Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tìm hiểu về luật thuế và các hành vi gian lận thuế thường gặp ở doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.98 KB, 11 trang )

I.

Khắc phục vướng mắc các luật thuế hiện hành, tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp

Phát biểu tại buổi Họp báo chuyên đề “Giới thiệu Dự án Luật sửa 5
Luật Thuế” tổ chức hôm 15/8, đại diên lãnh đạo Bộ Tài chính khẳng
định, việc xây dựng Luật sửa đổi bổ sung 5 Luật Thuế nhằm đáp
ứng các mục tiêu thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và
chính sách của Nhà nước về hoàn thiện chính sách thuế, góp phần
khắc phục những vướng mắc của các luật thuế hiện hành, đảm bảo
tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp.

Chính sách thuế hiện nay cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo phù hợp với thực tế, tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh.
Lý giải về sự cần thiết này, đại diện Bộ Tài chính cho biết: Qua thực tiễn
triển khai thực hiện các luật thuế thời gian qua, do sự biến động nhanh


của kinh tế - chính trị thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói
riêng, chính sách thuế cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, cụ thể:
Về thuế thu nhập doanh nghiệp
Luật thuế TNDN hiện hành vẫn còn một số nội dung cần tiếp tục hoàn
thiện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong tình
hình mới như: Chưa có quy định khống chế chi phí được trừ đối với chi
phí trả lãi tiền vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá nhiều lần vốn
chủ sở hữu (vốn mỏng) từ đó chưa đảm bảo bình đẳng giữa doanh
nghiệp sử dụng vốn chủ sở hữu để kinh doanh với doanh nghiệp sử dụng
vốn vay (chi phí lãi vay được tính vào chi phí).


Đồng thời không đảm bảo an toàn tài chính cho DN, nợ xấu gia tăng;
chưa có rà soát và xác định các lĩnh vực, địa bàn cần tiếp tục ưu đãi
khuyến khích đầu tư phát triển giai đoạn tới như: Ưu đãi thuế đối với
lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực khoa học và công nghệ để thực hiện
Luật công nghệ cao, Luật khoa học và công nghệ; ưu đãi thuế đối với
các dự án đầu tư tại Khu (Khu kinh tế, Khu công nghiệp, Khu công nghệ
cao, Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, Khu công nghệ thông
tin tập trung); dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin; hoạt
động đầu tư, cải tạo chung cư cũ; về nơi nộp thuế; về chuyển tiếp ưu
đãi...
Về thuế giá trị gia tăng
Trong quá trình thực hiện, Luật thuế GTGT hiện hành đã phát sinh nhiều
vướng mắc về đối tượng không chịu thuế GTGT (phân bón; máy móc,
thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa
bờ; chuyển quyền sử dụng đất) gây khó khăn cho doanh nghiệp và công
tác quản lý thuế. Mức thuế suất thông thường 10% tương đối thấp, chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế, khó đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.
Một số hàng hóa dịch vụ (nước sạch; hoạt động văn hóa, triển lãm, thể
dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành
và chiếu phim…) đã được xã hội hóa mạnh mẽ nhưng vẫn chịu thuế
GTGT với mức thuế suất 5% chưa bình đẳng với những ngành nghề,
lĩnh vực khác đang chịu thuế GTGT với mức thuế suất 10%.


Việc quy định áp dụng thuế suất 5% đối với những loại hàng hóa có thể
sử dụng đa mục đích, như: Lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá;
các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí
nghiệm khoa học... dẫn đến không thống nhất trong thực hiện.
Đối với hoàn thuế GTGT, quy định không hoàn thuế đối với “sản
phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản có

tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ
51% giá thành sản phẩm trở lên” phức tạp trong thực hiện và cùng với
quy định không hoàn thuế đối với trường hợp có số thuế GTGT đầu vào
lũy kế âm liên tục qua nhiều kỳ khiến doanh nghiệp thêm khó khăn do
tăng chi phí thuế.
Về thuế tiêu thụ đặc biệt
Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế TTĐB hiện hành chưa quy
định rõ thế nào là xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp với năng lượng điện
và mức thuế suất thuế TTĐB đối với loại xe này chưa thực sự khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư lắp ráp tại Việt Nam.
Về thuế thu nhập cá nhân
Một số quy định tại Luật thuế TNCN hiện hành còn phức tạp, phát sinh
thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế và khó khăn
cho công tác quản lý thuế. Chưa có chính sách thuế phù hợp nhằm thu
hút cá nhân là nhân lực công nghệ cao; chính sách thuế đối với cá nhân
có thu nhập từ trúng thưởng...
Về thuế tài nguyên
Một số quy định tại Luật thuế tài nguyên hiện hành chưa thống nhất với
quy định của pháp luật có liên quan, chưa thống nhất với các quy định
khác tại Luật và chưa phù hợp với thực tế, cụ thể: Quy định về người
nộp thuế trong trường hợp khai thác nhỏ lẻ (hầu hết đều không được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép khai thác) là chưa phù hợp với
quy định của Luật khoáng sản, tạo điều kiện hợp thức hóa hoạt động
khai thác trái phép nguồn tài nguyên.


Quy định về tên gọi các loại nước thiên nhiên tại Luật chưa thống nhất.
Quy định về giá tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho
sản xuất thủy điện và tài nguyên khai thác xuất khẩu là chưa phù hợp với
quy định của pháp luật có liên quan (pháp luật về điện lực, pháp luật về

hải quan).
Do đó, để thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
chính sách thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế TNDN, thuế TNCN và thuế tài
nguyên qua đó góp phần cơ cấu lại nguồn thu NSNN; xây dựng hệ thống
chính sách thuế đồng bộ, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp,
phù hợp với thông lệ quốc tế thì cần thiết nghiên cứu xây dựng luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của luật thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế TNDN,
thuế TNCN và thuế tài nguyên.
Trong đó, mục tiêu mà việc xây dựng Luật sửa đổi bổ sung các Luật
thuế hướng đến là tái cơ cấu ngân sách nhà nước, tháo gỡ khó khăn cho
DN, góp phần định hướng sản xuất và tiêu dùng, nhằm tạo sự chuyển
biến trong phân bổ nguồn lực, cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích
người nộp thuế mở rộng sản xuất kinh doanh, nuôi dưỡng nguồn thu,
đặc biệt trong bối cảnh các khoản thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm
do thực hiện các cam kết quốc tế…


II. NHẬN DIỆN CÁC HÀNH VI GIAN LẬN THUẾ PHỔ BIẾN
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

1. Hành vi gian lận thuế GTGT.
 Một là, hành vi gian lận liên quan đến hóa đơn, chứng từ:
– Khấu trừ thuế GTGT của các hóa đơn bất hợp pháp: Hóa đơn giả,
hóa đơn chưa có giá trị sử dụng, hóa đơn hết giá trị sử dụng; hóa đơn
không do cơ quan thuế phát hành; hóa đơn bị tẩy xóa, hóa đơn của các
DNNVV sau thời điểm cơ quan thuế ra thông báo DN bỏ địa chỉ kinh
doanh…
– Chia nhỏ gói thanh toán bằng nhiều hóa đơn: DNNVV đã chủ
động “chia nhỏ” giá trị thanh toán thành nhiều hóa đơn nhỏ hơn 20
triệu; rải thành nhiều ngày trả tiền khác nhau, ghi hình thức thanh toán là

“tiền mặt” để được khấu trừ thuế, đồng thời tránh bị kiểm soát khi thanh
toán
qua
ngân
hàng.
– Khấu trừ vượt mức quy định: Trường hợp này liên quan đến khấu
trừ thuế của xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi: DNNVV vẫn khấu trừ toàn bộ thuế
GTGT tương ứng của phần nguyên giá vượt trên 1,6 tỷ đồng, “che mắt”
cơ quan thuế bằng cách ghi sai tên chủng loại, tên hiệu tài sản trên Sổ tài
sản cố định (211) bằng các thương hiệu khác giá trị thấp hơn.
-Khấu trừ thuế GTGT của hàng hóa hủy, hàng trả lại. Một số DNNVV
đã không ghi rõ nội dung nghiệp vụ là “hàng hủy”, “hàng trả lại” mà
cố tình ghi chung chung là “thuế GTGT của Công ty A, công ty B…” để
khấu trừ thuế.
 Hai là, khấu trừ thuế GTGT của hàng hóa – dịch vụ không liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh:
– Có DNNVV cố tình không phân bổ hoặc phân bổ sai thuế GTGT đầu
vào cho mặt hàng chịu thuế và không chịu thuế, mục đích là để tăng
khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
– Khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các trường hợp mua hàng biếu
tặng, thưởng, quà lưu niệm, hoặc chi trang phục vượt định mức, hoặc kê


khai khấu trừ các hóa đơn mang tên, mã số thuế của công ty nhưng thực
chất là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cho cá nhân, gia đình như máy điều
hòa, ti vi, tủ lạnh…
 Ba là, kê khai trước thời điểm có chứng từ nộp NSNN:
– Trường hợp này thường liên quan đến các lô hàng nhập khẩu; Cá biệt
có một số DNNVV không kê khai thuế GTGT theo Giấy nộp tiền vào
NSNN mà kê khai theo Tờ khai hải quan, làm sai lệch kỳ số thuế GTGT

được khấu trừ, hoặc phản ánh không đúng số thuế GTGT phát sinh phải
nộp.
Gian
lận
qua
việc
giảm
thuế
GTGT
đầu
ra:
– Các hành vi gian lận thuế GTGT đầu ra chủ yếu tập trung vào việc
giảm doanh thu tính thuế. Một số hành vi thường gặp mà các DNNVV
thường lợi dụng như: Bán hàng không xuất hóa đơn để che dấu doanh
thu, không nộp thuế GTGT; bán hàng xuất hóa đơn ghi giá cả và số
lượng trong liên lưu (Liên 1, Liên 3) nhỏ hơn liên giao cho khách
hàng (Liên 2);mục đích là giảm số thuế phải nộp của mình và tăng số
thuế được khấu trừ cho người mua; xuất hóa đơn khống (nhóa đơn
không có hàng hóa, dịch vụ kèm theo) nhằm hợp thức hóa đầu vào để
bên
mua
khai
khấu
trừ
hoặc
hoàn
thuế.
– Bên cạnh các trường hợp gian lận nói chung ở trên, các DNNVV hoạt
động trong một số lĩnh vực kinh doanh đặc thù lại có những hành vi gian
lận khác nhau, cụ thể là:

o Trong lĩnh vực xây dựng (xây nhà để bán): gian lận bằng cách xuất
hóa đơn chưa kịp thời: công trình đã hoàn thành bàn giao theo quy
định phải khai doanh thu và xuất hóa đơn nhưng do DNNVV chưa
thu được tiền của khách hàng nên cũng chưa ghi nhận doanh thu và
xuất hóa đơn, cá biệt có những DNNVV còn giấu Biên bản nghiệm
thu.
o Trong lĩnh vực kinh doanh ô tô, xe máy: Hiện tượng khá phổ biến
là DNNVV bán hàng cho các đối tượng không phải là cơ quan, tổ
chức không theo giá giao dịch trên thị trường, ghi giá bán trên hóa
đơn GTGT thấp hơn giá tính thuế trước bạ của UBND tỉnh, thành
phố quy định.Điều chỉnh thuế GTGT đầu vào, đầu ra không đúng
quy định. Nhiều DNNVV lợi dụng quy định cho phép DN có thể kê


khai bổ sung bất kỳ lỗi sai sót nào trên hồ sơ khai thuế đã nộp nên
cố tình điều chỉnh tăng, giảm thuế GTGT của kỳ trước trên chỉ
tiêu [37], [38] của Tờ khai thuế GTGT (mẫu 01/GTGT) mà không
có căn cứ; không có hóa đơn, chứng từ kèm theo chứng minh; mục
đích là làm giảm thuế GTGT phải nộp kỳ này, hoặc tăng thuế
GTGT được khấu trừ chuyển sang kỳ sau, nhằm gian lận thuế.
– Xác định sai thuế suất thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch
vụ: DNNVV sản xuất, kinh doanh còn gian lận thuế GTGT bằng cách
“nhập nhèm” thuế suất, cụ thể là: Liên quan đến lô hàng xuất khẩu, DN
kê khai doanh thu thuế suất 0% nhưng lại không đáp ứng được đủ các
điều kiện quy định như: Thiếu chứng từ thanh toán qua ngân hàng, thiếu
hợp đồng xuất khẩu, hoặc xác nhận thực xuất của hải quan lớn hơn
lượng hàng hóa bán ra ghi trên hóa đơn GTGT… Việc gian lận diễn ra ở
cả khâu thanh toán khi công ty đối tác nước ngoài không thanh toán vào
tài khoản của DNNVV mà thanh toán vào tài khoản của cá nhân chủ
DN.

– Liên quan đến khu chế xuất, DN chế xuất: DNNVV bán hàng
không vào khu chế xuất mà lại bán hàng vào khu công nghiệp, hoặc
không phải là DN chế xuất (100% sản phẩm xuất khẩu ghi trên Giấy
chứng nhận ưu đãi đầu tư) nhưng sản phẩm bán ra vẫn khai thuế suất
0%.
– Kê khai nhầm thuế suất: Khi kê khai thuế GTGT đầu ra, DN kê khai
mặt hàng chịu thuế suất 10% thành mặt hàng chịu thuế suất thấp hơn là
5%, hoặc đưa mặt hàng thuộc diện chịu thuế sang mặt hàng không chịu
thuế.
– Kê khai phân bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ: Đối với hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu
thuế GTGT đối với trường hợp không hạch toán riêng được thì phải
phân bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ phần trăm (%)
giữa doanh thu chịu thuế GTGT, doanh thu không phải kê khai, tính nộp
thuế GTGT so với tổng doanh thu của hàng hóa, dịch vụ bán ra bao gồm
cả doanh thu không phải kê khai, tính nộp thuế không hạch toán riêng
được, tuy nhiên DN cố tình phân bổ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
sai tỷ lệ phần trăm (%) nói trên để làm giảm số thuế GTGT phải nộp,
tăng số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.


2.Hành
vi
gian
lận
thuế
TNDN
Có thể thống kê sơ bộ các hành vi sai phạm về chi phí của các DNNVV
gian
lận

như
sau:
– Tăng giá vốn: DN tìm cách tăng giá vốn hàng bán, nhất là các DN
được hưởng chiết khấu mua hàng do mua hàng với số lượng lớn; giá vốn
sai còn do xác định giá trị sản phẩm dở dang, cũng như giá trị hàng tồn
kho không đúng. Có DNNVV trên bảng Xuất – Nhập – Tồn thời điểm
cuối năm (31/12) không có hàng tồn kho nhưng vẫn xuất bán hàng hóa.
Một số DN không đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ (kể cả giá trị xây
lắp), không phân bổ chi phí thu mua cho hàng tồn kho, chi phí công cụ,
dụng cụ mà kết chuyển hết vào chi phí trong kỳ, nhằm tối đa giá vốn.
– Đối với các DN sản xuất, giá vốn còn được nâng lên qua thủ thuật xây
dựng định mức vật tư cho một đơn vị sản phẩm cao hơn thực tế, nhằm
làm tăng chi phí nguyên vật liệu, hoặc không xây dựng định mức vật tư
hạch toán chi phí tiêu hao nguyên vật liệu cho sản xuất vượt định mức
do lợi dụng luật thuế cho DNNVV tự xây dựng và quyết toán định mức,
vì hiện nay chỉ một vài ngành là có định mức sản xuất như: Xây dựng,
cầu đường, xăng dầu, dệt may… còn lại phần lớn chưa có định mức
chung. Việc gian lận về giá nguyên vật liệu “kín đáo” hơn khi DNNVV
thỏa thuận với nhà cung cấp nâng báo giá nguyên vật liệu đầu vào (hóa
đơn đúng như báo giá); trong khi đó nguyên liệu cùng loại có giá thị
trường
thấp
hơn
nhiều.
– Trích khấu hao tính vào chi phí vượt mức quy định: Sai mức khấu
hao, sai tỷ lệ khấu hao; có DNNVV lách bằng cách tính khấu hao theo
tháng chứ không theo ngày, hoặc DNNVV lỗ vẫn trích khấu hao nhanh;
trích khấu hao nhanh không đúng loại tài sản và tính chất, trích khấu hao
của tài sản không có giấy tờ sở hữu của DNNVV (tài sản thuê, mượn).
Có DNNVV vẫn trích khấu hao xe ô tô cả phần nguyên giá vượt giá trị

1,6
tỷ
đồng.
– Gian lận về chi phí tiền lương: Chi phí tiền lương không có đủ hồ sơ
theo quy định hoặc hồ sơ lao động giả: DNNVV chỉ cần đăng tin tuyển
dụng với mức thu nhập hấp dẫn để hàng trăm lao động nộp hồ sơ ứng
tuyển, sau đó vờ đánh trượt hoặc không tuyển nửa và không trả lại hồ sơ.
Thế là trong bảng lương của DNNVV có một danh sách chi trả lương
“ảo”. DNNVV mặc sức điều tiết quỹ lương vào chi phí và giá vốn, chi


phí quản lý DN. Hơn nữa, chi phí lương ảo còn khó phát hiện hơn, khi
hợp đồng lao động chủ yếu là người trong gia đình, mặc dù không tham
gia kinh doanh. DNNVV tự đẩy chi phí tiền lương trả cho người lao
động cao hơn rất nhiều so với thực trả cho người lao động.
– Bổ sung một vài chức danh khống cho những người không trực
tiếp điều hành sản xuất kinh doanh: Thành viên hội đồng quản trị, ban
kiểm soát để được hạch toán chi phí thù lao vào tiền lương làm tăng chi
phí.
– Một số DNNVV tính gộp các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài
hạch toán các khoản chi phí cho tiêu dùng cá nhân: Ô tô, điện thoại,
xăng xe, ăn uống… cũng khiến cho cơ quan thuế khó xác định, phân biệt
bóc
tách.
– Về gian lận chi phí hoạt động tài chính: Các DNNVV có hành vi
gian lận chi phí tài chính (lãi vay) không đúng quy định, hạch toán chi
phí lãi vay góp vốn điều lệ công ty (ở các công ty góp vốn); hạch toán
chi phí lãi vay vượt tỷ lệ khống chế 150% lãi suất cơ bản do NHNN
công bố; hạch toán chi phí lãi vay không phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN; hạch toán chi phí lãi vay trong quá trình đầu tư xây

dựng cơ bản; hình thành tài sản cố định vào chi phí; hạch toán chi phí
lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản phải thu, các khoản
mục tiền tệ có nguồn gốc ngoại tệ vào chi phí hoạt động tài chính không
đúng
quy
định.
– Nhiều DNNVV lập hồ sơ; khế ước vay khống tư nhân làm tăng chi phí
tài chính và giảm thu nhập chịu thuế. Việc xử dụng sai mục đích vốn vay
cũng được nhiều chủ DNNVV tư nhân sử dụng khi vay ngân hàng để
tiêu dùng cá nhân (mua nhà, mua xe, đầu tư cổ phiếu…), nhưng vẫn
hạch toán lãi vay vào chi phí hợp lý, hợp lệ.
– Các khoản chi phí khác, nhiều DNNVV còn hạch toán các khoản
chi phí khác không đúng quy định: hạch toán vào chi phí tiền nghỉ
mát, tiền thưởng tết âm lịch và các ngày lễ khác không ghi trong Hợp
đồng lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể.
– Trong các khoản thu nhập khác và chi phí khác: DNNVV cũng
“lách” bằng cách hạch toán các khoản thuế truy thu và tiền phạt hành
chính vào chi phí; kê khai thiếu các khoản thu nhập khác được thưởng,
khoản hỗ trợ của hãng hoặc của các đối tác, khách hàng thường xuyên.


– Gian lận chi phí phân bổ: DNNVV hạch toán và phân bổ chi phí dài
hạn không đúng qui định; Kiểm tra các DNNVV này cho thấy có những
công cụ, dụng cụ có giá trị lớn, có công dụng sử dụng ít nhất là 2, 3 năm
nhưng DNNVV vẫn đưa toàn bộ một lần vào chi phí thông qua Tài
khoản chi phí trả trước ngắn hạn. Đồng thời, các khoản trích trước lớn
như chi phí bảo hành, chi phí sửa chữa tài sản cố định không chi hết
hoặc thực tế sau này không chi, DNNVV vẫn không hoàn nhập làm tăng
thu
nhập

khác
để
tính
thuế
TNDN.
– DN hợp pháp hóa hồ sơ: các khoản dự phòng về nợ khó đòi, dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng đầu tư tài chính; trích lập dự
phòng nợ phải thu khó đòi; dự phòng bảo hành sản phẩm không đúng
quy định. Đây là hành vi gian lận ở mức độ tinh vi. Có DNNVV trích
lập dự phòng nợ phải thu khó đòi nhưng không có Biên bản đối chiếu
công nợ, không có công văn đòi nợ, hoặc gian lận tuổi nợ đễ được trích
lập 100% dự phòng nợ phải thu khó đòi vào chi phí. Có những doanh
nghiệp không có thu nhập (lỗ) vẫn tiến hành trích lập các khoản dự
phòng
nói
trên
không
đúng
quy
định.
-Những sai phạm về Doanh thu điển hình như: Không kê khai hàng
hóa dịch vụ mua vào, đồng thời cũng không kê khai doanh thu. Hành vi
này rất khó phát hiện, vì ngay cả thông qua xác minh hóa đơn, xác suất
phát hiện của cơ quan thuế cũng rất thấp. Giảm trừ doanh thu thông qua
các hình thức giảm giá, chiết khấu không đúng quy định. DNNVV mặc
sức khuyến mại, giảm giá sản phẩm mà không cần đăng ký với Sở Công
thương mà vẫn đương nhiên giảm trừ doanh thu bán hàng. Trong xây
dựng, kinh doanh bất động sản, có DNNVV chỉ kê khai thuế TNDN tạm
nộp 2% trên doanh thu mà không tạm nộp thuế TNDN theo phương
pháp doanh thu trừ chi phí (thuế suất 22%) khi đã xác định được chi phí

tương ứng với doanh thu trong xây dựng, kinh doanh bất động sản.
– Các khoản thu nhập khác: tiền thanh lý tài sản cố định; phế liệu; phế
phẩm; nợ phải trả nhưng không xác định được chủ nợ; thu tiền phạt vi
phạm hợp đồng cũng bị DNNVV lờ đi, không hạch toán vào thu nhập
khác, qua kiểm tra sổ chi tiết tài khoản tiền mặt (TK 111) và tiền gửi
ngân hàng (TK 112) cơ quan thuế phát hiện ra việc phát sinh tăng tiền
của các khoản này. Ở mẫu Tờ khai tự quyết toán thuế TNDN năm
DNNVV đã “thao tác” điều chỉnh tăng, giảm thu nhập chịu thuế thiếu


cơ sở; có DNNVV thậm chí còn đưa khoản thuế truy thu và phạt của kỳ
thanh tra trước vào điều chỉnh giảm thu nhập chịu thuế của kỳ này sai
quy định, hoặc đưa vào các khoản phạt, vi phạm hợp đồng vào các chỉ
tiêu
này,
làm
giảm
đáng
kể
số
thuế
phải
nộp.
=>Tóm lại, gian lận về thuế hiện nay tại các DNNVV là một thực
trạng rất đáng lo ngại, không chỉ làm giảm tính tuân thủ thuế mà
còn tác động tiêu cực về kinh tế, xã hội. Về kinh tế, gian lận thuế
làm thất thu, thiệt hại cho NSNN; đồng thời, kéo theo tệ nạn buôn
lậu tăng nhanh, gây ô nhiễm mội trường đầu tư, làm rối loạn sản
xuất kinh doanh và triệt tiêu cạnh tranh lành mạnh.




×