Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

tiểu luận kinh tế du lịch ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển du lịch thông minh tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.17 KB, 33 trang )

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 KHÁI NIỆM CÔNG NGHỆ THÔNG TIN (CNTT)
Công nghệ Thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information
Technology hay là IT) là một nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và
phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và
thu thập thông tin.
Công nghệ thông tin là ngành quản lý công nghệ và mở ra nhiều
lĩnh vực khác nhau như phần mềm máy tính, hệ thống thông tin, phần
cứng máy tính, ngôn ngữ lập trình nhưng lại không giới hạn một số thứ
như các quy trình và cấu trúc dữ liệu. Tóm lại, bất cứ thứ gì mà biểu diễn
dữ liệu, thông tin hay tri thức trong các định dạng nhìn thấy được, thông
qua bất kỳ cơ chế phân phối đa phương tiện nào thì đều được xem là
phần con của lĩnh vực công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin cung
cấp cho các doanh nghiệp bốn nhóm dịch vụ lõi để giúp thực thi các
chiến lược kinh doanh đó là: quá trình tự động kinh doanh, cung cấp
thông tin, kết nối với khách hàng và các công cụ sản xuất.
Ở Việt Nam, khái niệm Công nghệ Thông tin được hiểu và định
nghĩa trong Nghị quyết Chính phủ 49/CP ký ngày 04/08/1993: "Công
nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và
công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội".
Các lĩnh vực chính của công nghệ thông tin bao gồm quá trình tiếp
thu, xử lý, lưu trữ và phổ biến hóa âm thanh, phim ảnh, văn bản và
thông tin số bởi các vi điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và
truyền thông. Một vài lĩnh vực hiện đại và nổi bật của công nghệ thông
tin như: các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh tin, điện toán đám
1


mây, hệ thống thông tin toàn cầu, tri thức quy mô lớn và nhiều lĩnh vực


khác. Các nghiên cứu phát triển chủ yếu trong ngành khoa học máy tính.
Theo quan điểm của người sử dụng, CNTT được hiểu gòm 3 thành
phần cơ bản: Máy tính, mạng truyền thông và các bí quyết (khow-how).
Các bí quyết (khow-how) được hiểu đơn giản là biết một điều gì đó tốt.
Hkow – how bao gồm:
+ Quen với các công cụ CNTT
+ Có kỹ năng cần thiết để sử dung các công cụ này.
+ Hiểu cách thức sử dụng CNTT để giải quyết vấn đề.
Với những lý giải trên, know-how bao gồm con người, các quy trình
nghiệp vụ và các phần mềm ứng dụng. ba thành phần trên của CNTT
được gắn kết chặt chẽ với nhau tạo năng suất và hiệu quả cao cho các
cơ quan, tổ chức có ứng dựng CNTT trong công tác của mình.
1.2 DU LỊCH THÔNG MINH
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hình thành dựa trên công cuộc
Cách mạng kỹ thuật số đã diễn ra từ thế kỷ trước, với đặc trưng là sự kết
hợp các công nghệ, đang tác động vào mọi ngành, mọi lĩnh vực. Ngành
Du lịch cũng đứng trước yêu cầu nhanh chóng phát triển theo mô hình
"du lịch thông minh" nhờ vào sự hỗ trợ của công nghệ, nhằm tạo ra và
cung cấp dịch vụ tốt nhất cho du khách.
Du lịch thông minh là một thuật ngữ mới được áp dụng để mô tả
sự phụ thuộc ngày càng tăng của các điểm đến du lịch và khách du lịch
vào các hình thức thông tin và truyền thông mới nổi cho phép một lượng
dữ liệu lớn được sử dụng để mang lại giá trị tăng thêm cho khách hàng.
Thuật ngữ công nghệ thông minh (điện thoại thông minh, thẻ thông
minh, TV thông minh, v.v ...), mô tả tính năng đa chức năng và mức kết
nối cao. Với cường độ thông tin về du lịch và sự phụ thuộc cao vào công
2


nghệ thông tin và truyền thông (ICT), không có gì đáng ngạc nhiên khi

thấy khái niệm “thông minh” được áp dụng trong lĩnh vực du lịch. Theo
đó, du lịch thông minh có thể được xem như một sự phát triển hợp lý từ
du lịch truyền thống, lấy nền tảng từ những đổi mới và định hướng công
nghệ của ngành công nghiệp du lịch trong bối cảnh phát triển rộng rãi
của thông tin và truyền thông. Sự phát triển theo hướng này tiếp tục với
việc ứng dụng rộng rãi phương tiện truyền thông xã hội, và thừa nhận
tính di động của thông tin cũng như người tiêu dùng du lịch. Như vậy, du
lịch thông minh chắc chắn là một bước tiến rõ rệt trong quá trình phát
triển và ứng dụng CNTT-TT trong du lịch, nâng cao mức độ thông minh
trong các hệ thống du lịch thông qua việc thay đổi cách thức tạo ra, trao
đổi, tiêu dùng và chia sẻ kinh nghiệm du lịch.
Du lịch thông minh bao gồm nhiều thành phần được ICT hỗ trợ:
Kinh nghiệm thông minh
Thành phần kinh nghiệm thông minh đặc biệt tập trung vào các
trải nghiệm du lịch qua trung gian công nghệ và sự tăng cường trao đổi
thông tin thông qua việc cá nhân hoá, nhận thức về bối cảnh và theo dõi
thời gian thực. Khách du lịch là những người tham gia tích cực và cũng
có thể coi là đối tượng chính trong việc tạo ra trải nghiệm này: họ không
chỉ sử dụng mà còn tạo, hoặc bổ sung dữ liệu tạo thành nền tảng cho
trải nghiệm (ví dụ bằng cách tải ảnh lên Instagram với tag có liên quan
đến điểm đến sẽ giúp cập nhật bản đồ tại các điểm đến). Chính những
chia sẻ cá nhân này của du khách sẽ là nguồn thông tin để tạo nên cơ sở
dữ liệu – một thành phần quan trọng cấu tạo nên du lịch thông minh.
Những lượt khách du lịch sau có thể sử dụng những thiết bị di động
thông minh để khai thác cơ sở hạ tầng thông tin được cung cấp tại điểm
đến để tăng thêm giá trị cho trải nghiệm của họ, cũng như đóng góp
những trải nghiệm của mình để làm phong phú thêm cơ sở dữ liệu.
Điểm đến thông minh
3



Điểm đến thông minh là trường hợp đặc biệt của các thành phố
thông minh được định nghĩa là một điểm đến du lịch sáng tạo, được xây
dựng trên một cơ sở hạ tầng công nghệ tiên tiến đảm bảo sự phát triển
bền vững các khu vực du lịch, có thể tiếp cận được với mọi người, tạo
thuận lợi cho sự tương tác của khách truy cập và hội nhập vào môi
trường xung quanh, làm tăng chất lượng của trải nghiệm tại điểm đến và
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Điểm đến thông minh là
điều kiện cần để phát triển kinh nghiệm thông minh, cụ thể là khi du
khách ghé thăm một điểm đến thông minh, họ có đầy đủ tiện nghi về cơ
sở hạ tầng để từ đó chia sẻ, cập nhật những trải nghiệm du lịch của bản
thân – nguồn thông tin để tạo nên cơ sở dữ liệu. Một ví dụ cho thành phố
thông minh là Bắc Kinh – thủ đô của Trung Quốc. Vào năm 2008, Bắc
Kinh đã đặt ra kế hoạch “Wireless Beijing” với mục tiêu phủ sóng wif
miễn phí toàn thành phố. Mới đây, năm 2017, những ứng dụng chia sẻ
phương tiện giao thông bắt đầu nở rộ. Các phương tiện như xe đạp, ô tô
được lắp đặt hệ thống khóa cùng thiết bị định vị vệ tinh (GPS) và đặt tại
các bãi đỗ dọc vỉa hè trước ga tàu, bến xe bus, trường học, siêu thị... để
khách hàng thuê bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu với chi phí hợp lý.

Hệ sinh thái kinh doanh thông minh
Hệ sinh thái kinh doanh thông minh đề cập đến tổ hợp kinh doanh
đa dạng và phức tạp được tạo ra với mục đích cung cấp và hỗ trợ những
nguồn lực du lịch cũng như những kinh nghiệm du lịch. Thành phần này
đề cập đến sự liên kết một cách linh động của các bên liên quan, các quy
trình kinh doanh cốt lõi được xử lý số hóa chuyên nghiệp. Điểm khác biệt
của thành phần kinh doanh thông minh này là liên kết ở mức cao giữa
hai yếu tố tư nhân và cộng đồng và do đó các chính phủ trở nên cởi mở
và tập trung vào công nghệ hơn là chỉ dừng ở mức đóng vai trò quản lý
và vai trò là các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng và dữ liệu. Ngoài ra, mô

4


hình du lịch thông minh còn nhận ra vai trò của khách hàng, họ không
chỉ là người nhận dịch vụ mà còn có thể đóng góp tài nguyên và trở
thành một trong những người quản lý giám sát.
Điều quan trọng là du lịch thông minh được phân bổ trên cả ba thành
phần:


Thông tin thông minh nhằm thu thập dữ liệu;



Trao đổi thông minh hỗ trợ khả năng liên kết;



Xử lý thông minh có trách nhiệm phân tích, hình dung, tích hợp và

sử dụng thông minh dữ liệu .
Tóm lại, du lịch thông minh là du lịch được tạo lên từ sự tích hợp
của nhiều nguồn khác nhau cũng như nhiều thành phần khác nhau trong
xã hội chứ không chỉ gói gọn trong vai trò của nhà cung cấp, cùng với sự
kết hợp của công nghệ cao để chuyển đổi dữ liệu đó thành kinh nghiệm
trực tuyến và các đề xuất giá trị kinh doanh với trọng tâm rõ ràng về
hiệu quả và sự bền vững.
Sự phát triển của du lịch thông minh
Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, du
lịch thông minh đã trở thành xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Theo

thống kê, doanh số du lịch thông minh toàn cầu năm 2016 tăng 14% và
đạt khoảng 565 tỷ USD. Thị trường châu Á – Thái Bình Dương và châu Mỹ
La tinh góp phần chủ yếu cho sự tăng trưởng này. Theo đánh giá, thị
trường du lịch thông minh phát triển khá mạnh và là thị trường đầy hấp
dẫn. Có 76% tỉ lệ khách du lịch quốc tế sử dụng công cụ trực tuyến để hỗ
trợ cho việc đặt dịch vụ du lịch.
Tổ chức Du lịch Thế giới nhận định cuộc cách mạng công nghệ và
mạng xã hội là yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển nhanh chóng của
ngành du lịch trong những năm gần đây. Sự gia tăng mạnh của tầng lớp
5


khách lẻ sử dụng dịch vụ của các đại lý du lịch thông minh (OTA) đã thay
đổi đáng kể thị trường du lịch. Tại khu vực Đông Nam Á, Google dự đoán
quy mô của du lịch thông minh sẽ tăng mạnh từ 22 tỷ USD năm 2015 lên
90 tỷ USD vào năm 2025.
Sự phát triển của du lịch thông minh kéo theo nhiệm vụ
mới trong ngành dịch vụ du lịch
Xây dựng điểm đến thông minh
Một thành phố thông minh là thành phố sử dụng nhiều loại công
nghệ giao tiếp nhằm cung cấp thông tin liên quan đến quản lý tài sản và
tài nguyên (theo TechInAsia). Cụ thể, về mặt kỹ thuật thành phố thông
minh mang những đặc điểm sau:
Có hạ tầng công nghệ phát triển mạnh, hệ thống phân tích tiên
tiến: thể hiện ở việc hiểu con người cần gì và làm cách nào tốt nhất để
cung cấp cho họ những thứ đó. Nhiều nước đã thực hiện việc này bằng
cách ứng dụng CNTT vào sắp xếp các dịch vụ một cách hợp lý cũng như
thu thập thông tin nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Những ứng dụng
này giúp tự động hóa các công việc trước đây yêu cầu sự tương tác của
con người như điều tiết giao thông, phân bổ lưới điện, dịch vụ tiện ích…

góp phần nâng cao năng suất và độ chính xác của công việc cũng như
tiếp nhận thông tin phản hồi có hệ thống. Trung Quốc, bằng việc kết hợp
với Huawei, đã thành công phát triển các dịch vụ thông minh như thu
gom rác, đo lường, chăm sóc sức khỏe…
Mở rộng kết nối: đây là một phần quan trọng với các thành phố
thông minh. Nếu không có một mạng lưới Internet hoặc Wif phạm vi
rộng và tốc độ cao, nhiều sáng kiến thành phố thông minh đều sẽ thất
bại. Nhận thức được vai trò nền tảng này, nhiều thành phố tại châu Á đã
tập trung vào cung cấp các đường truyền Internet tốc độ cao miễn phí
đến hầu hết người dân. Các đô thị lớn ở Đài Loan, Tokyo và Seoul đang
6


dẫn đầu, với việc cung cấp Internet 4G và wif miễn phí, trong khi vẫn
kết nối cơ sở hạ tầng của riêng họ đến các mạng lưới nêu trên. Các công
ty viễn thông ở Ấn Độ và Indonesia thì ký kết các thoả thuận với Google
nhằm phát triển một loạt các điểm truy cập Wif công cộng, mang lại khả
năng truy cập web tốt hơn.
Phát triển kinh nghiệm thông minh
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu cho kinh nghiệm thông minh phụ thuộc
rất lớn vào các công cụ mạng xã hội như Facebook, Twitter, Instagram…
bởi đây là nguồn thông tin chính cho khách du lịch trong trường hợp họ
muốn tự mình tìm hiểu thông tin về các điểm du lịch mình muốn đến. Để
khai thác nguồn thông tin này có một công cụ rất hữu hiệu là Big Data.
Công nghệ Big Data đang được nhiều thành phố lớn trên thế giới
sử dụng để quản lý du lịch. Năm 2014, nhờ công nghệ này, nghiên cứu
về du lịch của Tây Ban Nha đã thu thập được dữ liệu về khách du lịch
như quốc tịch, thời gian lưu trú, chỗ ở ưa thích của khách du lịch, địa
điểm du lịch họ thích đến và khoản tiền họ chi tiêu từ nhiều nguồn khác
nhau.

Dựa trên thống kê từ những trải nghiệm của khách du lịch đi trước,
công nghệ này có thể đưa ra gợi ý phù hợp với sở thích và nhu cầu của
những người đến sau. Khi đặt chân đến thành phố mới, bạn sẽ có một
“trợ lý” biết rõ mọi ngóc ngách của thành phố đó. “Trợ lý” cũng giúp bạn
lên kế hoạch du lịch hoàn toàn phù hợp với sở thích, thời gian và túi tiền
của bạn. Ngoài ra, “trợ lý” còn đưa ra gợi ý những điều bạn nên làm dựa
trên tâm trạng của bạn.
Xây dựng hệ sinh thái du lịch
Phát triển hệ sinh thái trong lĩnh vực du lịch thông minh chính là ý
tưởng mới của một số doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ hỗ trợ và
hậu cần trong ngành này. Ví dụ, đó là sự kết hợp giữa OTA, trang web đặt
7


vé xe khách trực tuyến và các công cụ thanh toán trực tuyến… Đây được
coi là Liên minh các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch, dịch vụ kết
nối hoạt động du lịch qua Internet. Liên minh này bao gồm các doanh
nghiệp du lịch, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, các đại lý du lịch thông
minh, ngân hàng, công ty bảo hiểm, ví điện tử… Sự hợp tác này sẽ tăng
quy mô thị trường, mở rộng phạm vi tiếp cận các sản phẩm du lịch, đẩy
mạnh việc cung cấp dịch vụ du lịch thông minh, cung cấp cho người tiêu
dùng các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú.Việc các doanh
nghiệp bắt tay với nhau cũng giúp tăng sức cạnh tranh, cùng nhau cung
cấp các sản phẩm có chất lượng tốt hơn ra thị trường.
Ứng dụng công nghệ thông tin là cốt lõi để hình thành một hệ sinh
thái du lịch. Hiện nay, dữ liệu số đã trở thành yếu tố quan trọng đối với
doanh nghiệp du lịch. Các nhà cung cấp dịch vụ đặt vé máy bay, phòng
khách sạn trực tuyến lớn trên toàn cầu như Agoda.com, Expedia.com,
Booking.com… cũng đang chiếm ưu thế cạnh tranh bằng cách đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ mới.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CNTT VÀO PHÁT TRIỂN DU
LỊCH THÔNG MINH TẠI VIỆT NAM
2.1 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VIỆT NAM
Công nghệ thông tin xuất hiện ở Việt Nam từ khá sớm, có thể nói
là nó xuất hiện gần như cùng lúc với sự xuất hiện của công nghệ thông
tin trên thế giới. Là một ngành tổng thể bao gồm nhiều nhánh nhỏ như
mạng lưới bưu chính viễn thông, truyền thông đa phương tiện, Internet...,
chúng ta có thể khẳng định rằng ở Việt Nam đã xây dựng được một cơ
cấu hạ tầng có đồng bộ, đầy đủ trong hệ thống ngành công nghệ thông
tin. Trong bối cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên
8


thế giới, công nghệ thông tin chính là 'chìa khóa' của sự thay đổi, là đòn
bẩy giúp Việt Nam phát triển trên nhiều lĩnh vực.
Công nghệ thông tin giờ đây đã xuất hiện như một phần không thể
thiếu trong cuộc sống hằng ngày từ giáo dục, thương mại, giải trí, y học,
…Một chiếc điện thoại di động, máy tính, hay sử dụng Intenet đã không
còn xa lạ với chúng ta, nó chính là cầu nối không thể tách rời trong nhịp
sống hiện đại hóa.
Nhiều đột phá từ công nghệ thông tin
Sau 20 năm phát triển từ ngày chính thức kết nối mạng toàn cầu
19/11/1997, Internet Việt Nam đã tác động đến mọi mặt đời sống xã hội
hiện nay và tương lai. Tính đến năm 2017, Việt Nam đã có 64 triệu người
dùng Internet, chiếm 67% dân số cả nước. Với con số này, Việt Nam là
quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và
đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Tháng 6/2016, nghiên cứu của Oxford Economics cho thấy, mật độ thuê

bao Internet di động của Việt Nam vượt xa so với mức trung bình của
nhóm các nước có thu nhập tương đương ở ASEAN. Dự báo đến 2020,
kinh tế Internet di động sẽ góp thêm 5,1 tỷ USD vào GDP, tạo mới
146.000 việc làm. Việt Nam đã trở thành quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng
Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm trong số những quốc gia có tỷ
lệ tăng trưởng cao nhất thế giới.
Việt Nam là nước nhỏ nhưng không yếu về hạ tầng viễn thông,
tháng 5/2017, số thuê bao Internet băng rộng cố định tại VN đạt khoảng
9,9 triệu thuê bao. Dịch vụ Internet băng rộng sử dụng công nghệ mới
ngày càng chiếm ưu thế và được ưa chuộng bởi chi phí ban đầu thấp,
triển khai dịch vụ nhanh, chất lượng dịch vụ tốt.

9


Số lượng thuê bao băng rộng sử dụng công nghệ xDSL có hơn 1,4
triệu, cáp truyền hình (CATV) chỉ 6 ngàn, cáp quang (FTTH) đạt hơn 7,6
triệu. Thuê bao Internet băng rộng di động đạt 49 triệu thuê bao.
Thị trường dịch vụ di động phát triển mạnh mẽ, đến hết năm 2016,
tổng số thuê bao di động (2G và 3G) đạt khoảng 124,2 triệu, trong đó,
thuê bao 3G phát sinh lưu lượng so với năm 2015 tăng từ 35,78 triệu lên
48 triệu.
Từ năm 2016, có 4 doanh nghiệp được cấp phép triển khai mạng
4G LTE và đến tháng 3/2017, khoảng gần 43.000 trạm 4G và 83.000
trạm 3G, phủ sóng 95% dân số.
Đến tháng 5/2017, tổng băng thông kết nối Internet trong nước đạt
1919 Gbps, gấp 1,6 lần so với năm 2016, tổng băng thông kết nối
Internet quốc tế trên 4503 Gbps, gấp 2 lần năm 2016.
Số lượng địa chỉ IPv6 tính đến tháng 10/2016 đã tăng 61% so với
năm 2015. Tổng dung lượng truyền dẫn đạt hơn 1.200 Gbps (bao gồm cả

cáp biển, gateway, đường trục và vệ tinh). Được biết, hiện VNPT đang
khai thác 3 tuyến cáp quang biển quốc tế là SMW-3, AAG và APG. Trong
đó, Apg hiện là tuyến cáp quang biển có dung lượng lớn nhất tại khu vực
châu Á với băng thông tối đa có thể lên tới 54 Tbps.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực
Lĩnh vực du lịch: Hiện nay, 100% doanh nghiệp trong ngành Du
lịch Việt Nam sử dụng máy tính và đường truyền Internet, ứng dụng
những phần mềm chuyên dụng như quản trị văn phòng, tài chính, mua
bán tour, thông tin điểm đến..., mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho
doanh nghiệp du lịch, nhất là sự liên thông mang tính toàn cầu trên
Internet hiện nay đã giải quyết nhiều khó khăn tồn tại đối với doanh
10


nghiệp trong hoạt động kinh doanh và tìm kiếm thị trường. Sự gắn kết
bằng CNTT sẽ tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp phát triển, nhất
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ lực để vươn lên tiếp cận với thị
trường và các hoạt động quảng bá quy mô và tốn kém... Liên tục trong
nhiều năm trở lại đây, các công ty du lịch lữ hành, khách sạn, cơ sở lưu
trú trong cả nước đã tổ chức ứng dụng CNTT vào hoạt động sản xuất
kinh doanh thông qua việc xây dựng và duy trì hoạt động của các
website, tổ chức mua bán tour, đặt phòng trực tuyến cho du khách trong
và ngoài nước. Có thể thấy hoạt động của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch qua trang web ở địa chỉ: cinet.gov.vn bằng 2 ngôn ngữ Anh, Việt;
TCDL với trang vietnamtourism.gov.vn được thiết kế với 5 ngôn ngữ Việt,
Anh, Pháp, Nhật, Trung đáp ứng nhu cầu của cộng đồng và là kênh
quảng bá quan trọng hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Ứng dụng CNTT vào hoạt động du lịch đã mang lại những kết quả
đáng kể như đã trình bày ở trên. Với tốc độ tăng trưởng du lịch khá ấn

tượng hiện nay và những năm tiếp theo cùng với sự phát triển nhanh, ưu
việt của CNTT thì ứng dụng CNTT vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp trong hoạt động lữ hành, nhà hàng, khách sạn, cũng
như việc quảng bá hình ảnh Du lịch Việt Nam sẽ càng có hiệu quả hơn,
góp phần đáng kể để Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước.
Các lĩnh vực khác: Đến nay, tất cả các bộ, ngành, 63 địa phương
đều đã có trang thông tin điện tử, cung cấp thông tin, dịch vụ công trực
tuyến cho người dân và doanh nghiệp, góp phần giảm thời gian, chi phí
thủ tục hành chính, tăng tính minh bạch, hiệu quả. Trong các lĩnh vực
quan trọng như thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội… việc cải cách thủ tục
hành chính được chú trọng…Với ngành giáo dục, việc ứng dụng công
nghệ thông tin được phổ cập tại hầu hết các trường trung học phổ thông
và gần 80% các trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc. Ứng dụng

11


CNTT vào hoạt động khám chữa bệnh, gia tăng đáng kể hiệu quả trong
hoạt động khám chữa bệnh, thanh toán bảo hiểm y tế….
Ngành kinh tế mũi nhọn
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, Năm 2016, tổng
doanh thu phát sinh lĩnh vực công nghiệp CNTT ước đạt 939.400 tỷ đồng,
tăng khoảng 10% so với năm 2015, đóng góp khoảng 70,22% vào tổng
doanh thu toàn ngành. Nộp ngân sách của lĩnh vực CNTT ước đạt 93.940
tỷ đồng, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm trước và đóng góp
khoảng 64,38% vào tổng nộp ngân sách nhà nước toàn ngành.
Ngành công nghệ thông tin đã thu hút trên 600.000 lao động, một
nửa trong số đó làm việc trong lĩnh vực phần mềm và công nghiệp nội
dung số. Trong hơn 10 năm qua, toàn ngành công nghiệp công nghệ

thông tin tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm. Năm 2016, tổng giá
trị xuất khẩu sản phẩm phần cứng, điện tử của Việt Nam đạt khoảng 58
tỷ USD. Sản phẩm công nghệ thông tin nằm trong nhóm 10 mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Nguồn nhân lực CNTT
Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực CNTT phát triển nhanh cả về quy
mô và hình thức đào tạo song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Báo cáo
mới nhất về ngành CNTT Việt Nam 2017 của Vietnamworks cho hay, nhu
cầu nhân sự ngành CNTT đang ở mức cao nhất trong lịch sử với gần
15.000 việc làm được tuyển dụng trong năm 2016. Theo dự báo của
Vietnamworks, với gần 80.000 nhân lực CNTT sẽ được các trường cho “ra
lò” trong hai năm, 2017 và 2018, so với nhu cầu tính đến cuối năm 2018,
Việt Nam sẽ thiếu khoảng 70.000 nhân lực về CNTT. Còn nếu tính tới
năm 2020, số nhân lực thiếu hụt sẽ lên tới hơn 500.000 người. Không chỉ
thiếu nhiều về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực CNTT cũng là trực
trạng quan ngại.
12


Với những thành tựu đạt được, có thể khẳng định công nghệ thông
tin là “phương tiện chủ lực” để Việt Nam có thể đi tắt đón đầu, rút ngắn
khoảng cách phát triển, tạo khả năng thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Công nghệ thông tin đã góp phần ghi
tên Việt Nam trên bản đồ công nghệ thông tin thế giới. Những thế mạnh
về công nghệ thông tin đã và đang mang lại vị thế cao hơn cho Việt Nam
trên trường quốc tế, đặc biệt trước ngưỡng cửa của cách mạng công
nghiệp 4.0.
2.2 NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐẾN PHÁT
TRIỂN DU LỊCH TẠI VIỆT NAM
2.2.1 Tác động tích cực

Trong hoạt động sản xuất, tiếp thị, phân phối và vận hành du lịch của
khu vực tư nhân và Nhà nước
Thứ nhất, ứng dụng CNTT giúp đẩy mạnh quảng bá hình ảnh du
lịch đến du khách trong cũng như ngoài nước. Hiện nay cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của internet và CNTT, việc tìm hiểu thông tin các điểm
đến du lịch của du khách đã dần thay đổi. Trước những chuyến đi du
khách sẽ tìm hiểu thông tin và lựa chọn điểm đến thông qua việc tham
khảo các thông tin trên mạng xã hội, có ba nguồn thông tin chính hiện
nay được du khách sử dụng nhiều nhất: tìm kiếm thông qua các công cụ
phổ biến và nhiều thông tin như Google, Yahoo hay là các website du lịch
của địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, và đặc biệt là những chia sẻ kinh
nghiệm du lịch của chính những du khách khác thông qua mạng xã hội
như Facebook, Instagram, Youtube, Twitter,... Để bắt kịp xu hướng này
các đơn vị kinh doanh du lịch tư nhân cũng như nhà nước đã xây dựng
website riêng và các trang fanpage trên mạng xã hội, các app trên thiết
bị di động nhằm quảng bá sản phẩm của đơn vị mình. Qua việc sử dụng
những phương tiện trên sẽ giúp du khách nắm bắt thông tin rõ rãng về
các điểm đến hay nắm bắt được các dịch vụ của từng doanh nghiệp lữ
13


hành, các chính sách thu hút khách du lịch của từng địa phương, từ đó
nâng cao lượng khách sử dụng dịch vụ. Cụ thể, bằng việc sử dụng hình
thức quảng cáo bằng website, fanpage trên Facebook, Phong Nha
Farmstay đã đưa hơn 1.000 khách du lịch quốc tế đến với mình hàng
năm. Tuy Phong Nha Farmstay chỉ có quy mô nhỏ gồm 10 phòng ở, bể
bới, phòng giải tri, phòng ăn,.. lại tọa lạc ở vị trí không phải là ‘thiên thời,
địa lợi’ nhưng chính thông qua việc tận dụng tối đa tính kết nối, lan tỏa
hữu ích của mạng xã hội, họ đã có nhiều cơ hội mở rộng hơn đối tượng
khách du lịch.

Ngoài ra nhờ việc quảng bá du lịch qua internet đã mang thông tin
về du lịch Việt Nam đến với 340 nghìn lượt người xem trên kênh Youtube
và hàng triệu người truy cập các trang web du lịch của Việt Nam, tính
đến tháng 8 năm 2017 du lịch Việt Nam đã đón gần 7,5 triệu lượt khách
quốc tế tăng 29% so với cùng kỳ năm trước, tổng doanh thu ướ tính tăng
26%.
Thứ hai, nâng cao khả năng quản lý du lịch, áp dụng CNTT sẽ giúp
việc quản lý dễ dàng hơn từ đó giảm thiểu chi phí phân phối, chi phí lao
động thấp, giảm thiểu chất thải, người hỗ trợ tính giá linh hoạt. Nhờ sự
phát triển của CNTT, đã ra đời rất nhiều các hệ thống ứng dụng phần
mềm giúp đỡ trong việc quản lý vận hành của các doanh nghiệp kinh
doanh trong ngành du lịch. Đầu tiên phải kể đến Hệ thống phân phối
toàn cầu GDS (Global Distribution System) là một công cụ đặt chỗ đầu
tiên cho các công ty du lịch. GDS là một nền tảng/mạng lưới cho phép
các công ty du lịch và khách hàng của họ để mua và so sánh các tùy
chọn đặt chỗ bao gồm 3 mảng book đặt dịch vụ chủ yếu: máy bay,
khách sạn và vận chuyển mặt đất. Nếu như trước đây, việc book đặt 1
chuyến bay mất rất nhiều thời gian, với hệ thống GDS hiện đại đã giải
phóng các quá trình book đặt mất thời gian thay vào đó là nhanh chóng
và tiện lợi hơn rất nhiều. Các công ty du lịch hay các văn phòng du lịch
ngày nay sử dụng các hệ thống GDS ngày càng phức tạp hơn để tìm ra
14


chỗ ở và giá tốt nhất cho khách hàng của họ, và học có thể đặt chỗ ngay
cho khách hàng khi tìm được trong tích tắc. Chính vì vậy sẽ giúp giảm
thiểu thời gian ch phí cho các doanh nghiệp. Ngoài ra còn có một số các
phần mềm được sử dụng rộng rãi trong việ quản lý du lịch, khách sạn
như Hệ thống đặt chỗ qua máy tính (CRS), Hệ thống quản lý điểm đến
(DMSs),....

Ngoài ra CNTT giúp cho việc mang thông tin đến cho khách hàng,
chăm sóc hỗ trợ khách hàng và giúp việc kết nối giữa các doanh nghiệp
hay doanh nghiệp với khách hàng dễ dàng hơn. Dù khách hàng ở trong
nước hay là quốc tế đều có thể được chăm sóc cung cấp thông tin một
cách cụ thể thông qua các hệ thống internet. Website, fanpage,...
Đới với khách hàng những người trực tiếp sử dụng dịch vụ du lịch
Thứ nhất, người tiêu dùng sẽ có được nhiều thông tin và được lựa
chọn nhiều hơn. Họ chỉ cần sử dụng internet là có thể tìm ra ngay các
thông tin về địa điểm nơi mình đến và họ cũng sẽ có nhiều sự lựa chọn
hơn về điểm đến, phương tiện, chỗ ở,... Tránh tình tạng khi đến một nơi
mới sẽ tránh được tình trạng chặt chém, xe dù,...
Thứ hai, giảm thiểu chi phí cho người tiêu dùng. Cùng với sự phát
triển của công nghệ thông tin đó là sự phát triển của hình thức thương
mại điện tử. Trên cơ sở đó các hình thức về đặt chỗ ở trước cho du
kháchbằng hình thức online trên web hay app mobile, chúng ta lấy ví dụ
về một startup với mô hình chia sẻ chỗ ở đang rất được nhiều người ưa
chuộng hiện nay là Airbnb. Airbnb sẽ giúp kết nối gữa chủ nhà trọ và
người thuê trọ trên toàn thế giới với nhau. So với việc đặt chỗ ở khách
sạn hay nhà nghỉ có điều kiện tương đương thì việc đặt chỗ trên Airbnb
có giả rẻ hơn, giảm thiểu chi phí cho người tiêu dùng.
Tăng năng lực cạnh tranh cho ngành du lịch

15


Việc ứng dụng CNTT vào ngành Du lịch là yêu cầu tất yếu trong
quá trình hội nhập, phát triển, không chỉ gia tăng các tiện ích cho du
khách và nhà quản lý mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh với các
nước. Điều này thể hiện qua những chức năng sau:
Thứ nhất, tạo sự liên kết giữa các tổ chức. Nhờ có mạng truyền

thông các tổ chức cá nhân có thể chia sẻ, trao đổi dữ liệu cho nhau tạo
nên sự liên kết. Điều này được sử dụng rộng rãi giữa các nhà điều hành
tour du lịch và các cơ quan xử lý điểm đến để chuyển danh sách, khách
hàng, hóa đơn và công việc khác. Các hệ thống quản lí điểm đến, hệ
thống quản lý đặt phòng cùng nhau chia sẻ các dữ liệu về khác hàng, từ
đó tạo thuận lợi trong việc phát triển của các doanh nghiệp du lịch vừa
và nhỏ từ đó cạnh tranh được với các đối tác lớn hơn.
Ngoài ra nhờ sự liên két giữa khách hàng và tổ chức thông qua
internet, người tiêu dùng có thể liên lạc, phản hồi tương tác với các tổ
chức du lịch ngay lặp tức. Chính vì điều này các tổ chức du lịch có thể
nâng cao hiệu quả hoạt động của mình bằng việc tăng cường kết nối vơi
khách hàng trước và sau sử dụng dịch vụ, thể hiện sự chăm sóc quan
tâm đến khách hàng và nhận lại những đánh giá vô cùng hữu ixhs từ
khách hàng. Trên cơ sở đó xây dựng tổ chức, doanh nghiệp đi lên.
Thứ hai, các doanh nghiệp du lịch có thể trao đổi thông tin và tạo
điều kiện trong việc tiếp thị chung. Ví dụ hãng hàng không hợp tác với
các chuỗi khách sạn và các công ty cho thuê xe phát hành các phần
thưởng, khuyến mại cho người tiêu dùng. Từ đó tạo nên các chuối cung
cấp sản phẩm liền mạch và toàn diện cho người tiêu dùng. Các hãng sẽ
kết hợp với nhau tạo ra các mã giảm giá, kích thích người tiêu dùng sử
dụng các dịch vụ của họ, tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác.
Thứ ba, các doanh nghiệp du lịch hợp tác với nhau xây dựng các
gói dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu của khách thông qua việc sử dụng

16


internet đê biết được yêu cầu của cá nhân họ, từ đo xây dựng nững gói
du lịch linh hoạt phừ hợp với từng đối tượng khách hàng.
2.2.2 Tác động tiêu cực

Tuy vai trò của CNTT đối với việc phát triển du lịch là rất quan
trọng song ở một khía cạnh nào đó thì CNTT vô hình chung cũng có một
số những mặt hạn chế trong việc phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.
Đối với khách du lịch
Xuất hiện thông tin ảo, kém tin cậy có thể ảnh hưởng xấu tới du
lịch. Một số doanh nghiệp du lịch đã lợi dụng CNTT để quảng bá thiếu
chính xác hoặc đôi khi không đúng sự thật về điểm đến, về chất lượng
dịch vụ của họ nhằm mục đích thu hút được nhiều khách du lịch hơn để
tăng lợi nhuận cho mình. Khách du lịch tin vào điều đó và khi đặt chân
đến điểm du lịch thì lúc này họ mới ngỡ ngàng, thất vọng vì những gì họ
trải nghiệm không hề giống với những gì họ đã được nghe, được nhìn
trong các bài quảng bá giới thiệu của các doanh nghiệp du lịch.
Đối với các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong ngành du lịch
Để xây dựng được cơ sở hạ tầng và một hệ thống CNTT hoàn chỉnh
thì kinh phí vốn bỏ ra không phải là nhỏ. Việc tốn kém về chi phí đầu tư,
chi phí vận hành để ứng dụng CNTT là một rào cản lớn đối với các doanh
nghiệp du lịch. Áp lực cạnh tranh ép họ bắt buộc phải đi theo sự phát
triển của công nghệ, nếu không việc tụt hậu và mất thị trường kinh
doanh là điều không thể tránh khỏi. Hơn nữa Việt Nam vẫn chòn là một
nước đnag phát triển chính vì thế khó có thể tiếp thu nhanh chóng những
công nghệ mới để đứng vững trên thị trường cạnh tranh thế giới.
Bên cạnh đó còn là khó khăn về yếu tố con người. Thiếu nguồn
nhân lực có trình độ CNTT trong ngành du lịch. Vì vậy mà các doanh
nghiệp du lịch phải đầu tư thêm chi phí thuê lao động giá cao, hoặc chi
17


phí để đào tạo lao động trong lĩnh vực này. Việc đào tạo đội ngũ lao động
cũng làm các doanh nghiệp tốn không ít thời gian trong khi thế giới đang
phát triển như vũ bão.

Ví dụ về một khách sạn du lịch, họ cần đầu tư chi phí để
marketing, trong đó có chi phí xây dựng một website riêng của khách
sạn để giới thiệu về chất lượng phòng ở, các dịch vụ và các tiện ích tích
hợp cho khách hàng, chi phí để website hoạt động hiệu quả, chi phí thuê
mua các phần mềm quản lý khách hàng, quản lý nhân viên. Khi đã đầu
tư về mặt công nghệ thì khách sạn cần phải có con người có thể điều
hành, làm việc được với công nghệ đó. Lúc này khách sạn lại cần đầu tư
thêm kinh phí để thuê hoặc đào tạo lao động. Như vậy để có thể áp dụng
được CNTT để phát triển ngành du lịch đối cới các doanh nghiệp cũng
gặp không ít những khó khăn, hơn nữa đây cũng là một thách thức vô
cùng lớn với những đơn vị kinh doanh du lịch nhỏ lẻ vì yêu cầu về chi phí
vốn và lao động là khá cao. Điều này dẫn đến tình trạng cá lớn nuốt cá
bé và trên thị trường những doanh nghiệp nào đủ lớn mới có thể tồn tại.

CHƯƠNG 3: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG ỨNG DỤNG CNTT
VÀO NGÀNH DU LỊCH NƯỚC TA
3.1 CƠ HỘI
Tăng doanh thu của ngành du lịch, cải thiện chỉ số GDP nhờ vào
giảm chi phí thông qua áp dụng khoa học công nghệ, giảm nguồn nhân
lực, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành.
Ứng dụng CNTT mang lại nhiều tiện ích đối với phát triển kinh tế
du lịch là không thể phủ nhận, đặc biệt trong công tác quản lý, nó mang
lại nhiều lợi ích cụ thể: Chi phí phân phối thấp; Chi phí truyền thông
thấp; Chi phí lao động thấp; Giảm thiểu chất thải; Người hỗ trợ tính giá
linh hoạt.
18


Bên cạnh đó là những tiện ích cho du khách như: Đáp ứng nhu cầu
rất tốt; Linh hoạt trong thời gian hoạt động; Hỗ trợ chuyên môn hóa và

sự khác biệt; Cung cấp các giao dịch phút chót; Thông tin chính xác; Hỗ
trợ tiếp thị mối quan hệ; Phản ứng nhanh với nhu cầu dao động; Nhiều
sản phẩm/tích hợp; Nghiên cứu thị trường.
Đặc biệt CNTT đã kích thích những thay đổi cơ bản trong hoạt động
và phân phối của ngành du lịch. Ví dụ rõ ràng nhất trong du lịch là quá
trình đặt chỗ, dần dần trở nên hợp lý và cho phép cả người tiêu dùng và
ngành công nghiệp tiết kiệm thời gian đáng kể trong việc xác định, hợp
nhất, đặt và mua các sản phẩm du lịch.
Khi việc ứng dụng CNTT được triển khai mạnh mẽ, khách du lịch có
thể duyệt qua Internet và xác định một loạt các đề nghị phong phú để
đưa ra lựa chọn đi du lịch phù hợp với yêu cầu cá nhân của họ. Do đó,
trọng tâm chuyển hướng sang các chuyến du lịch riêng lẻ và các gói
năng động.
Điều này sẽ cải thiện dịch vụ và cung cấp trải nghiệm du lịch liền
mạch, trong khi nó sẽ cho phép các tổ chức du lịch quản lý khả năng
cạnh tranh trong môi trường phát triển hiện đại, CNTT cung cấp một cơ
hội chưa từng có cho hội nhập theo chiều ngang, dọc và chéo, cũng như
cho sự phát triển của các doanh nghiệp. CNTT sẽ cho phép ngành công
nghiệp phát triển sự hiểu biết về sự phát triển hiện đại và một Tầm nhìn
cho tương lai.
Phát huy tiềm năng du lịch Việt Nam quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế
giới.
Với điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý do thiên nhiên ban tặng, nền
văn hóa lâu đời, Việt Nam được đánh giá là đất nước có tiềm năng và lợi
thế to lớn để phát triển du lịch. Nhiều điểm du lịch của Việt Nam được
các tổ chức, hiệp hội, trang web du lịch uy tín thế giới bình chọn với vị trí
19


nhất nhì khu vực và thế giới về độ hấp dẫn, vẻ đẹp tiềm năng và sự thu

hút với du khách.
Du lịch thông minh là giải pháp toàn diện cho sự kết nối giữa
khách du lịch và các điểm đến điều mà du lịch truyền thống sẽ không
thể làm được. Mang tiềm năng du lịch Việt Nam đến gần hơn, toàn diện
hơn tới tận tay người tiêu dùng. Các doanh nghiệp có cơ hội quảng bá
sản phẩm, dịch vụ của mình một cách dễ dàng. Người tiêu dùng có thể
liên lạc trực tiếp với các tổ chức du lịch để yêu cầu thông tin và mua sản
phẩm, cũng như tương tác với người hướng dẫn, ban quản lý du lịch, có
thể truy cập thông tin về các sản phẩm và tổ chức du lịch ngay lập tức
và không tốn kém.
Khả năng lan truyền nhiều tầng trên internet cực kỳ hữu hiệu, nếu
nội dung được trau chuốt kỹ lưỡng, trình bày sống động, đẹp mắt, những
thông điệp hình ảnh về đất nước, con người Việt Nam sẽ được truyền tới
bè bạn khắp nơi không chỉ trong nước mà trên toàn thế giới.

3.2 THÁCH THỨC
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển du lịch thông
minh tại Việt Nam là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với sự phát triển
cũng như tiến bộ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0. CNTT đem lại một
luồng gió mới cho du lịch Việt, mở ra nhiều cơ hội để phát triển du lịch
nhưng đồng thời chúng ta cũng đối mặt với không ít thách thức cần phải
vượt qua để CNTT thật sự là công cụ hữu ích trong tăng trưởng du lịch
nước nhà.
Đối với các doanh nghiệp

20


Các doanh nghiệp phải chủ động và nhạy bẹn với sự thay đổi, ứng
dụng CNTT vào hoạt động của doanh nghiệp. Dường như Việt Nam chưa

thực sự chủ động triển khai du lịch trực tuyến. Du lịch trực tuyến chưa
đồng hành xứng tầm với vẻ đẹp bất tận của đất nước chúng ta. Tại Việt
Nam, tỷ lệ khách du lịch sử dụng internet để đặt các dịch vụ du lịch mới
chiếm 34% trong đó chủ yếu vẫn là hình thức book dịch vụ trực tiếp với
nhà cung cấp. Vì vậy , đòi hỏi các doanh nghiệp, Các công ty lữ hành
buộc phải thay đổi cách kinh doanh, từ đón khách hàng trực tiếp tại văn
phòng, đại lý,... sang kinh doanh trực tuyến, xử lý các yêu cầu của khách
hàng qua hệ thống internet. Đứng trước xu hướng người tiêu dùng sử
dụng điện thoại thông minh để truy cập Internet ngày càng tăng lên, các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch buộc phải đầu tư mạnh hơn cho kênh
bán hàng trực tuyến, đặc biệt là kênh bán lẻ trên nền tảng di động. Đồng
thời, họ cũng phải tính toán sự hài hòa về doanh thu và lợi nhuận, cân
nhắc bài toán mở rộng quy mô kinh doanh thông qua kênh OTA.
Sự hài lòng của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào tính chính xác
và toàn diện của thông tin cụ thể về khả năng tiếp cận của điểm đến, cơ
sở vật chất, thu hút du khách và các hoạt động khác. Vì vậy CNTT luôn
phải được cập nhật để cải thiện dịch vụ chất lượng và góp phần nâng
cao sự hài lòng của du khách. Bên cạnh đó đòi hỏi doanh nghiệp phải
không ngừng đa dạng sản phẩm và thiết lập tiếp thị bằng cách sử dụng
thông tin thu thập được bởi các chương trình khách hàng quen thuộc,
cung cấp các dịch vụ mới,..Xây dựng lòng tin và sự hài lòng từ khách
hàng.
Tuy nhiên, để bắt đầu hay chuyển đổi từ một hệ thống du lịch
truyền thống sang du lịch thông minh , các công ty lữ hành cần một
nguồn vốn ban đầu lớn, đầu tư vào trang thiết bị, và nguồn nhân lực chất
lượng cao. Cần có thời gian để chuyển đổi và đào tạo đội ngũ lao động
trong ngành dịch vụ này.

21



Bên cạnh đó thị phần du lịch trực tuyến trong nước đang nghiêng
về các doanh nghiệp du lịch nước ngoài. Sự thống trị của các đại lý du
lịch trực tuyến (OTAs) nước ngoài đã có những tác động tích cực đối với
du lịch nước ta, đặc biệt trong việc thu hút du khách quốc tế. Tuy nhiên,
đó cũng là một thách thức lớn đối với các OTA nội khi phải cạnh tranh
được với các OTA ngoại.
Phát triển du lịch thông minh đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch, nhà
cung cấp dịch vụ du lịch trực tuyến cùng các nhà cung cấp dịch vụ thanh
toán trực tuyến, các ngân hàng phải chung tay, hợp sức với nhau để
phát triển thị trường, cùng hình thành một liên minh để phát triển các
sản phẩm và dịch vụ trực tuyến có chất lượng cao, phong phú và đa
dạng.
Đối với chính sách quản lý của nhà nước
Nhà nước không dễ dàng trong việc quản lý hệ thống an ninh
mạng, bảo vệ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch và du
khách. Việc ứng dụng CNTT vào đặt vé, tour du lịch trên mạng dễ dẫn
đến vấn đề đánh cắp thông tin, một số tổ chức, cá nhân lợi dụng những
sơ hở để tạo thông tin ảo, lừa đảo trên mạng, hoặc bán thông tin cá
nhân
Để các doanh nghiệp du lịch có điều kiện thuận lợi phát triển du
lịch thoogn minh thông qua việc ứng dụng CNTT, các cơ quan quản lý
nhà cũng đứng trước yêu cầu phải thực hiện quá trình chuyển đổi số
càng sớm càng tốt,hướng tới hình thành một hệ thống tích hợp và trao
đổi dữ liệu du lịch thông minh của Việt Nam. Bên cạnh đó, chính phủ
cũng cần trở nên cởi mở và tập trung vào công nghệ hơn là chỉ dừng ở
mức đóng vai trò quản lý và vai trò là các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng và
dữ liệu.

22



CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG CNTT VÀO PHÁT TRIỂN NGÀNH
DU LỊCH VIỆT NAM
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ đến tất
cả các khía cạnh của đời sống xã hội và các ngành kinh tế, làm thay đổi
mô hình hoạt động của các công ty trong hầu hết các lĩnh vực. Thị
trường du lịch toàn cầu cũng đang chứng kiến sự thay đổi với sự lên ngôi
của xu hướng kinh doanh du lịch trực tuyến.
Theo công ty nghiên cứu thị trường Nielsen, doanh số du lịch trực
tuyến trên thế giới năm 2016 tăng 13,8% và đạt giá trị khoảng 565 tỷ
USD, trong đó thị trường châu Á - Thái Bình Dương vươn lên dẫn đầu thế
giới về du lịch trực tuyến từ năm 2017. Tại khu vực Đông Nam Á, Google
dự đoán giá trị của du lịch trực tuyến sẽ tăng từ 22 tỷ USD năm 2015 lên
90 tỷ USD vào năm 2025.
Tại Việt Nam, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra cả cơ hội và
thách thức cho ngành du lịch vốn đang được Đảng và Chính phủ quan
tâm đặc biệt. Thị trường du lịch Việt Nam cũng đang thay đổi do sự phát
triển của công nghệ, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng nhanh của du lịch
trực tuyến. Thực tế này buộc tất cả các thành phần trong ngành du lịch,
từ các cơ quan quản lý nhà nước cho đến các công ty cấp sản phẩm dịch vụ du lịch, đều đứng trước yêu cầu phải thực hiện quá trình chuyển
đối số càng sớm càng tốt, hướng tới hình thành một hệ thống tích hợp và
trao đổi dữ liệu du lịch thông minh của Việt Nam.
Hệ thống dữ liệu thông minh này sẽ thống nhất khối dữ liệu du lịch
khổng lồ đang tản mát hiện nay, được tất cả các thành phần trong ngành
23


du lịch cùng xây dựng và khai thác, qua đó tạo giá trị gia tăng cho sản
phẩm và dịch vụ du lịch nhờ khả năng cá nhân hóa được xu hướng và

nhu cầu của các du khách.
4.1 GIẢI PHÁP VĨ MÔ
Ta có thể thấy sự phát triển của du lịch thông minh kéo theo nhiệm
vụ mới trong ngành dịch vụ này. Bài toán đưa ra là chúng ta cần xây
dựng một cách toàn diện và có hệ thống các cơ sở hạ tầng và yếu tố nền
tảng thúc đẩy ngành phát triển theo một cách hiện đại, hướng đến tự
động hóa nhờ CNTT.
Thứ nhất, Chính phủ cần ban hành các chỉ thị với những mục tiêu
cụ thể, giúp ngành du lịch trong nước có thể định hướng phát triển rõ
ràng hơn.
Trên thực tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CTTTg ngày 4/5/2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 và giảm thiểu những tác động tiêu cực của làn
sóng này ở Việt Nam, trong đó nêu rõ du lịch là một trong những ngành
kinh tế được ưu tiên xây dựng chiến lược chuyển đổi số, ứng dụng công
nghệ thông tin nhằm thúc đẩy du lịch thông minh ở Việt Nam.
Đây là định hướng chính sách quan trọng cho ngành du lịch hướng
tới các mục tiêu do Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát
triển du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn đã đặt ra.
Theo đó, tới năm 2020 Việt Nam sẽ thu hút được từ 17 đến 20 triệu
lượt khách quốc tế (so với 10 triệu năm 2016), phục vụ 82 triệu lượt
khách nội địa (so với 62 triệu năm 2016), đóng góp trên 10% GDP, tổng
thu từ khách du lịch đạt 35 tỷ USD và tạo ra khoảng 4 triệu việc làm gồm
1,6 triệu việc làm trực tiếp.

24


Tuy nhiên qua phần 1.2 ta có thể thấy tại Viêt Nam hiện nay, các
yếu tố quan trọng được đề cập đến còn chưa được đẩy mạnh hoặc đang
ở một mức rất thấp. Do đó giải pháp đưa ra chính là giải quyết được

những bài toán đó:
Tiến hành triển khai xây dựng những điểm đến thông minh. Áp
dụng công nghệ vào việc hỗ trợ các hoạt động của ngành trong các
thành phố, điểm đến du lịch. Phủ rộng hệ thống Wif, Internet – tạo nền
tảng cho những ứng dụng thông minh hay những phần mềm quản lí hiện
đại được triển khai.
Phát triển kinh nghiệm thông minh và Xây dựng hệ sinh thái du
lịch. Đầu tư phát triển công nghệ Big Data, phát triển nhiều giải pháp
giúp thúc đẩy quảng bá du lịch trên các trang mạng xã hội – nơi có rất
nhiều khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó ta cũng nên lập ra những liên
minh để tạo hệ sinh thái du lịch, đó là liên minh các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ du lịch, dịch vụ kết nối hoạt động du lịch qua Internet (bao
gồm các doanh nghiệp du lịch, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, các đại lý
du lịch thông minh, ngân hàng, công ty bảo hiểm, ví điện tử…) Sự hợp
tác này sẽ tăng quy mô thị trường, mở rộng phạm vi tiếp cận các sản
phẩm du lịch, đẩy mạnh việc cung cấp dịch vụ du lịch thông minh, cung
cấp cho người tiêu dùng các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong
phú. Giúp tăng sức cạnh tranh, cùng nhau cung cấp các sản phẩm có
chất lượng tốt hơn ra thị trường.
Thứ hai, cần thành lập các hiệp hội chuyên tổ chức, quản lý, đào
tạo các linh vực liên quan đến du lịch (ví dụ: Hiệp hội du lịch, hiệp hội
hướng dẫn viên du lịch, …).
Hiện nay trên cả nước đã hình thành được khá nhiều các hiệp hội
du lịch có tổ chức và quy mô bài bản như: Hiệp hội du lịch tp. Hồ Chí
Minh, Hiệp hội du lịch tỉnh Nam Định, Hiệp hội du lịch tỉnh Bắc Giang, …
Đặc biệt là sự ra đời của Hiệp hội đào tạo du lịch Việt Nam (VITEA) (ngày
25



×