Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển làng nghề thủ công từ góc tiếp cận nhân học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.27 KB, 12 trang )

Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 3(46)-2020

MỐI QUAN HỆ TƢƠNG HỖ GIỮA VĂN HOÁ VÀ KINH TẾ
TRONG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG
TỪ GÓC TIẾP CẬN NHÂN HỌC
Bùi Việt Thành(1)
(1)Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn (VNU-HCM)
Ngày nhận bài 28/12/2019; Ngày gửi phản biện 02/01/020; Chấp nhận đăng 24/02/2020
Liên hệ email:
/>
Tóm tắt
Nghiên cứu về làng nghề thủ công luôn là một đối tượng đầy thú vị, bởi sự đa
dạng về dân cư, các mặt hàng sản xuất, nhất là tính truyền thống, vùng miền và cả hiệu
quả kinh tế của sản phẩm làng nghề. Tuy nhiên, nghiên cứu về làng nghề thủ công
thường được nhìn nhận từ góc độ riêng biệt như văn hóa dân gian, văn hóa, dân số lịch
sử kinh tế theo các chuyên ngành mà ít nhìn nó trong mối quan hệ tương hỗ mạnh mẽ.
Nghiên cứu về mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và kinh tế từ cách tiếp cận nhân học
sẽ làm rõ được mối quan hệ này về đời sống của hộ sản xuất tại làng nghề thủ công, ở
đó kinh tế và văn hóa luôn có sự cộng hưởng mạnh mẽ qua thời gian.
Từ khóa: kinh tế, hộ sản xuất, làng nghề thủ công, sinh kế, văn hóa
Abstract
THE INTERACTION BETWEEN CULTURE AND ECONOMY IN THE
DEVELOPMENT OF HANDICRAFT VILLAGES FROM THE
ANTHROPOLOGICAL APPROACH
The study of handicraft villages has always been an interesting subject because of the
diversity of the population, production, especially the traditional and regional aspects as
well as the economic efficiency of handicraft products. However, the study of handicraft
villages is often viewed from separate perspectives such as folklore, culture, population,
history, economy, etc. The strong interaction relationship of this subject is also rarely


studied. The study of the interaction relationship between culture and economy from an
anthropological approach clarifies the relationship of the production households in
handicraft villages, in which economy and culture always strongly resonate over time.
1. Đặt vấn đề
Làng nghề thủ công với quá trình sản xuất không phải nghề nào cũng mang lại
lợi ích kinh tế cao, có nghề đòi hỏi sức lao động nhưng lợi ích kinh tế thì hoàn toàn
ngược lại. Bối cảnh đương đại cho thấy sản xuất, thu nhập cao, ổn định dường như
mâu thuẫn với sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, tốn chi phí sản xuất, lấy công làm lời.
9


/>
Điều đó cho thấy phát triển làng nghề phải có sự đồng thuận giữa kinh tế - văn hóa
mới có thể phát triển được và để có được điều này hết sức khó khăn. Thực tế tại các
làng nghề thủ công hiện nay thì kinh tế quyết định đến việc sản xuất và tương hỗ cho
thực hành văn hóa; ngược lại văn hóa định hình cho kinh tế phát triển một cách ổn
định. Nhưng cũng có thực tế là khoảng trống của yếu tố văn hoá con người đang trở
thành thách thức cho làng nghề, khi lao động trẻ có tri thức và có tay nghề đang rời
khỏi làng nghề thủ công đến các khu chế xuất, khu công nghiệp hay các ngành dịch vụ
ở các đô thị có thu nhập cao hơn. Yếu tố văn hóa con người này dường như không
được chú trọng nhằm tìm kiếm các phương thức phát triển bền vững. Cụ thể hơn, mối
quan hệ tương hỗ hiện nay tại các làng nghề thủ công ở Quảng Trị thực sự đang được
vận hành như thế nào, chính là điều cần được nghiên cứu nhằm mang tới cái nhìn đa
diện về văn hóa và kinh tế làng nghề thủ công để có được các giải pháp phát triển phù
hợp với bối cảnh đương đại.
2. Tổng quan tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này chúng tôi đã sử dụng lý thuyết nhân học và các nghiên cứu khác
để phân tích mối quan hệ tương hỗ văn hóa và kinh tế của nghề thủ công ở Quảng Trị
Ngô Văn Lệ và cs. (2006), Nguyễn Khắc Cảnh và Đặng Thị Kim Oanh (2015), Bernard
(2009), Bùi Quang Dũng (2007), Houtart và Lemercinier (2001), Cling và cs.

(2013).v.v., Khoa Nhân học (2013), Vũ Thị Mai Anh (2016), Gourou (2015), Nguyễn
Văn Huyên (2017)...; hay từ góc tiếp cận lịch sử, văn hoá học, xã hội học và kinh tế học.
Cụ thể như các nghiên cứu của Vũ Quốc Tuấn (2010), Bùi Văn Vượng (2010), Đỗ Thị
Hảo (1989), Vũ Từ Trang (2001)…
Bắt đầu từ đổi mới (1986), làng nghề thủ công được nghiên cứu trong bối cảnh
mối quan hệ tương tác nông thôn - thành thị (Lê Huyên, 2003), (Trần Thị Hồng Yến,
2013), những biến đổi của làng nghề trong đổi mới và hội nhập của đất nước (Vũ Hy
Thiều, 2012), (Oger, 2009), (Lê Thị Minh Lý, 2003). Đây là những nghiên cứu mang
tính thời sự trong công cuộc chuyển mình của đất nước khi làng nghề thủ công đối mặt
với thách thức. Về văn hóa làng nghề, các nghiên cứu khẳng định văn hóa làng, làng
nghề thủ công quyết định các vấn đề kinh tế và chúng có mối hệ hỗ tương thể hiện qua
nghiên cứu Đào Duy Anh (2014), Lê Nguyễn Lưu (2006), Sakaya (2012), Phan Kế
Bính (2014), Hội dạy Nghề Việt Nam (2008), Võ Văn Hoè và cs. (2012), Trương Minh
Hằng (2006), Nguyễn Thị Như Liêm và Đặng Thị Thạch (2012), Đỗ Thị Hảo (2003)…
Bên cạnh đó, mối quan hệ kinh tế và văn hóa của làng nghề thì vấn đề “biến đổi” là quá
trình thay đổi đời sống văn hóa, kinh tế - xã hội của người dân tại các làng nghề thủ
công có Ngô Đức Thịnh (2014), Nguyễn Chí Tình (1999); Hickey (1960), William
(2013), Lương Văn Hy và Trương Huyền Chi (2012), Lương Hồng Quang và cs.
(2011), Bùi Xuân Đính (2009), Trần Minh Yến (2004), Vũ Duy Mền (2018); Nguyễn
Hữu Thông (2007), Nguyễn Thị Phương Châm (2009); Nguyễn Thị Phương Châm, Đỗ
Lan Phương (2016), Vũ Quốc Tuấn (2011)... cũng được quan tâm nghiên cứu.
10


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 3(46)-2020

Đặc biệt, làng nghề thủ công phát triển thì yếu tố kinh tế - xã hội, quan hệ sản
xuất, sở hữu ruộng đất, bản chất của nền kinh tế làng nghề được Nhân học, nhất là dưới

góc độ sinh kế quan tâm nghiên cứu. Yếu tố kinh tế tự bản thân nó trở thành yếu tố hỗ
trợ cho văn hóa làng nghề phát triển cũng như gìn giữ làng nghề tồn tại cũng được
Robert L. Samsom (1970), Nguyễn Văn Phát và cs. (2012), Hoàng Bá Thịnh (2008),
Nguyễn Phượng Lê, Lê Văn Tân (2013), Lương Văn Hy (2010), Ngô Thị Phương Lan
(2014), Oliver Tessier (2010) nhấn mạnh trong nghiên cứu của mình, khẳng định văn
hóa phát triển bền vững được chính là nhờ vào kinh tế. Vấn đề kinh tế làng nghề được
Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Jamaica, Hà Lan quan tâm và đưa ra chính
sách để phát triển. Đây là các quốc gia có làng nghề thủ công phát triển đa dạng và khá
tương đồng với Việt Nam. Phát triển kinh tế được nhấn mạnh đến vốn, tiếp cận vốn, đổi
mới sản phẩm, mô hình và phát huy các mối quan hệ của dòng tộc tại các làng nghề, nổi
bật như Bhandari và Kundu (2013), Cho (2012), Ghosh (2014a), Haraguchi (2008), Hill
và c.s. (2007), Marzin và Michaud (2016), Meroz (2013), Natsuda và cs. (2012), Ploeg
và Jingzhong (2010), Routray (2007), Singh (2009), Wilson (2010), Zeller (2004).v.v.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu khác về hệ thống thân tộc với việc phát triển làng thủ công
có Glass, Jr. và Smith (1984), Guffey (2014), Ledger (1996), Tiedemann (1981), Zhan
và cs. (2017)… làm rõ tính thân tộc trong phát triển làng nghề dựa trên mối quan hệ
dòng họ, tạo ra nhiều ưu thế cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh. Như vậy, mối quan
hệ xã hội càng nhiều thì tạo ra vốn xã hội lớn và nâng cao ý thức học tập suốt đời nhằm
thay đổi đời sống, thậm chí người lớn tuổi cũng có được khả năng thích ứng nếu được
hỗ trợ bởi người thân, dòng họ.
Nghiên cứu thực hiện bằng phương pháp định tính và điền dã nhân học tại 14 làng
nghề thủ công ở 3 huyện (Cam Lộ, Hải Lăng, Triệu Phong) ở Quảng Trị với 16 cuộc
phỏng vấn sâu, là chủ hộ sản xuất tại các làng nghề thủ công. Các yếu tố khác về đời
sống văn hóa - kinh tế - xã hội của làng nghề thủ công dựa trên kết quả khảo sát định
lượng với 336 hộ sản xuất trên 2000 hộ sản xuất tại các làng nghề năm 2016.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Văn hóa tác động đến việc phát triển kinh tế
Lao động trẻ tại các làng nghề thủ công việc rời bỏ chủ yếu do chức năng kinh tế
tác động vào chuyển đổi công việc nhằm tìm kiếm công việc phù hợp của cá nhân. Kinh
tế có chức năng quyết định đời sống văn hóa - tinh thần của con người. Điều này cho

thấy hệ thống văn hóa truyền thống không thể bảo vệ, duy trì được việc gìn giữ phát
triển làng nghề thủ công dựa vào tri thức trong hoàn cảnh mới là một thất bại. Các yếu
tố văn hóa con người không được duy trì thì làng nghề cũng đối diện thách thức trong
việc phát triển. Từ đó có thể thấy văn hoá là một chỉnh thể tạo ra những bộ phận cốt lỗi
phối hợp với các thiết chế và nó cũng tạo một hệ thống cân bằng ổn định. Đấy chính là
mối quan hệ hỗ tương được Mauss (2011), Fichter (1973), Olivier (2010) nói đến trong
các nghiên cứu của mình. Trong bối cảnh mới của làng nghề thủ công hiện nay cho thấy
11


/>
văn hoá giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và kinh tế hỗ trợ
ngược lại cho văn hoá được phát triển ổn định, hay nói cách khác văn hoá giữ vai quyết
định, nhưng kinh tế là điều kiện cần thiết giúp văn hoá được phát triển ổn định.
Tương tự Đặng Cảnh Khanh (1999), nhấn mạnh: “Sự phát triển rực rỡ hay tàn lụi
của một nền văn minh tuỳ thuộc vào rất nhiều khả năng của tư duy sáng tạo – một trong
những nhân tố phi kinh tế quan trọng nhất – của chủ thể xã hội của nền văn minh đó”,
“văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất có sự thống nhất biện chứng, hay giữa hoạt động
kinh tế và hoạt động phi kinh tế - nó tồn tại tách biệt lại vừa gắn bó thống nhất, tương
hỗ lẫn nhau”. Rõ ràng đời sống con người chỉ sống thì chưa đủ mà còn tìm kiếm các giá
trị văn hoá trong đời sống xã hội, đấy chính là giá trị văn hoá, đạo đức, tinh thần, những
yếu tố đa dạng và phong phú của các hoạt động phi kinh tế có được chổ đứng cơ bản và
vững vàng của mình trong bước tiến hoá của xã hội.
Kinh tế/ thu nhập tăng lên là điều kiện giúp phát triển, gìn giữ văn hoá tại các làng
nghề thủ công hiện nay. Mối quan hệ văn hoá và kinh tế là mối quan hệ tương hỗ hay có
thế nói là mối quan hệ nhân quả, trong đó kinh tế tác động đến gìn giữ văn hoá làng
nghề, ngược lại văn hoá tác động đến các phương thức hoạt động kinh tế nhằm thu lợi
nhuận, mối quan hệ này có thể xem là rất quan trọng. Việc có thu nhập (yếu tố kinh tế)
cao sẽ có được từ sự ảnh hưởng của văn hoá đến quá trình sản xuất, đổi mới sản phẩm,
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Rõ ràng các sản phẩm liên quan mật thiết đến

một nền văn hoá của nó và có sự khác biệt với các nền văn hoá khác (nơi sống khác).
Hơn nữa, người dùng sản phẩm đó vì tâm thức chung cùng nền văn hoá (cùng nơi sống)
hiểu cảm nhận các hương vị, tính đặc trưng của sản phẩm… Theo Rapaille (2017) thì
việc bán sản phẩm cần phải quảng bá ngôi làng nguồn cội, nhất định phải giữ được cái
hồn nơi xuất xứ khi đi ra thế giới, đó chính là các giá trị văn hóa. Làng nghề được
Rapaille giải thích như sau: “Ngôi làng cội nguồn có thể tạo ra một kết nối không thể
xoá nhoà với một nhãn hiệu. Một sản phẩm trở nên gắn kết chặt chẽ với ngôi làng đến
mức gần như không thể quảng cáo bằng một cách nào khác. Chúng ta đánh mất hình
ảnh ngôi làng cội nguồn của mình và như doanh số cho thấy, chúng ta đánh mất vị trí
của mình trong suy nghĩ của những người mua… Khi một sản phẩm cố gắng thay đổi
hình ảnh để trở nên phù hợp với mọi nền văn hoá, nó đã bỏ đi đặc tính độc nhất của
mình trong nỗ lực tìm kiếm sự phổ thông tuyệt đối. Những thương hiệu muốn xoá bỏ
ngôi làng cội nguồn để thay bằng một phong cách quốc tế thường đánh mất bản sắc
cũng nhanh như việc xoá bỏ ngôi làng cội nguồn khỏi thông điệp quảng cáo của chúng”.
Có được thu nhập tốt, có tích luỹ, đời sống của người dân mới thay đổi: xây dựng
một cuộc sống tốt, cải thiện các điều kiện sống, hỗ trợ con cái học hành, gia đình anh
em cùng phát triển (Bùi Việt Thành, 2017; Bùi Việt Thành - Phạm Bích Ngọc, 2014);
hay có thu nhập cao mới tạo ra công ăn việc làm ổn định, thu hút được các thành viên
tham gia, hay có nhiệm vụ bảo vệ được môi trường sống, đặc biệt là có điều kiện kinh tế
sẽ hỗ trợ phát triển lịch sử truyền thống của làng, vinh danh các nghệ nhân, ghi công
tiền nhân và tổ chức lại các hoạt động lễ nghi, tín ngưỡng trước đó. Kinh tế trở thành
12


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 3(46)-2020

một hoạt động căn bản trong đời sống của các làng nghề thủ công, điều mà Weber nhìn
nhận là “vai trò quan căn bản của kinh tế” nhưng chú ý đến mối tương quan nhân quả,

không phải một chiều (Weber, 2008).
3.2. Kinh tế tác động đến quá trình phát triển văn hóa làng nghề
Có tích luỹ an toàn thì mới mạnh dạn thực hiện các nghi lễ tôn giáo hay thực hành
văn hoá, điều mà Oscar Selemink (2010) xem là “an toàn sinh kế”, sinh kế đảm bảo mới
thực hiện được các vấn đề khác, hoạt động sinh kế tạo tiền đề phát triển bởi “thiếu vắng
lòng ham muốn thì toàn bộ nền kinh tế thế giới sẽ đi đến ngừng trệ” (Salemink, 2010).
Rõ ràng, các làng nghề thủ công cho thấy rõ chức năng của văn hoá tác động đến phát
triển kinh tế khá mạnh mẽ. Khi sử dụng sản phẩm thì người tiêu dùng còn biết đến ngôi
làng đó với lịch sử, đặc trưng của sản phẩm (ví dụ, chỉ cần nói bánh ướt là biết làng
Phương Lang, con hến là làng Mai Xá). Quá trình hoạt động của kinh tế luôn bị ảnh
hưởng bởi văn hoá, hay các nền kinh tế chứa đựng sự đa dạng của nền văn hoá, kinh tế
và văn hoá có sự liên minh (Ray & Sayer, 1999).
Ray và Sayer (1999) nhận định rằng mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá không phải
là mối quan hệ đơn giản mà một nền kinh tế có thể sụp đổ bởi cách nào đó với sự ảnh
hưởng của văn hoá mà hoạt động kinh tế luôn chịu sự ảnh hưởng của văn hoá, hoặc ngược
lại đôi khi thực hành văn hoá phụ thuộc vào nhu cầu kinh tế, hay nền kinh tế ngày càng bị
ảnh hưởng của văn hoá. Cụ thể, làng nghề thủ công nào có tiềm lực kinh tế mạnh thì các
thiết chế văn hoá truyền thống duy trì, lại được đảm bảo và phát triển mạnh mẽ hơn các
làng khác, nhất là tại làng nghề bánh ướt Phương Lang, nước mắm Gia Đẵng…
Đặc biệt đời sống kinh tế thay đổi, cũng là lúc hộ sản xuất có điều kiện hỗ trợ các
thiết chế văn hoá xã hội cộng đồng thực hiện nhiều nghi lễ truyền thống (phục hồi các lễ
cúng tiền nhân, lễ hội truyền thống văn hoá của làng). Các hoạt động này thể hiện qua việc
trùng tu, xây dựng mới đình làng, nhà thờ dòng họ, chùa miếu, nhà văn hoá, thư viện cộng
đồng, hay hình thành các câu lạc bộ sinh hoạt cho thành viên tại làng tham gia được chú
trọng và quan tâm hơn trước. Việc thiết chế văn hoá được duy trì phát triển cho thấy tầm
quan trọng của nó trong đời sống văn hoá tinh thần dưới sự hỗ trợ của kinh tế (hỗ trợ tài
chính) hay có thể nói là “pháo đài lưu giữ truyền thống của xã hội” (Tsuyoshi, 2016).
Tính tương hỗ văn hóa thực hành trong bối cảnh mới là hết sức cần thiết, đấy
chính là mối quan hệ của kinh tế và văn hoá. Kinh tế hỗ trợ thực hành văn hóa chính là
điều mà Oscar Selemink (2010) cho rằng đó là sự tìm kiếm an toàn hiện sinh ở thế giới

bên kia và cả ở cuộc sống hiện tại (Salemink, 2010). Qua nghiên cứu tại 14 làng nghề
thủ công truyền thống cho thấy vai trò của nhà văn hoá, thư viện, đài phát thanh được
đánh giá là bình thường, còn lại gia đình, dòng họ, thực hành nghi lễ, tín ngưỡng của
làng đều quan trọng. Thực tế tại các làng nghề chính là nhà thờ của dòng họ, đình làng
được phục hồi, xây cất lại rất bề thế từ đóng góp của người dân. Người có điều kiện
kinh tế thì đóng góp nhiều, tên họ được ghi công trong bảng vàng của đình làng/nhà thờ
họ… Rõ ràng điều kiện kinh tế khá giả, người dân không ngại đóng góp xây dựng và
phát triển các thiết chế văn hoá của làng/dòng họ, điều mà trước đây khi đời sống còn
13


/>
quá nhiều khó khăn họ chất vật duy trì. Điều này cho thấy trên nền tảng kinh tế phát
triển thì quy mô nghi lễ cũng được thực hiện nhiều bởi sự tham gia và đóng góp nhiều
từ các thành viên.
Tham gia vào việc lớn nhỏ của làng là cá nhân muốn thể hiện vai trò xã hội của
mình, hay nói cách khác là dịp để cá nhân khẳng định vị trí của mình trong cộng đồng.
Cộng đồng lúc này là một giá trị được người dân hướng tới trong bối cảnh xã hội đương
đại (Lương Hồng Quang, 2010). Cụ thể tại làng Văn Quỹ (Hải Lăng), theo ông Nguyễn
Văn Hiền đã viết: “một bà người quê Hưng Nhơn (Kẻ Vịnh) sinh sống tại TP.HCM đầu
tư cho giáo xứ Kẻ Văn 25 triệu đồng dựng lại 65 ngôi mộ cô hồn, 15 triệu cho làng Văn
Quỹ dựng 25 ngôi mộ cô hồn trong khuôn viên đàn Âm hồn và đúc 40 vòng mộ cô hồn
tại vùng cồ mồ” (Nguyễn Văn Hiền, 2016). Sự đóng góp vật chật lớn cho làng đòi hỏi
người có điều kiện kinh tế và sự đóng góp đó thể hiện vai trò một người con của làng,
bên cạnh đó còn là sự thể hiện về nguồn gốc thuộc về ngôi làng đầy bản sắc văn hóa,
linh thiêng ấy. Họ Nguyễn ở Văn Quỹ, Văn Trị và Văn Phong (Hải Lăng) đã quyên góp
tiền cùng mua đất, xây dựng lại nhà thờ cho ngài tiền khai khẩn vào năm 2010 khang
trang, bề thế nhằm ghi công tổ tiên của dòng họ Nguyễn. Sự ghi nhớ được thể hiện như
sau: “Chỉ cần uống một ngụm nước ở dòng sông Ô Lâu thì ngàn năm nhớ mãi/Chỉ cần
ăn một bữa cơm của đồng ruộng Hải Văn thì muôn thữa khó quên”, đây chính là sự

nhắc nhở con cháu chớ quên nguồn cội. Lễ cúng Ngài thường vào ngày 16-17 tháng 8
Âm lịch. Ngày 16/8, các gia đình đem lễ đến cúng ngài, thăm mộ và múa lân chào
mừng. Nhân dịp này dòng họ trao học bổng khuyến học cho con cháu và kết thúc các lễ
nghi của ngày đầu tiên. Sáng ngày 17/8, dòng họ Nguyễn làm lễ cúng ngài, con cháu
phải tập trung về. Lễ cúng cũng là dịp con cháu trong dòng họ quay về gặp mặt người
thân của mình khi ly hương đến sinh sống tại các vùng khác như Huế, Đà Nẵng,
TP.HCM hay Hà Nội. Có thể nói lễ giỗ người khai khẩn được họ Nguyễn tổ chức bài
bản và qui mô, thể hiện qua việc thực hành các nghi lễ truyền thống do hội đồng bô lão
thực hiện. Họ cũng chính là người lưu truyền lại các lễ nghi cho thế hệ con cháu. Hoạt
động truyền thống này nhằm ghi công tiền nhân và giáo dục cho thế hệ sau biết được
truyền thống dòng họ và dựa vào sự đóng góp của con cháu họ Nguyễn đang sinh sống
ở làng và các nơi khác gửi về tái lập nhà thờ họ trở nên bề thế. Nghi lễ truyền thống tái
hiện nhờ vào sự hỗ trợ tài chính đến từ các gia đình họ Nguyễn (Hải Lăng) nhằm duy trì
lễ nghi văn hoá của dòng họ đảm bảo tính thiêng và quy cũ.
Các ngôi làng ở Quảng Trị đang có xu hướng phục hồi các giá trị truyền thống
mạnh mẽ dù cho đời sống xã hội nông thôn đang chuyển dịch qua đời sống đô thị. Việc
khôi phục các tín ngưỡng, nghi lễ tôn giáo của làng, dòng họ luôn đảm bảo tính truyền
thống và tính thiêng của nó bằng sự tái tạo, sáng tạo liên tục. Thay vì chỉ một không
gian thiêng cho hoạt động nghi lễ thì nay nhà thờ họ còn thêm các công năng khác, nơi
họp mặt, nơi tổ chức các buổi lễ trao thưởng vinh danh hay nơi dâng lễ cảm tạ tổ tiên
bởi những vận may đến trong cuộc đời của cá nhân nào đó trong dòng họ (Bùi Việt
Thành, 2017). Các hoạt động tại nhà thờ họ do tộc trưởng quyết định với Ban giúp lễ và
14


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 3(46)-2020

các ban bệ khác thực hiện. Nhà thờ còn là nơi tập trung các bô lão trong làng/dòng họ

tập trung bàn chuyện, là nơi gặp mặt thường xuyên nhằm duy trì hương khói cho tổ tiên.
Với người dân tại các làng nghề thủ công ở Quảng Trị thì không gian thiêng của
làng chính là “Đình làng, các loại miếu, miếu Âm hồn, nhà thờ họ”. Đặc điểm nhận biết
không gian thiêng chính là nằm ở các khu đất thiêng, yên tĩnh. Đây chính là các không
gian thiêng của làng mà người dân buộc phải có những hành động cung kính tại đây.
Đối diện với không gian thiêng người dân phải có những nghi lễ để “thế giới bên kia”
hiểu công việc mình đã và sẽ làm, chứng giám, phù trợ qua hành động thắp hương hay
dâng lễ cầu xin. Nghi lễ cũng tuỳ theo công việc của họ cầu xin, chí ít là thắp một nén
hương tỏ lòng tôn kính. Không gian thiêng trên còn là nơi tổ chức các nghi lễ tưởng nhớ
tiền nhân, người thân trong gia đình vào các dịp lễ quan trọng của dòng họ. Đây cũng là
nơi để các thành viên sinh sống nơi khác, khi chết nếu đưa về làng chôn cất và cũng là
nơi dâng lễ xin nhập làng, về với tổ tiên trước khi chôn tại các khu nghĩa địa của làng.
Không gian thiêng phụ thuộc vào tính hợp pháp thì mới có ảnh hưởng đến số đông
(Phạm Quỳnh Phương, 2010) hay con người khoác màu sắc linh thiêng cho một không
gian dựa trên những gì họ và cộng đồng đã trải nghiệm nhằm mục đích cụ thể nhất định
(dẫn lại từ Nguyễn Công Thảo, 2020). Đó là chuyện rắn thần xuất hiện ở miếu Bà ở
thôn Lam Thuỷ (Hải Vĩnh, Hải Lăng), người dân cho rằng đó là chỗ của “ngài” trú ngụ,
rắn xuất hiện là “ngài” về thăm làng. “Miếu bà”, “Miếu thờ rắn thần” trở thành một
không gian thiêng mà người dân làng nên tránh, chỉ khi có lễ cúng mới đến thắp hương,
thực hành các nghi lễ, còn lại thì không được xâm phạm không gian thiêng ấy.
Không gian thiêng còn là nơi tế lễ cầu mưa thuận gió hòa của làng, thiêng hóa là
điều cần thiết nhằm bảo vệ không gian miếu và không gian sinh thái xung quanh miếu.
Miếu làng tại làng Trung An, Hải Khê trở thành không gian thiêng, nơi người dân đến
tổ chức lễ cúng âm hồn vào rằm tháng giêng. Người dân góp sức, tiền tổ chức nghi lễ để
cầu mong mưa thuận gió hoà, là nơi để người dân tỏ lòng cảm ơn thần linh, tiền nhân đã
khai khẩn nên làng Trung An này. Đặc thù làng đi biển nên dù có bận việc đi biển thì
gia đình vẫn đến dâng các lễ vật cúng. Sau nghi lễ cúng âm hồn là đến phần hội - tổ
chức đấu vật cho thanh niên trong làng tham gia, người chiến thắng sẽ mang lễ vật về
miếu để tạ ơn. Ngoài ra không gian thiêng còn là miếu Thần Nông nơi làng Văn Trị sẽ
thực hiện các lễ cúng (14/2 AL) nhằm mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu

(miếu nằm ở làng Văn Trị). Hay kiểu không gian thiêng khác hiện diện ở vùng Hải
Lăng còn có “Nghĩa trủng đàn” nơi chôn các binh lính miền Thuận Quảng theo vua
Nguyễn Huệ đánh quân Thanh (1789) nằm bơ vơ trên đất Bắc được Quan tuần vũ
Hoàng Hữu Xứng, người Quảng Trị đã qui tập và đem về chôn tại làng Thạch Hãn, trên
mảnh đất của gia đình và lấy tên gọi “Nghĩa trủng đàn Thạch Hãn”, hiện được con cháu
họ Hoàng, làng Bích Khê và người dân làng Thạch Hãn chăm sóc (Lê Đức Dục, 2011).
Ngay Lễ Thanh minh làng Văn Quỹ cũng tổ chức rất qui củ với các nghi lễ thể
hiện qua ban chức sự nghi lễ như sau: lễ thường tổ chức từ ngày 26 - 27/2 âm lịch,
người dân trong làng đi tảo mộ theo từng khu vực, 4h chiều làm lễ Cáo (cúng) tại miếu
15


/>
Âm hồn sau đó 8h tối làm lễ Kỉnh tại đình làng. Ngày 27/2 thì làm lễ chính tại miếu Âm
hồn vào lúc 5h sáng, đến 7h thì tổ chức tiệc trà và kết thúc lễ. Lễ thanh minh làng Văn
Quỹ còn cúng lợn sống tại đàn để làng làm lễ cáo, sau đó thì được xẻ thịt làm mâm cỗ.
Năm 2013 làng tổ chức 22 mâm cỗ cúng tại miếu Âm hồn và đàn lộ thiên. Gian giữa là
chủ làng hầu tế, gian tả là cả ba họ Lê, Đỗ, Trần, gian hữu là họ Nguyễn, Ngô (Nguyễn
Văn Hiền, 2016). Tại làng Văn Trị thì ngày 14/2 âm lịch tổ chức cúng tại miếu Thần
Nông cầu cho mưa thuận gió hòa. Ngày 23/2 âm lịch thì tổ chức Lễ thanh minh, lúc 5h
sáng sẽ làm lễ chính thức tại miếu Âm hồn, trước đó ban lễ nghi phân công túc trực
hương khói từ tối trước đến sáng hôm sau. Đúng 4h30 sáng nhạc lễ cất lên cùng với văn
tế được đọc mời các “vong linh cô hồn” về dự. Lúc 5h sáng ngày 24/2 âm lịch là lúc bà
con dâng lễ cúng dường, 7h sáng tiệc trà, 8h sáng thì kết thúc lễ và bày tiệc. Lễ vật cúng
dường của làng gồm xôi, thủ lợn, có nhà lo mâm cơm đầy đủ, xôi, gà, bánh chưng –
bánh dày, áo binh – vàng bạc, trầm – hương – hoa. Kết thúc, lễ vật nhà nào mang về nhà
nấy, lúc này chỉ còn các vị chức sắc tổ chức dự tiệc tại miếu.v.v.
Theo Nguyễn Văn Hiền (2016), khi hòa bình lập lại, kinh tế còn khó khăn nên chỉ
thiết lễ hương hoa, trà bánh và trầm hương. Sau này thì đời sống khá hơn thì làm bánh
chưng, bánh dày, hoa quả, áo binh vàng bạc dâng lên làng cúng tổ. Năm 2013, đề xuất

làm mâm cỗ cúng cô hồn với sự đóng góp của toàn bộ dân trong làng, mỗi hộ đóng
30.000 nếu có điều kiện đóng thêm làng hoan hỉ nhận để cúng tế (Nguyễn Văn Hiền,
2016). Hiện nay, các hoạt động lễ nghi đã có những thay đổi cho phù hợp với các hoàn
cảnh của các làng nghề (như cứ hai năm cúng ngọt, thì năm thứ 3 cúng mặn, nhằm giảm
đóng góp cho người dân). Để hỗ trợ các hoạt động nghi lễ được diễn ra một cách thuận
lợi, người dân làng Văn Quỹ có hẵn một Ban nghi lễ được tín nhiệm bầu ra để tổ chức các
hoạt động của làng. Mỗi gian thờ đều có người phụ trách nghi lễ một cách chặt chẽ.
Người phụ trách là người hiểu lễ nghi, có vai trò, uy tín trong làng đảm nhận các vị trí
này. Lễ Thanh minh, người làng Văn Quỹ thực hiện việc tảo mộ và ngày sau làm mâm
cúng tại miếu Âm hồn (Đàn Âm hồn). Lễ cũng là dịp bà con dân làng dâng các lễ vật và
áo binh, giấy tiền vàng bạc để tổ chức cúng tế. Cứ 3 năm, làng sẽ cúng mặn (làm mâm cỗ)
và 2 năm thì cúng bánh trái. Đây là dịp người dân làng tập trung cùng thực hiện lễ thanh
minh và cũng là dịp con cháu ở xa, các vùng lân cận có thể về tham dự. Trong khi đó hoạt
động cúng ngài khai khẩn họ Lê làng Văn Quỹ thì là ngày 19/5 âm lịch hàng năm.
Nhìn vào trường hợp lễ Thanh minh làng Văn Quỹ, Văn Trị cho thấy vai trò của
người nam giới trong các hoạt động tổ chức nghi lễ. Tất cả mọi thành viên không phân
biệt nam nữ đều có thể thắp hướng cúng bái, thể hiện sự thành tâm của mình, nhưng
thực hiện nghi lễ từ chuẩn bị đến lễ chính đều do các bậc bô lão thực hiện (chỉ nam giới)
sau đó mới đến sự cúng bái của người phụ nữ. Đây chính là sự trọng lão, điều mà
Lương Hồng Quang và cs. (2011) cho rằng: “tinh thần trọng lão lấy nam giới làm nền
tảng triển khai các khuôn mẫu văn hóa, trọng nghi thức, là những nét chủ đạo của các
gia đình và họ tộc”. Vai trò người đàn ông đàn ông gắn liền với đình miếu – nơi được
xem là có tính chất dương, nơi diễn ra các hoạt động chính thức, quan phương thì
16


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 3(46)-2020


thường gắn với đàn ông, ngược lại chùa nhiều tính âm, nơi diễn ra các hoạt động phi
quan phương và gắn với phụ nữ (Lương Văn Hy và Trương Huyền Chi, 2012), làng
nghề thủ công ở Quảng Trị không là ngoại lệ.
Hoạt động lễ nghi tại các làng nghề đã có lúc trở thành gánh nặng cho nhiều hộ
gia đình. Lúc kinh tế khó khăn, cuộc sống của hộ sản xuất cũng như dân làng thiếu ổn
định và không có các điều kiện để tích luỹ cũng như cung tiến. Đặc biệt trong cộng
đồng nông thôn thì các việc ma chay, cưới hỏi, hiếu hỉ trong làng không dễ từ chối.
Điều này cũng tạo ra khó khăn bởi các hoạt động này diễn ra nhiều thì khó có tiền để
tham gia. Không có, buộc phải vay mượn để tham gia, tất cả đều bắt nguồn từ “chữ tín”
hơn nữa người trong làng cũng là bà con thân thuộc khó mà từ chối. Tại 14 làng nghề
thì người dân xem việc duy trì các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội truyền thống của làng
nghề thủ công đều quan trọng, đó là hoạt động cố kết cộng đồng, gắn bó các thành viên
trong làng. Dù trước đây có những nghiên cứu chỉ ra đời sống kinh tế hàng hoá phát
triển mạnh thì quan hệ xã hội cộng đồng truyền thống đã bị xâm phạm và phá vỡ, tình
làng nghĩa xóm, tình đoàn kết làng xóm, láng giềng, mối quan tâm tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau lại càng giảm sút rõ rệt (Đặng Cảnh Khanh, 1999). Tuy nhiên, thực tế khảo sát và
điền dã tại các làng nghề thủ công ở Quảng Trị chưa xảy ra hiện tượng này, ngược lại
tính cố kết cộng đồng lại được nâng cao.
Qua khảo sát cho thấy số lượng lễ hội và lượng người tham gia lễ hội cũng tăng lên
nhiều so với trước đây. Các hoạt động tổ chức nghi lễ nhận được sự hỗ trợ và đóng góp tiền
của, công sức của người dân, trong đó đóng góp từ hộ sản xuất tại làng nghề cũng tăng lên.
Qua dữ liệu đa số người dân đều đóng góp kinh phí để tổ chức lễ hội, nhiều ít tùy thuộc vào
khả năng của mỗi hộ. Điều mà trước đây, cuộc sống khó khăn, người dân không có khả
năng đóng góp nên lễ hội chỉ tổ chức nhỏ, gói gọn dâng hương, những bữa tiệc nhỏ. Lễ hội
của làng được tổ chức qui mô nhờ vào sự đóng góp của người dân tại làng và đang sinh
sống ở nơi khác gửi về. Qui mô của lễ nghi còn thể hiện qua số mâm cỗ, mâm cỗ càng
nhiều thì chứng tỏ lễ nghi đó rất lớn. Lễ hội thu hút người dân tại các vùng khác về tham dự
chủ yếu vào dịp lễ tết, nơi các lễ hội truyền thống được khôi phục và nhận được sự hỗ trợ
tích cực của chính quyền địa phương. Để hiểu hơn điều mà Oscar Selemink (2010) nhận
định, cuộc sống con người gắn với sức khoẻ, an toàn về mặt thể xác, sinh kế, trao quyền và

thoã mãn về mặt văn hoá/tôn giáo. Điều đó cho thấy tôn giáo đã làm cho các thương nhân
mong muốn tạo nên sự an toàn của mình qua việc tìm kiếm an toàn từ kinh tế, nó tạo nên sự
tự tin đầu tư mới, với những người phụ thuộc, đối tác kinh doanh, khách hàng; về mặt hiện
sinh chính là việc đối với vòng đời của con người và tín ngưỡng - nghi lễ tôn giáo chạm
được vào vòng đời của con người (Salemink, 2010).
3.3. Kinh tế tương hỗ văn hóa và vai trò chủ thể trong hoạt động của làng nghề
Các chủ thể chính là người có tác động đến việc khôi phục các lễ nghi tín ngưỡng,
tôn giáo để tìm kiếm an toàn kinh tế, đối diện với vòng đời con người. Có thể nói, chủ
thể tác động đến hoạt động lễ hội rất lớn. Rõ ràng người dân tại các làng nghề thủ công
ở Quảng Trị đánh giá cao các chủ thể có vai trò quan trọng trong việc tổ chức lễ hội. Họ
17


/>
có tiếng nói trong cộng đồng và có thể tập hợp được nhiều nguồn lực cùng chung tay tổ
chức lễ hội chính là đội ngũ công chức, con cháu thành đạt và các cơ sở kinh doanh, sản
xuất. Đây chính là các chủ thể hỗ trợ tích cực cho các hoạt động lễ - hội truyền thống
của các làng nghề bằng nhiều hình thức, đóng góp kinh phí, hỗ trợ công tác tổ chức và
liên kết với các thành viên của làng cùng thực hiện. Phan Thị Yến Tuyết (2014) cho
rằng không ai có thể hiểu một nền văn hoá bằng chính chủ nhân của nền văn hoá đó, kỹ
năng sống hay kinh nghiệm hình thành một cách tự nhiên hay do phân công lao động,
nên việc người dân lựa chọn các chủ thể văn hoá của mình cũng dựa trên lựa chọn duy
lý. Hành động của chủ thể đối với hoạt động thực hành văn hóa làng nghề chính là hành
động “tặng, nhận và đáp tặng” và đây hoàn toàn không phải là hành động tín dụng
(Mauss, 2011). Rõ ràng các chủ thể là các hộ sản xuất tại các làng nghề đã tặng (tài
chính) và làng nhận sự hỗ trợ đó, và chính văn hóa của làng đã đáp tặng lại các chủ thể
văn hóa truyền thống của làng để chủ thể có thể thực hành các hoạt động kinh tế cần
thiết. Người dân tại các làng nghề đánh giá cao vai trò của những người con trong làng
đang làm cán bộ công chức nhà nước. Họ có được uy tín và tạo ra sự cố kết xã hội, từ
đó các nguồn lực của làng được huy động, cũng như tạo ra sự kết nối với các thành viên

làng đang sinh sống làm việc khắp cả nước đóng góp cho lễ hội. Người cán bộ, công
chức nhà nước đã góp phần vận động người dân trên tinh thần tự nguyện nhằm phát
huy, bảo tồn các lễ hội truyền thống của làng…
Điển hình tại lễ hội chợ đình Bích La, sau phần lễ đến phần hội với các trò chơi
dân gian, thì đến phần chợ mở bán, đây là lúc các sản phẩm của các làng nghề truyền
thống được bày bán, thu hút người dân mua bán. Làm được điều này chính là nhờ vào
sự hỗ trợ của chính quyền và các doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí, công tác tổ chức được
ổn định để cho hoạt động được thu hút người dân đến tham dự. Lễ hội chợ đình Bích La
thu hút được trên 30 ngàn lượt tham dự vào những ngày đầu xuân, kết quả đó thành
công cũng chính nhờ vào các chủ thể này, tác động để lễ hội được tổ chức qui mô, thu
hút người đến tham dự. Chủ thể chính là sợi dây truyền tải văn hóa của gia đình, dòng
họ và tuân thủ các khuôn mẫu văn hóa chung của xã hội, điều này giúp cho các ý thức
được vai trò của cá nhân (các chủ thể) tuân thủ các khuôn mẫu văn hóa có sẵn, thông
qua các vai trò được giao (Lương Hồng Quang và cs., 2011), các chủ thể đã thể hiện vai
trò được giao thực hiện các hoạt động văn hóa vì gia đình, dòng họ và của làng nghề thủ
công nơi họ thuộc về. Văn hóa làng nghề nhờ vậy được tái hiện một cách đầy đủ đảm
bảo tính thiêng và tập hợp được cộng đồng tham dự, đó chính là yếu tố quan trọng của
văn hóa tại các làng nghề thủ công ở Hải Lăng, Cam Lộ, Triệu Phong.
Ở Nhật Bản, công cuộc phát triển kinh tế làng nghề thủ công có được thành công
lớn chính là nhờ vào việc đối xử đặc biệt hay tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thủ
công còn giữ được cấu trúc, giúp học tự duy trì và phát triển (Strauss, 2017). Đó là cách
dùng kinh tế để duy trì văn hoá, khiến cho làng nghề thủ công của Nhật Bản có sự phát
triển đáng được thừa nhận trên toàn thế giới bằng mô hình một làng nghề một sản phẩm
(OVOP). Dù kinh tế tác động đến quá trình phát triển của văn hoá, nhưng văn hoá vẫn
18


Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một

Số 3(46)-2020


quyết định kinh tế, bởi văn hoá giúp chúng ta không bị đánh mất đi bản sắc của mỗi nền
văn hoá riêng biệt, thứ định hình nên chúng ta (Rapaille, 2017), đấy chính vấn đề cốt lõi
cả việc các chủ thể tác động vào việc gìn giữ văn hoá bằng nhiều cách khác nhau tại
làng nghề thủ công ở Quảng Trị hiện nay.
4. Kết luận
Mối quan hệ tương hỗ của kinh tế và văn hóa hiện nay tại các làng nghề thủ công
ở Quảng Trị thực sự đang được vận hành rất tốt. Đây chính là yếu tố đảm bảo cho làng
nghề thủ công vận hành ổn định và có những bước phát triển trong sản xuất, tạo thu
nhập ổn định cho các hộ sản xuất. Văn hóa làng nghề cũng được gìn giữ và phát triển,
hay có thể nói tái lập văn hóa truyền thống một cách mạnh mẽ. Thông qua mối quan hệ
hỗ tương của kinh tế đối với văn hóa, cho ta thấy được những tương quan mạnh mẽ cần
được chú ý, đặc biệt mối quan hệ tương hỗ của kinh tế - văn hóa - các chủ thể của làng
nghề thủ công. Hơn nữa mối quan hệ hỗ tương phát triển mạnh mẽ chính là nhờ vào các
chủ thể tại các làng nghề thủ công hỗ trợ một cách tích cực, đảm bảo cho các làng nghề
thủ công ổn định sản xuất, không phải đối diện với thách thức về lao động, khi các lao
động trẻ rời đi. Có được điều này chính biến đổi, thích ứng của văn hóa làng nghề với
bối cảnh xã hội đương đại dưới sự hỗ trợ của kinh tế.
Văn hóa đóng vai trò quyết định kinh tế làng nghề thủ công là điều hết sức rõ ràng
bởi sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố văn hóa được thể hiện như tính lịch sử, giá trị
biểu tượng và các hành vi thực hành văn hóa khác, đặc biệt văn hóa định hình phát triển
kinh tế mà không đánh mất đi bản sắc riêng của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Việt Thành (2017). Vai trò dòng họ trong việc phát triển làng nghề thủ công truyền
thống tại Quảng Trị. Tạp Chí Phát Triển Khoa Học và Công Nghệ, 20(X1).
/>[2] Bùi Việt Thành và Phạm Bích Ngọc (2014). Làng nghề truyền thống Quảng Trị: Khởi
nguồn và phát triển. Làng nghề và phát triển du lịch. NXB Đại học Quốc gia TPHCM.
[3] Đặng Cảnh Khanh (1999). Các nhân tố phi kinh tế: Xã hội học về sự phát triển. NXB Khoa
học Xã hội.
[4] Lê Đức Dục (2011). Mà nay áo vải cờ đào... Báo Tuổi trẻ. />[5] Lương Hồng Quang (2010). Các tổ chức phi quan phương trong làng xã vùng châu thổ Bắc

Bộ (trường hợp hội đồng niên). Hiện đại và động thái của truyền thống Việt Nam: Những
cách tiếp cận nhân học. Tập 1. NXB Đại học Quốc gia TPHCM.
[6] Lương Hồng Quang, Nguyễn Thị Thanh Hoa và Bùi Thị Kim Phương (Eds.). (2011). Câu
chuyện làng Giang. Các khuynh hướng, giá trị và khuân mẫu trong một xã đang chuyển đổi.
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[7] Lương Văn Hy và Trương Huyền Chi (2012). Thương thảo để tái lập và sáng tạo “truyền
thống”: Tiến trình tái cấu trúc lễ hội cộng đồng tại một làng Bắc Bộ. Những thành tựu
nghiên cứu bước đầu của Khoa Nhân học. NXB Đại học Quốc gia TPHCM.

19


/>[8] Mauss, M. (2011). Luận về biếu tặng. Hình thức và lý do của sự trao đổi trong hình thức
các xã hội cổ sơ. NXB Tri thức.
[9] Nguyễn Công Thảo (2020). Tìm phố trong làng. Những chiều tâm tư của người cao tuổi.
NXB Khoa học Xã hội.
[10] Nguyễn Văn Hiền (2016). Truyền thống lễ Thanh Minh làng Văn Quỹ. Văn Quỹ Quê Tôi.
/>[11] Olivier, T. (2010). Hệ thống trao đổi và tính tương hỗ trong một xã hội làng xã: Xác định
các mạng lưới xã hội thông qua sự lưu thông tài sản vật chất và phi vật chất (Khóa học
Tam Đảo). Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO).
[12] Phạm Quỳnh Phương (2010). Những không gian thiêng: Một nghiên cứu thực địa về các di
tích thờ Trần Hưng Đạo ở Việt Nam. Hiện đại và động thái của truyền thống Việt Nam:
Những cách tiếp cận nhân học. Tập 2. NXB Đại học Quốc gia TPHCM.
[13] Phan Thị Yến Tuyết (2014). Đời sống xã hội—Kinh tế văn hoá của ngư dân và cư dân vùng
biển Nam Bộ. NXB Đại học Quốc gia TPHCM.
[14] Rapaille, C. (2017). Mật mã văn hoá. Giải mã động cơ mua bán và cách sống của con
người trên thế giới. NXB Lao động - Xã hội.
[15] Ray, L. J., & Sayer, R. A. (Eds., 1999). Culture and economy after the cultural turn.
SAGE.
[16] Salemink, O. (2010). Tìm kiếm an toàn tinh thần trong xã hội Việt Nam đương đại. Hiện

đại và động thái của truyền thống Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học (Vol. 2). NXB
Đại học Quốc gia TPHCM.
[17] Strauss, C. L. (2017). Mặt khác của mặt trăng: Khảo luận về Nhật Bản. NXB Thế giới.
[18] Tsuyoshi, K. (2016). Nhìn lại nghiên cứu làng xã ở Đông Nam Á trong bối cảnh biến đổi
nhanh: Suy ngẫm từ một ngôi làng người Mã Lai trên báo đảo Malaysia. Làng xã Việt Nam
và Đông Nam Á trong thời kì hội nhập. NXB Khoa học Xã hội.
[19] Weber, M. (2008). Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản. NXB Tri thức.

20



×