận hữu cơ, bộ phận cơ sở, nền tảng của tt HCM. Không thể đặt tt HCM ra ngoài hệ tt mac-lenin, hay
nói cách khác, không thể tách tt HCM khỏi nền tảng của nó là CN mac-lenin.
Nhờ chủ nghĩa mac-lenin giúp HCM tiếp thu văn hóa thời đại, tìm được con đường giải phóng dân tộc
theo con đường vô sản
Câu 3: Trình bày nội dung cốt lõi của vận đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng HCM
Cách tiếp cận từ quyền con người:
HCM hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và tiếp cận những nhân tố về quyền con
người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
1791 của CM Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Người khẳng định “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”
Nhưng từ quyền con người, HCM đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền xung sường và quyền tự
do”
Độc lập dân tộc - Nội dung cốt lõi của độc lập dân tộc:
Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả xâm phạm của dân tộc. Độc
lập của Tổ Quốc, tự do của nhân dân là thiêng liêng nhất.
Người đã từng khẳng định: Cái mà tôi cần nhất trên đời này là: đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi
được độc lập.
Trong Bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Vec-xay năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đòi
quyền bình đẳng về pháp lý cho dân tộc và quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Nội dung cốt lõi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 là: độc lập, tự do cho dân tộc tạo tiền
đề xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Trực tiếp chủ trì Hội nghị TW 8 (5/1941), Người viết thư Kính cáo đồng bào và chỉ rõ: “Trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng là cao hơn hết thảy”
Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định quyết tâm: “Dù hy sinh tới

đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”[4].
Trong “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Người long trọng tuyên bố trước
quốc dân đồng bào và thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”[5]. v.v.
Độc lập dân tộc là 1 nền độc lập thật sự hoàn toàn gắn với hòa bình, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian sau CMT8, Hồ
Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng
tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”[6]
3


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền được thể hiện rõ:
“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”[7]. Và khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một chân
lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”[8].
Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc. Và chính phủ Mỹ phải cam kết: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm
1954 về Việt Nam đã công nhận”.
Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa
gì: Nghĩa là độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc, cơm no, áo ấm của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn độc lập, dân
tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no,
mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh.

Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết
cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời là nguồn động viên đối với các
dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Câu 4: Nêu những luận điểm cơ bản trong tư tưởng HCM về cách mạch giải phóng dân tộc. Luận điểm
nào thể hiện rõ nhất sự sáng tạo lý luận của HCM? Vì sao?
Những luận điểm cơ bản trong tư tưởng HCM về cách mạch giải phóng dân tộc:
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường vô sản
cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi
trước cách vô sản ở chính quốc
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành phải cách mạng bạo lực
Trong những luận điểm trên, luận điểm “Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách vô sản ở chính quốc” thể hiện rõ nhất sự sáng tạo lý
luận của HCM.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền (Đế quốc chủ nghĩa), nền kinh tế hàng hóa phát
triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó là nguyên nhân sâu sa những cuộc chiến tranh
xâm lược thuộc địa. Các nước thuộc địa trở thành nguồn sống của chủ nghĩa đề quốc.
Nguyền Ái Quốc khẳng định: “Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các sứ thuộc địa,
Đó là nơi CNTB lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công
rẻ mạt cho đạo quan lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản
các mạng của nó”. “… Nọc độc và sức sống của con rắn độc TBCN đang tập trung ở các thuộc địa”
Trong cuộc đấu trành chống chủ nghĩa đề quốc, chủ nghĩa thực dân, CM thực địa có tầm quan trọng
đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng CM to lớn. Theo HCM “Phải làm cho các dân tộc
thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đạt cơ sở cho 1
liên minh phương đông tương lai, khối liên minh này sẽ là 1 trong nhưng cái gánh của CM vô sản”
4



Đinh Xuân Diễn (VL37)

HCM vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ
lực tự giải phóng.
Vận dụng công thưc của C.mác “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân
giai cấp công nhân”. Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (Tức nhân dân thuộc địa
– TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực của bản thân anh em”.
Người đánh giá cao sức mạnh của 1 dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân, người chủ trương phát
huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực gánh sinh. Trong vào sức mình
… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi
mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực gánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng độc lập”
Quan hệ giữa CM thuộc địa và CM vô sản ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế, đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của CM thuộc địa phụ
thuộc vào thắng lợi của CM vô sản ở chính quốc. Quan điểm này, vô hình chung đã làm giảm tính chủ
động, sáng tạo của các phong trào CM thuộc địa.
Theo HCM, giữa CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa và CM vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật
thiết với nhau, tác động qua lại mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là CNĐQ.
Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc or quan hệ chính – phụ.
Người cho rằng CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể dành thắng lợi trước CM vô sản ở chính
quốc
Đây là 1 luận điểm sáng tạo, có giá trí lý luận và thực tiễn to lớn; 1 cống hiến rất quan trọng của HCM
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin, đã được thắng lợi của phong trào CM giải phóng dân
tộc trên toàn thế giới trong gần 1 thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắng.
Câu 5: Phân tích quan điểm của HCM về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là 1 chế độ do nhân dân làm chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và dân lao động làm chủ, nhà
nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nồng cốt là liên minh công –

nông – trí thức, do ĐCS lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn kết thành 1 khối thống
nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định vận mệnh cũng như là sự phát triển đất nước
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. HCM coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ
nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại
quyền lợi cho nhân dân.
2. Chủ nghĩa xã hội là 1 chế độ xã hội có nền phát triển kinh tế cao, gắn liền với sự phát triển của khoa
học – kỹ thuật.
Đó là xã hội có 1 nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn
luôn phát triển dưới nền tảng của phát triển khoa học – kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu
khoa học – kỹ thuật của nhân loại
3. Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người.

5


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Đây là 1 vấn đề được hiểu nó như là 1 chế độ hoàn chỉnh, đặt đến độ chín muồi. Trong chủ nghĩa xã
hội, không còn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là 1 xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
4. Chủ nghĩa xã hội là 1 xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức
Đó là 1 xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột,
bất công, không cón sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn,
con người được giải phóng, có điều kiện được phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã
hội và tự nhiên
5. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã hội bằng pháp
luật thể hiện quyền và lợi ích của nhân dân, vì vậy là nhà nước của dân, do dân và vì dân

Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về tay nhân dân với nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và giai cấp trí thức.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản – Đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý
tưởng xã hội chủ nghĩa.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện 1 hệ thống giá trí vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa
được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chũ nghĩa xã hội.
Câu 6: Phân tích quan điểm của HCM về mục tiêu, động lực xây dựng CNXH.
Mục tiêu cụ thể
HCM đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Mục tiêu chính trị:
Theo tư tưởng HCM, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là do dân lao
động làm chủ, nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước có 2 chức năng. Dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. 2 chức năng
đó không tách rời nhau, mà luôn đi đôi với nhau. Một mặt HCM nhấn mạnh phải phát hiện quyền dân
chủ và sinh hoạt chính trí của nhân dân; Mặt khác, là yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động
chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ XHCN
Mục tiêu kinh tế:
Theo HCM, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở 1 nền
kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế XHCN với công – nông nghiệp
hiện đại, khoa học – kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo CNTB được bỏ dần, đời sống vật chất dân
nhân ngày càng cải thiện.
Nền kình tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà những ngành chủ yếu là
công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “Công nghiệp và nông nghiệp là 2 chân của nền
kinh tế nước nhà”.
Mục tiêu văn hóa xã hội:
Theo HCM, văn hóa là 1 mục tiêu cơ bản của CM XHCN.
6



Đinh Xuân Diễn (VL37)

Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển
giáo dục, nâng cao dân trí, phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành về sinh
phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tính dị đoan, khắc phụ phong tục tập quán lạc hậu ….
Mục tiêu con người (quan hệ xã hội)
Theo HCM, chũ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân. Do đó, nếu không có con người thì
không có xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa, xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa con người với con người. Đó là con người của lý tưởng xã hội chủ nghĩ, đấu tranh cho lý
tưởng của chũ nghĩa xã hội. Con người viết hy sinh lợi ích cá nhân cho tập thể.
Ở giai đoạn giải phóng dân tộc về chính trị, quyền lợi dân tộc và quyền lợi các giai cấp là thống nhất.
Sang giai đoạn giải phóng dân tộc về mặt kinh tế thì quyền lợi chính trị là thống nhất, nhưng quyền lợi
kinh tế của các giai cấp lại không thống nhất, thậm chí lại có mâu thuẫn. Muốn có sự nhất trí và quyền
lợi chính trị và quyền lợi kinh tế đòi hỏi phải có thời gian đề dần dần tạo ra trong nhận thức của mỗi
người, mỗi giai cấp cách mạng về lực lượng xây dựng xã hội chủ nghĩa
Thứ hai, con người xã hội chủ nghĩa phải luôn gắn tài với đạo đức. Người quan niệm: Có tài mà không
có đức là hỏng. Có đức mà không có tài thì không thể làm việc được
Động lực
Theo HCM, những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: Vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại
sinh. Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động,
nồng cốt là công – nông – tri thức. HCM thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của
họ; đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.
HCM rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực
sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật,
kinh tế với xã hội.
Động lực chính trị, tư tưởng, tinh thần
Sức mạnh tiềm tàng của quần chúng chỉ được huy động vào sự ngiệp cách mạng khi quần chúng giác
ngộ lý tưởng cách mạng, nhất trí với quan điểm của đảng, tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính

sách của đảng và nhà nước
Sự giác ngộ này có được là kết quả của 1 quá trình tuyên truyền, giáo dục lâu dài, bền bỉ của toàn hệ
thống chính trị
Ngoài các động lực bên trong, theo HCM, phải kết hợp được sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết
quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng
tốt những thành quả khoa học – kỹ thuật thế giới…
Giữa nội lực và ngoại lực, HCM xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoài lực là rất quan trọng.
Chính vì thế, người hay nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực gánh sinh là chính nhưng luôn luôn
chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế tạo
thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công CNXH trên cơ sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản
của VN, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chung sống hòa bình và phát triển

7


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa
xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ, xơ cứng; không có sức hấp dẫn, đó là tham ô, lãng phí,
quan liêu… Mà người gọi đó là “Giặc nội xâm”.
Câu 7: Phân tích quan điểm sáng tạo của HCM về sự ra đời của đảng cộng sản VN
Quan điểm HCM
Vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa mac-lenin vào điều kiện cụ thể của VN, HCM xác định: ĐCS VN ra
đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa mac-lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Điều này thể hiện:
HCM đánh giá rất cao vai trò của chủ nghĩa mac-lenin đối vói CM nói chung và đối với sự hình thành
ĐCS VN nói riêng.
Đánh giá cao vị trí, vai trò của giai cấp CN VN và phong trào công nhân. Giai cấp CN lúc bấy giời tuy
còn nhỏ bé (2% dân số), phong trào CN còn yếu nhưng họ vẫn giữa vai trò lãnh đạo cách mạng vì:
Đó là giai cấp đầu tiên tiến nhất trong sức sản xuất, đại diện cho phong trào sản xuất mới, gánh trách

nhiệm đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc để xây dựng 1 xã hội mới
Đó là giai cấp có tinh thần cách mạng kiên quyết, triệt để nhất, có tổ chức, kỷ luật cao
Giai cấp CN có chủ nghĩa mac-lenin làm nền tảng tư tưởng.
Phong trào yêu nước là 1 thành tố quan trọng trong việc ra đời của ĐCS VN vì:
Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc VN.
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc VN, là nhân tố chủ đạo quyết
định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Phong trào yêu nước VN là phong trào rộng lớn nhất có trước phong trào công nhân từ nghìn năm lịch
sử. Nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc đứng lên chống kẻ thù.
Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hằng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã kết thành chủ
nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc VN.
Hai là, phong trào công nhân kết hợp được phong trào yêu nước vì nó đều có mục tiêu chung.
Phong trào công nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào yêu nước. Cơ sở của sự kết hợp
từ đầu, liên tục, chặt chẽ giữa 2 phong trào này do mâu thuẫn cơ bản của xã hội VN lúc bấy giờ, là mâu
thuẫn của toàn bộ dân tộc với bọn đế quốc và tay sai, cả 2 phong trào đều có mục tiêu chung là giải
phóng dân tộc, làm cho nước VN hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước giàu mạnh.
Hơn nữa, chính bản thân phong trào công nhân, xét về nghĩa nào đó, lại mang tính chất phong trào yêu
nước, vì phong trào đấu tranh của CN không những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại ách
áp bức dân tộc
Ba là, phong trào công nhân kết hợp với phong trào nông dân, hợp thành quân chủ lực cách mạng
Đầu thế kỷ XX, nông dân VN chiếm tới hơn 90% dân số. Giai cấp công nhân là bạn đồng minh tự
nhiên. Hai giai cấp này hợp thành đội quân chủ lực của cách mạng
Bốn là, phong trào yêu nước của tri thức VN là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho
sự ra đời của ĐCS VN
Trí thức VN là những người châm “Ngòi nổ” cho các phong trào giải phóng dân tộc cũng như thúc đẩy
sự cân tanh và chấn hưng đất nước

8



Đinh Xuân Diễn (VL37)

Đầu TK XX, một trong những nét nổi bật nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành viên
và những người lãnh đạo tuyệt đại đa số là trí thức.
Với 1 bầu nhiệt huyết, yêu nước, thương nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn bán nước, họ rất nhạy
cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận những “Luồng gió mới” về tư tưởng của
tất cả các trào lưu trên thế giới trào lưu dội vào VN.
Câu 8: Trình bày nội dung tư tưởng HCM về đảng cộng sản cẩm quyền
Mục đích và lý tưởng của đảng cầm quyền
Theo HCM, đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của tổ quốc, của nhân dân: Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng VN.
Người chỉ rõ: “Người cộng sản chúng ta không 1 phút nào được quyên lý tưởng cao cả của mình là
phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và
trên toàn thế giới”
Khi trở thành đảng cầm quyền, mục đích, lý tưởng đó không những không thay đổi mà còn có thêm
những điều kiện và sức mạnh nhằm hiện thực hóa mục đích, lý tưởng ấy.
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân
Đây là luận điểm sáng tạo của HCM về đảng cầm quyền
“Đảng lãnh đạo”: Tức là đảng là tổ chức lãnh đạo duy nhất đối với toàn bộ xã hội. Đối tượng lãnh đạo
của đảng là toàn thể nhân dân VN nhằm đưa lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân.
Muốn vậy, đảng phải có tư chất, phẩm chất, năng lực cần thiết.
Đảng lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ quần chúng, “Phải đi
theo đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân”. Đồng thời, đảng
phải tập hợp, đoàn kết nhân dân thành 1 khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành
động.
Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, chịu sự kiểm soát của
nhân dân. Để thực hiện đầy đủ chức năng lãnh đạo, đảng phải thực hiện chế độ kiểm tra và phức huy
vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
“Đảng là đầy tớ thật trung thành của nhân dân”

“Đầy tớ” không có nghĩa là tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần chúng mà là “Tận tâm, tận lực phục vụ
nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân”. “Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho
kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Mỗi cán bộ, đảng viên đều là “Công bộc của dân,
nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống
trị của Pháp, Nhật”
Là đầy tớ của nhân dân, theo tt HCM còn đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng
đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ; Phải tích cực tuyên truyền vận động quần chúng đi theo đảng, đưa sự
nghiệp CM đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, “Lãnh đạo” và “Đầy tớ” là 2 khái niệm được HCM sử dụng trong mối quan hệ biến chứng
với nhau vì cũng chung 1 mục đích là: Vì dân. Làm tốt cả 2 vai trò này là cơ sở đảm bào uy tín và năng
lực lãnh đạo của đảng.
Đảng cầm quyền, dân là chủ
9


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Theo HCM, CM triệt để phải là quyền lực thuộc về nhân dân. Người nói: “CM rồi thì giao quyền cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay 1 số ít người”. Quyền lực thuộc về nhân dân là bản chất, nguyên
tắc của chế độ mới, xa rời nguyên tắc này đảng sẽ trở nên đối lập với nhân dân. Dân là chủ, đảng lãnh
đạo, đảng phải lấy “Dân làm gốc”. Đồng thời, dân muốn làm chủ thực sự cũng phải tích cực tham gia
xây dựng chính quyền, làm tròn nghĩa vụ và quyền hạn của mình.
Đảng lãnh đạo việc xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Câu 9: Phân tích tư tưởng HCM về vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng VN
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của CM
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng HCM là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài,
xuyết suốt tiến trình cách mạng:
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn CM, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và
phương pháp tập hợp lực lượng có thể và cần thiết điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng, song đại
đoàn kết luôn là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của CM.

Chính sách mặt trận của đảng ta và chủ tịch HCM đặt ra là để thực hiện đoàn kết dân tộc, nhờ tư tưởng
nhất quản và chính sách mặt trận đúng đắn, đảng ta và chủ tịch HCM đã xây dựng thành công khối đại
đoàn kết dân tộc, đưa CM VN giành được nhiều thắng lợi to lớn.
Đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm CM tháng 8 thành công, lập nên nước VN dân
chủ cộng hòa
Đoàn kết trong mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình Đông Dương,
hoàn toàn giải phóng miền bắc.
Đoàn kết trong mặt trận Tổ Quốc VN, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc
Hồ chí minh đã khái quát thành luận điểm có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết:
Đoàn kết làm ra sức mạnh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ra. Đoàn kết chặt chẽ thì chúng ta nhất
định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân giao
phó”; “Đoàn kết là lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khắn, giành lấy thắng lợi”
“Đoàn kết là điểm mẹ điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”
Đoàn kết là then chốt của thành công. “Đoàn kế,t đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại
thành công”
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của đảng, của dân tộc
Trong tư tưởng HCM, yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là sức mạnh ,là mạch nguồn của mọi thắng
lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của đảng, phải được quán
triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của đảng.
Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của từng giai đoạn cách mạng, CM muốn thành công,
đường lối đúng đắn thôi chưa đủ, phải trên cơ sở đường lối đúng, đảng phải cụ thể hóa thành những
mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp CM phù hợp với tằng giai đoạn lịch sữ.
Đại đoàn kết là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của từng nhiệm vụ CM.
HCM chỉ rõ: “Trước CM tháng 8 và trong kháng chiến thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho các
đồng bào dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết, hai là làm CM hay kháng chiến để đòi độc lập.”

10



Đinh Xuân Diễn (VL37)

Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ba là đấu tranh thống nhất nhà nước.”
Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của mỗi địa phương, ban ngành.
Dù ở phương diện nào thì đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của đảng, của CM là: “Đoàn kết
toàn dân, phụng sự tổ quốc”
Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc. Bởi vì cách mạch là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, từ trong đấu tranh mà nảy sinh nhu cầu khách quan về đoàn kết, hợp tác. Đảng
có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng; chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự
phát đó thành nhu cầu tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh
tổng hợp to lớn để hoàn thành mục tiêu CM.
Câu 10: Trình bày các nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất
trong tư tưởng HCM
Một là mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nông – tri
thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng.
Sở dĩ phải lấy liên minh công – nông làm nền tảng vì: “Họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú
làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết và cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí CM của
họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”.
Người cũng căn dặn, làm CM phải có tri thức và tầng lớp tri thức rất quan trọng đối với CM. Người
nói: “Trong sự nghiệp CM, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc một vai trò quan
trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành 1 khối”
Trong tư tưởng HCM, mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công – nông luôn được người xem xét
trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp.
Mặt trận dân tốc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công – nông – trí thức càng
được tăng cường.
Ngược lại liên minh công – nông – trí thức càng được tăng cường, Mặt trận dân tộc thống nhất càng
vững chắc, càng có sức mạnh mà không 1 kẻ thù não có thể phá nổi.
Theo HCM, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song chỉ có thể được củng cố và phát triển
vững chắc khi được đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của đảng đối với mặt trận là vấn đề mang tính nguyên

tắc, vừa là 1 tất yêu đảm bào mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn.
Mối quan hệ giữa đảng và mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có mặt trận, đảng không có lực
lượng, không thể thực hiện được nhiệm vụ CM; không có sự lãnh đạo của đảng, mặt trận không thể
hình thành, phát triển và có đường lối đúng đắn.
HCM cho rằng, sự lãnh đạo của đảng đối với mặt trận vừa là 1 tất yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất
yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luận khác quan của sự vận động lịch sử,
để vạch ra đường lối và phương pháp CM phù hợp, lãnh đạo mặt trận thực hiện thành công các nhiệm
vụ CM mà không 1 lực lượng nào, 1 tổ chức chính trị nào trong mặt trận có thể làm được.
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của mặt trận. Đảng lãnh đạo bằng việc xác định chính
sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ của CM. Đảng phải dùng phương pháp vận động,
giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng nhân ái, chân thành để cảm hóa, khởi dậy tinh thần tự giác,
tự nguyện, không gò ép quan liêu mệnh lệnh
11


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Hai là, Mặt trận giải phóng dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở lợi ích tối cao của dân tộc,
quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song khối đại đoàn kết đó
chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích.
Độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết, là mẫu số chung để quy tụ các giai
cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong mặt trận dân tộc thống nhất. Vấn đề còn lại là ở
chỗ, phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong mặt trận cũng
phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi
ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiện.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, HCM cũng chỉ ra các tiêu chí đảm bào quyền lợi cơ bản
của các tầng lớp nhân là độc lập, tự do, hành phúc. Các tiêu chí này được đảng và chủ tịch HCM cụ thể
hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… Phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng
trong mỗi thời kỳ lịch sử.

Ba là, Mặt trận dân tộc hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng
rộng rãi và bề vững.
Mặt trận giải phóng dân tộc là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của các dân tộc, bao gồm nhiều giai
cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy hoạt động
của Mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của mặt trận đều phải được đem ra để tất cả
các thành viên cũng nhau bàn bạc công khai, đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình
thức.
Thực hiện nguyên tắc này cũng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp CN, giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và riêng, lâu dài và trước mắt.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp phần cũng cố sự bền
chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu: “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng
minh”. Đồng thời, đó là cũng là cơ sở để mở rộng khối đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lương khác
vào mặt trận dân tộc thống nhất.
Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành,
thân ái, giúp đỡ nhau cũng tiến bộ.
Mặt trận giải phóng dân tộc là một tợp hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phải, bên cạnh
những điểm tương đồng, giữa các thành viên của mặt trận vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn
bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích cực,
nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
Để giải quyết vấn đế này:
Một mặt HCM nhấn mạnh phương châm “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái
khác biệt
Mặt khác, người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”
Người viết: “Đoàn kết thực sự mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự
nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học nhứng cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và

12



Đinh Xuân Diễn (VL37)

phê bệnh trên lập trường nhân thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn
dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”
Thực hiện tư tường HCM, đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc
tuân thủ tất cả mọi lực lượng có thể tuân thủ được vào mặt trận, mặt khác, luôn đề phòng và đấu tranh
chống mọi biểu hiện của khuynh hướng 1 chiều, vô nguyên tắc, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng
mức trong nội bộ mặt trận.
Câu 11: Phân tích quan niệm của HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ đó rút ra ý nghĩa
đối với xây dựng và hoàn thiện nhà nước VN hiện nay.
Phân tích quan niệm của HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân
HCM có quan điểm nhất quán về xây dựng 1 nhà nước mới ở VN là 1 nhà nước do nhân dân lao động
làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của HCM về xây dựng nhà nước VN dân chủ cộng hòa do
người sáng lập. Quan điểm đó xuyêt suốt, có tính chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển ở
nhà nước CM ở VN.
a) Nhà nước của dân:
Quan điểm nhất quán của HCM là tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về
nhân dân.
Điều 1 hiến pháp nước VN dân chủ cộng hòa (1946) nói: “Nước VN là 1 nước dân chủ cộng hòa. Tất
cả quyền bính trong nước là toàn thể nhân dân VN, không phân biệt nòi gióng, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”
Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Điều 32 (hiến pháp 1946) quy định: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân
phúc quyết...”, thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, 1 hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Hoặc khi dân bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho họ bàn và quyết định những vấn đề quốc tế dân sinh,
thì nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân nếu họ không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Nhà nước của dân thì dân là chủ và dân làm chủ.
Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, dân làm chủ có nghĩa là xác đính quyền, nghĩa vụ của
dân

Nhà nước phải bằng mọi nổ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân.
Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân; phải làm đúng chức trách và vị thế của
mình, không phải đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân “Cậy thế” với dân, “Quên rằng dân bầu mình
ra là để làm việc cho dân”.
Nhà nước VN dân chủ cộng hòa do HCM khai sinh 2-9-1945 chính là nhà nước tiến bộ chưa từng có
trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc VN bởi vì nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có
quyền quyết định mọi công việc của đất nước.
b) Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, HCM thường nhấn mạnh nhiệm
vụ của những người CM là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác nghộ để nâng cao được trách
nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình.

13


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Trong tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước VN mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và
thực tế để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, nhà nước do dân tạo ra và nhân dân
tham gia quản lý là ở chổ:
Toàn bộ công nhân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, cơ quan duy nhất có
quyền lập pháp
Quốc hội bầu ra chủ tịch nước, ủy bản thường vụ quốc hội và hội đồng chính phủ (Nay gọi là chính
phủ).
Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước, thực hiện các nghị quyết của quốc
hội và chấp hành pháp luật.
Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân (Thông qua
Quốc hội do dân bầu ra)
c) Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là 1 nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích

của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ 1 lợi ích nào khác. Đó là 1 nhà nước trong sạch, không có bất
kỳ 1 đặc quyền, đặc lợi nào.
Trên tinh thần đó, HCM nhấn mạnh mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân;
việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân
là gốc của nước.
HCM luôn luôn tâm nhiễm: Phải làm cho dân có ăn, có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho
dân được học hành.
1 nhà nước vì dân, theo quan điểm HCM, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm
công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải “Làm quan cách mạng” để “Đè đầu cưỡi cổ nhân
dân”.
Đối với chức vụ chủ tịch nước của mình, HCM cũng quan niệm do dân ủy thác cho và như vậy phải
phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân.
Rút ra ý nghĩa đối với xây dựng và hoàn thiện nhà nước VN hiện nay
- Quan điểm của HCM trở thành cơ sở lý luận để xây dựng một nhà nước thật sự dân chủ, của dân, do
dân, vì dân ở VN
- Nhà nước là công cụ làm chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ, nhất là dân chủ cơ sở, đảm bảo thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân, mọi chính sách phải hướng vào cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng; đảm bảo sự lãnh đạo cảu Đảng và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng cách Đảng lãnh đạo bằng đường lối, bằng
tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ
đảng viên trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác thanh tra, kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lý
của Nhà nước.Câu 12: Phân tích quan niệm của HCM về xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
HCM quan tâm đến nhà nước pháp quyền từ rất sớm

14



Đinh Xuân Diễn (VL37)

- Điều này thể hiện trong bản yêu sách của nhân dân An Nam do người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi
đến hội nghị Vécxây (Pháp – 1919): Bản yêu sách đó nêu ra yêu cầu “Cải cách nền pháp lý ở Đông
dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như
người Châu Âu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận
trung thực nhất trong nhân dân An Nam”; “Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo
luật”.
- Sau này khi trở thành người đứng đầu nhà nước VN mới, HCM càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây
dựng và điều hành nhà nước 1 cách có hiệu quả bằng pháp quyền, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
Xây dựng 1 nhà nước hợp pháp, hợp hiến
- Ngay sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhờ đó, Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp và Tuyên ngôn độc lập trở thành một văn bản pháp lý
nổi tiếng.
- Sau đó, Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông
đầu phiếu, thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cuối năm
1946, Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây
là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết
các vấn đề đối nội và đối ngoại. (vì vậy, quân đội Tưởng và đại diện Đồng minh khi vào Việt Nam đã
phải làm việc với Chính phủ Hồ Chí Minh).
Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc
sống
- Theo Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ Việt Nam không thể thiếu pháp luật. Vì pháp luật là bà đỡ cho
dân chủ. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước. Mọi quyền dân chủ của
người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật; và ngược lại, hệ thống pháp luật phải
đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo được
việc thực thi quyền lực của nhân dân.
Năm 1919, Người đã khẳng định vai trò của pháp luật là: Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.

Người có công lớn trong sự nghiệp lập hiến, lập pháp của nước ta. Người luôn chăm lo hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến
pháp (Hiến pháp 1946 và 1959), đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật
khác. (Theo tài liệu của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, tháng 3 - 1993).
Phải đưa pháp luật vào đời sống một cách sâu rộng.
Theo Người, công bố luật mới chỉ là bước đầu, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện luật
được tốt. Những biện pháp cơ bản cần làm là:
Cán bộ nhà nước phải là gương về tuân thủ pháp luật (trước hết là cán bộ trong ngành tư pháp và hành
pháp).
Coi trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hoá chính trị và tính tích cực công
dân; khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, phê bình, giám sát công việc của
nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức, “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”
Pháp luật phải xét xử công bằng, nghiêm minh, “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ
ấy ở địa vị nào, làm nghề gì”2.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài
15


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán bộ nói
chung “là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Người quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là
gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và hoạt động có hiệu quả. Những tiêu chuẩn của đội ngũ
này, theo Người là:
Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Hồ Chí Minh hiểu rõ xu hướng quan liêu hoá khó tránh khỏi của bộ máy nhà nước, nên Người luôn

nhắc nhở công chức nhà nước phải gần dân, trọng dân, không được “lên mặt quan cách mạng” với dân,
phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ, sáng suốt.
Cán bộ công chức là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong
những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong
sạch của nhà nước.
Câu 13. Phân tích quan điểm HCM về chuẩn mực đạo đức CM “Trung với nước – Hiếu với dân” và
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là
mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, song
có nội dung hạn hẹp, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ: “Trung với vua, hiếu với
cha mẹ”.
Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm cũ và đưa vào nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với dân”, tạo
nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con
đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm
vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước.
Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy
dân làm gốc, phục vụ nhân dân hết lòng.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan
tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người. Hồ Chí Minh cũng dùng
những phạm trù đạo đức cũ, lọc bỏ những nội dung lạc hậu, đưa vào những nội dung mới đáp ứng nhu cầu
cách mạng.

Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh
thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản
thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”[1], nhưng
không phải là bủn xỉn. Kiệm trong tư tưởng của Người còn đồng nghĩa với năng suất lao động cao.
Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của
nhà nước, của nhân dân”.
16


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có
một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Hành vi trái với chữ liêm là: Cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của
riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc
nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật.
Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát
huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy
hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là “tứ đức” không thể thiếu được của con người. Người
viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính

Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Bác cũng nhấn mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng
viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm,
chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là
cái cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân
dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh,
vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi
lạc nhi lạc).
Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn
nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.
Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng
nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.
Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người cách mạng vững vàng qua mọi thử thách : “Giàu
sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
Câu 14. Phân tích quan điểm của HCM về các nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Trong tình hình hiện
nay để học tập tư tưởng đạo đức và làm theo tấm gương đạo đức HCM sinh viên cần phải làm gì?
Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới của HCm
Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.
Nói đi đôi với làm được HCM coi là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng 1 nền đạo đức
mới.

17



Đinh Xuân Diễn (VL37)

Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản
thân và có tác dụng cho với người khác. Nếu nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa, nói 1 đằng,
làm 1 nẻo thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng mà thôi. Nói mà không làm gọi là đạo đức giả.
Nêu gương về đạo đức là 1 nét đẹp trong truyền thống phương đông, HCM khẳng định: “Nói chung thì
các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ 1 tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài
diễn văn tuyên truyền”. Nói đi đôi với làm phải gắn với nêu gương về đạo đức.
HCM cho rằng, trong việc xây dựng 1 nền đạo đức mới, đạo đức CM phải đặc biệt chú trọng đạo làm
gương. “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là 1 cách tốt để xây dựng đảng,
xây dựng các tổ chức CM, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Phải luôn chú ý phát hiện, xây
dựng những điển hình người tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Nêu gương đạo đức phải diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Trong gia đình, đó là tấm gương của bố mẹ với
con cái, của anh chị đối với các em, của ông bà đối với con cháu; Đó là tấm gương của thầy cô giáo đối
với học sinh; Trong tổ chức, tập thể là tấm gương của người lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới;
Trong xã hội, là tấm gương của người này đối với người kia, của thế hệ trước đối với thế hệ sau,…
Tấm gương đạo đức của Hồ Chủ tịch là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ người VN mãi
mãi về sau
Xây đi đôi với chống và phải phong trào rộng rãi của quần chúng nhân dân
Xây dựng đạo đức mới là phải giáp dực những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới cho con
người VN trong thời đại mới theo tt HCM, từ gia đình, nhà trường, đến xã hội. Phải khơi dậy ý thức
lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, cái vô đạo
đức. Xây đi đôi với chống, muốn chống thì phải xây, chống nhằm mục đích xây.
Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi, đấu tranh cho sự trong
sạch, lành mạnh về đạo đức, phải kiên quyết loại trừ chủ nghĩa các nhân.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
1 nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người.
Theo HCM, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có thiện, có ác ở trong
mình. Vấn đề là giám nhìn thẳng vào mình, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu,
các dở để mà quyết tâm khắc phục, không tự lừa dối, huyễn hoặc.

Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi
quan hệ xã hội, phải chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hằng ngày. Phải làm kiên trì, bền bỉ,
suốt đời. Bời vì: “Đạo đức CM không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”
2. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Phải luôn luôn nâng cao chí khí CM, yêu tổ quốc, yêu nhân dân, gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Xây
dựng tinh thần đoàn kết, tình nguyện, tương thân tương ái vì cộng đồng.
Chống lối sống bàng quan, vị kỷ cá nhân, thiếu trách nhiệm với tổ quốc, với nhân dân, với cộng đồng.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giãn dị và đức khiêm
tốn phi thường
Xây dựng ý thức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thật thà, ngay thẳng, khiêm tốn, giãn dị, trong
sạch, chất phát, tiêu dùng đúng khả năng, thực hiện khẩu hiệu: “Cần kiệm là nếp sống đẹp của tuổi trẻ”.
Thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp nhau cùng tiến bộ mãi.
Chống tham ô, lãng phí, xa hoa, tính phô trương trong sinh hoạt, lao động, chống chủ nghĩa cá nhân
Ba là, Đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ
nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoang dung, nhân hậu với con người.
18


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Xây dựng ý thức công dân, ý thức cộng đồng, thói quen ứng xử văn hóa, tôn trọng và bảo vệ lẽ phải,
trung thực, sáng tạo, tích cực tham gia xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn mình.
Chống tự do, tùy tiện, các biểu hiện coi thường pháp luật cũng như các hành vi thiếu văn hóa trong đời
sống, sự giả dối và nạn giáo điều, thiếu sáng tạo. Chống tính ích kỷ, vụ lợi, lối sống tạm thời.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian
nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
Xây dựng tinh thần hăng hái, kiên quyết, không sợ khó, không sợ khổ, siêng học, siêng làm, quyết hoàn

thành bằng được kế hoạch đã đặt ra theo tinh thần “Chủ trương 1, biện pháp 10, quyết tâm 20”.
Chống chây lười, thụ động, ỷ lại, thiếu sáng tạo, vô kỷ luật trong học tập, lao động, ngại khó, ngại khổ,
thiếu ý chỉ tiến thủ; chống vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động.
Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, nâng cao trình độ chính trí, khoa học kỹ thuật – quân sự, nghiên
cứu khoa học thực chất, làm việc gì cũng phải học: Học mọi lúc, mọi nơi, học suốt đời; học ở trường,
học sách vởi, học lẫn nhau, học nhân dân, học từ thực tiễn cuộc sống, trong việc làm hàng ngày; có thái
độ cầu thị. Có ý thức thi đua và thực hành dân chủ trong học tập. Bồi đắp bản lĩnh chính trị, ý chí tự lực
tự cường, tự tin trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chống tiêu cực, bệnh thành tích trong học tập, bệnh thi đua hình thức, hư danh, giả dối, sao chép, học
thuộc lòng, sự tụt hậu về trình độ, kiến thức khoa học và nhận thức xã hội; những biểu hiện tự ti, mặc
cảm trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chống kêu căng, tự mãn trong học tập.
Câu 15. Phân tích quan điểm của HCM về văn hóa giáo dục. Nêu ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục
đại học của nước ta hiện nay
Quan điểm HCM về văn hóa giáo dục
Tố cáo chính sách giáo dục của thực dân và phong kiến:
Người phê phán nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục kinh viện xa rời thực tiễn, coi kinh sách của
thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Giao dục phong kiến hiến tới kẽ sỹ, người quân tử, bậc trượng phu,
phụ nữ bị tước quyền học hành.
Trong nền giáo dục thực dần, không mở mang trí tuệ, thực hiện ngu dân. Đó là nền văn hóa đồi bài,
xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát.
Mục tiêu văn hóa giáo dục là thực hiện cả 3 chức năng của văn hóa bàn dạy và học “1 là, bồi dưỡng
những tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí. Ba là, bồi
dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con người tới chân, thiện,
mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân”. Mục tiêu đó là:
Đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài; học để làm việc, làm người, làm cán bộ; “Cải tạo
trí thức cũ”, “Đào tạo trí thức mới”; “Công nông hóa trí thức”, “Trí thức hóa công nông”, xây dựng đội
ngũ trí thức ngày càng đông đảo, trình độ ngày càng cao.
Đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp CM xây dựng đất nước giàu mạnh và văn minh; mở mang
dân trí từ việc xóa nạn mù chữ, chống giác dốt, kết hợp phổ cập và nâng cao, đưa VN sánh vai với các
cường quốc năm Châu.

Để thực hiện, phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và
nội dung dạy học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của đất nước.
Nội dung giáo dục: Bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao
động,… Nghĩa là phải thực hiện giáo dục toàn diện
Phương châm, phương pháp giáo dục:
Phải luôn gắn giáo dục với thực tiễn VN, học đi đôi với hành, học kết hợp với lao động sản xuất. Giáo
dục thì phải có tính định hướng đúng đắn, rõ ràng, thiệt thực, phối hợp nhà trường với gia đình và xã
hội. Phải tạo môi trường giáo dục lành mạnh, bình đẳng, dân chủ, trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra
thầy, trò ra trò.
19


Đinh Xuân Diễn (VL37)

Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo, đào tạo lại,
“Học không biết chán, học không bao giờ là đủ, còn sống còn phải học
Phương pháp giáo dục phải bám chắc vào mục tiêu giác dục
Về đội ngũ giáo viên:
Các thầy, cô giáo phải trở thành một lực lượng mạnh mẽ, đầy trí tuệ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nền giáo dục cách mạng, người giáo viên có nhiệm vụ nặng nề và
vẻ vang là đào tạo cán bộ cho nước nhà, là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hoá có
trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hoá
của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với
sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Người giáo viên phải là kiểu mẫu tư tưởng, đạo đức, lối làm việc
Trong sự nghiệp trồng người, đội ngũ giáo viên nếu chỉ có tài thôi thì chưa đủ, ngoài trí tuệ, tài năng,
người giáo viên phải có đạo đức. Người nhắc nhở: “các thầy, cô giáo phải trở thành tấm gương sáng,
thành kiểu mẫu cho các em noi theo”, “phải là kiểu mẫu về mọi mặt, tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”.
Ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đại học của nước ta hiện nay
Định hướng cho việc xây dựng 1 nền giáo dục đại học , hiện đại, tiên tiến, có khả năng hội nhập

Đổi mới việc xác định mục tiêu, kết cấu chương trình, đổi mới nội dung dạy – học và phương pháp dạy
học
Câu 16. Trình bày quan điểm HCM về chiến lược “Trồng người”
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.
Xuất phát từ quan niệm coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định đối với sự thành bại của
cách mạng, là mục tiêu và động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng chiến lược con
người.
Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, nhằm phát huy cao nhất mọi tiềm
năng của con người.
Chiến lược “trồng người” vừa mang tính thường xuyên, cấp bách, vừa mang tính cơ bản lâu dài, phải
làm công phu, tỉ mĩ như người làm vườn vậy.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
+ Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người xã hội chủ nghĩa lại
là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa,
cũng không phải xây dựng xong con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa. Việc xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình.
+ “Trước hết, cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là không phải tất cả mọi người
phải và có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, mà chỉ có
nghĩa là, trước hết cần có những con người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của người xã hội
chủ nghĩa để có thể làm gương và lôi cuốn người khác cũng như toàn xã hội xây dựng con người
mới; đồng thời, họ cũng không ngừng được hoàn thiện, được nâng cao.
+ Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển toàn diện: Đức, Trí, Thể, Mỹ.
+ Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh:
Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì mọi
người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết chí vươn
lên, có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, lối sống lành mạnh.
20



Đinh Xuân Diễn (VL37)

Có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, biện pháp, có quyết tâm, tổ chức, kỷ luật, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, lao động hăng say, không sợ khó, sợ khổ, làm việc vì lưọi ích
của xã hội, tập thể và của bản thân.
Có năng lực làm chủ: làm chủ bản than, gia đình và công việc mình đảm nhiệm, đủ sức khoẻ và tư
cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện tốt quyền công dân; không ngừng nâng cao trình
độ chính trị, văn hoá, khoa học công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
Ngoài những tiêu chuẩn chung trên, Hồ Chí Minh còn nêu những tiêu chuẩn cụ thể cho từng giới,
từng ngành.
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội.
Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, phát triển quan điểm của Quản Trọng: “Thập niên chi kế mạc nhi
thụ mộc, bách niên chi kế mạc nhi thụ nhân” mà khẳng định: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây/ Vì
lợi ích trăm năm phải trồng người”.
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới phải được thường xuyên đẩy mạnh trong suốt tiến trình đi
lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được kết quả cụ thể qua từng chặng đường của thời kỳ quá độ. Bởi
vì, nếu sao nhãng việc trồng người, nhất định sẽ dẫn đến những bất cập, hơn nữa còn là những suy
thoái về con người có thể gây những hậu quả khôn lường. R.Tagore nói: “một ngày mà quên giáo
hoá, ta lùi gần về thú tính hơn”.
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới phải được đặt ra trong suốt cuộc đời mỗi người. Đây là
quyền lợi, cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng
thời nó cũng thể hiện sự trưởng thành, vươn lên của mỗi cá nhân.
+ Những người có trách nhiệm trồng người cũng phải được vun trồng bởi quần chúng nhân dân, bởi tập thể
những người đi trồng và được trồng, bởi cuộc sống thực tiễn và sự tự vun trồng trong suốt cuộc đời của chính
họ.

21




×