Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Vật Tư Vận tải Xi Măng Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.76 KB, 99 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là mục tiêu hành đầu, quyết định sự tồn tại
của mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp muốn tồn tại phải làm
ăn “có lãi”, nhất là những doanh nghiệp đã tiến hành Cổ phần hóa bước vào hoạt động
với tư cách là Công Ty Cổ Phần, vận hành theo cơ chế thị trường tự chịu trách nhiệm
với công việc sản xuất kinh doanh của mình. Nâng cao hiệu quả Sản xuất kinh doanh là
nhiệm vụ chủ đạo của mỗi doanh nghiệp.
Cổ phần hóa đang bước vào giai đoạn mở rộng và sẽ được thực hiện mạnh mẽ và
quyết liệt trong thời gian tới nhằm đáp ứng với lộ trình hội nhập mà cụ thể là mục tiêu
ra nhập WTO của chúng ta. Nhưng để làm tốt công vịêc đó thì vấn đề rất được quan tâm
là hoạt động của những doanh nghiệp sau Cổ phần hóa mà yếu tố được đặt lên hàng đầu
là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp đó. Làm rõ được
vấn đề hiệu quả SXKD sẽ thấy được những mặt chủ yếu đã đạt được và những tồn tại
vướng mắc cần giải quyết, rút kinh nghiệm để áp dụng vào giai đoạn sau.
Qua thời gian thực tập ở Công ty Cổ phần Vật Tư Vận Tải Xi Măng Việt Nam
sau một thời gian tìm hiểu đã nhận thấy một vấn đề nổi bật là trước đây do sức ép của
cơ chế thị trường có rất nhiều lực lượng vận tải mới thành lập, tư nhân và cả các cá nhân
có phương tiện đưa ra hoạt động. Hơn nữa, phương tiện vận tải của các ngành khác như
xây dựng, năng lượng, dịch vụ cũng được chủ phương tiện vận dụng khai thác tối đa
khai thác tối đa vào thị trường vận tải. Các doanh nghiệp cung ứng vật tư vận tải trong
đó có công ty cổ phần vật tư vận tải Xi Măng muốn tồn tại và phát triển và khẳng định
mình phải nhanh chóng thay đổi cơ chế trước hết là đổi mới công tác tổ chức và quản lý.
Thực trạng hoạt động và kết quả kinh doanh trong thời gian qua của công ty đã có nhiều
biến chuyển theo hướng tích cực khẳng định sự đúng đắn trong quyết định đổi mới,
song không vì vậy mà không có những tồn tại thiếu sót cần phát hiện và sửa đổi kịp thời
để công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn.
Là sinh viên tham gia thực tập ở công ty Công ty Cổ phần Vật Tư Vận tải Xi
Măng Việt Nam, được sự giúp đỡ của các cô chú trong phòng Thống kê – Tài chính –
Kế toán của công ty và sự hướng dẫn tận tình của TS. Đỗ Thị Ngọc Điệp, em đã chọn
đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty Cổ phần Vật Tư Vận tải Xi Măng Việt Nam” cho báo cáo tốt nghiệp của


1
mình và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp khắc phục những tồn tại của công ty, góp
phần nâng cao hiệu quả SXKD.
Ngoài mở đầu và kết luận đồ án gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng và công tác đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
Công Ty Cổ phần Vật Tư Vận Tải Xi Măng Việt Nam.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
CTCP Vật Tư Vận Tải Xi Măng Việt Nam.
Do thời gian và trình độ nhận thức có hạn, em mong được sự nhận xét góp ý và sửa chữa
để báo cáo tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Trong cơ chế thị trường, mục tiêu của hầu hết tất cả các doanh nghiệp đều nhằm đạt
được mục tiêu bao trùm và lâu dài nhất, đó là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục
tiêu này mọi doanh nghiệp đều phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh,
phương án kinh doanh, phải kế hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời
tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả.
Trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện, các nhà quản lý doanh nghiệp phải
luôn chú ý tới tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt động sản xuất
kinh doanh của toàn doanh nghiệp cũng như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong
doanh nghiệp thì doanh nghiệp không thể không xem xét hiệu quả kinh tế của các hoạt
động sản xuất kinh doanh đó. Để hiểu được hiệu quả kinh tế cuả các hoạt động sản xuất
kinh doanh( hiệu quả sản xuất kinh doanh ), trước tiên ta phải tìm hiểu xem hiệu quả
kinh tế nói chung là gì?
Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả
kinh tế: như P.Samerclson, W.Nordhanb, Manfredkuln, Wohe và Doring...Song có một

quan điểm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý sử dụng là: Hiệu
quả kinh tế của một hiện tượng ( hoặc một quá trình ) kinh tế là phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định. Đây là khái niệm
tương đối đầy đủ phản ánh được hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ các quan điểm trên về hiệu quả kinh tế ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả
kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như sau: Hiệu quả sản
xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế
theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác nguồn lực của doanh nghiệp ( lao động, máy
móc, thiết bị, vốn và các yếu tố khác ) trong quá trình sản xuất nhằm đạt được mục tiêu
mà doanh nghiệp đã đề ra là thu được lợi ích nhiều hơn.
Hiệu quả kinh tế là loại chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả
sản xuất kinh doanh với chi phí cho sản xuất kinh doanh hoặc ngược lại. Bởi lẽ, một khi
so sánh về mặt thương số nó vừa nghiên cứu mối quan hệ giữa kết quả với chi phí đồng
3
thời xem xét hiện tượng nghiên cứu dưới trạng thái động. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất
còn được gọi là các chỉ tiêu năng suất.
1.1.2. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
- Xét về mặt định lượng: Hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện mối quan hệ tương
quan giữa kết quả thu được và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện được kết quả
theo hướng tăng thu giảm chi. Phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh thực chất là mối
quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để sử dụng các yếu tố đầu vào
và có tính đến các mục tiêu của doanh nghiệp. Xét theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả
sản xuất kinh doanh đồng nghĩa với lợi nhuận.
Theo chiều thuận về mặt tuyệt đối thì hiệu quả sản xuất kinh doanh được tính
như sau :
H = KQ - CP
H: Là hiệu quả sản xuất kinh doanh
KQ : Kết quả đạt được
CP: Chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào
Còn so sánh về mặt tương đối thì:

H = KQ/CP
Do đó để tính được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ta phải tính
kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Nếu xét mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả, thì kết
quả là cơ sở để ta tính hiệu quả và hai đại lượng này tỷ lệ thuận với nhau. Kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường là đại lượng có khả năng cân, đo, đong, đếm
được như số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu bán hàng, thị phần, lợi nhuận...Như vậy kết
quả sản xuất kinh doanh thường là mục tiêu của doanh nghiệp. Nếu đứng trên góc độ
từng yếu tố riêng lẻ để xem xét, thì hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện trình độ, khả
năng khai thác các yếu tố trong quá trình sản xuất, nó thể hiện ảnh hưởng của từng yếu
tố đó đến kết quả cuối cùng của sản xuất kinh doanh.
- Về mặt định tính : hiệu quả sản xuất kinh doanh thể hiện trình độ, khả năng tổ
chức sản xuất và quản lý của doanh nghiệp. Nếu tổ chức sản xuất tốt và khả năng quản
lý cao thì doanh nghiệp có thể đảm bảo mua được các yếu tố đầu vào đủ về số lượng,
chất lượng tốt, đúng thời gian và giá cả hợp lý. Đồng thời doanh nghiệp có thể sản xuất
4
sản phẩm chất lượng cao với giá thành rẻ, đưa ra tiêu thụ trên thị trường một cách nhanh
nhất với chi phí thấp nhất.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được gắn liền với việc thực
hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. Mục tiêu kinh doanh là trạng thái của
doanh nghiệp được xác định trong tương lai ngắn hạn và dài hạn. Trước mỗi kỳ kinh
doanh, các doanh nghiệp đều phải đặt ra cho mình các mục tiêu trong thời gian trước
mắt và lâu dài, từ đó lập ra các chiến lược, kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó. Không
thể nói một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi doanh nghiệp đó không
thực hiện được các mục tiêu đã đề ra. Do vậy để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một hệ thống các mục tiêu ngắn hạn và dài
hạn, phù hợp với tình hình và khả năng của doanh nghiệp đặt trong mối quan hệ với xu
hướng biến động của thị trường. Khi đánh giá về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
phải gắn chặt nó trong mối quan hệ với hiệu quả kinh tế xã hội. Đó là việc xem xét các
chỉ tiêu: Giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ văn hoá, nâng cao
mức sống của người lao động, đảm bảo vệ sinh môi trường...dành được hiệu quả cao

cho doanh nghiệp là chưa đủ mà còn phải thực hiện được mục tiêu hiệu quả của cả
ngành, cả địa phương và toàn xã hội.
1.1.3. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh
doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, tiền,
nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Bản chất của hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm
thời gian.
Các Mác đã cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc
biệt. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quản lý đó. Con người tạo ra của
cải vật chất bằng sức lao động. Lao động được đo lường bằng thời gian. Với một mục
tiêu nhất định con người phải thực hiện trong một thời gian lao động ít nhất hay nói một
cách khác thì trong một thời gian lao động nhất định kết quả đạt được phải cao nhất.
Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả
tối đa với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất). Điều này có nghĩa là
5
với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết quả tối đa hoặc ngược lại, đạt
kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất
kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý luận cũng như thực tiễn đã tồn tại sự
nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, khi
đó đã coi kết quả là mục tiêu mục đích và coi hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp
luận giải quyết vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả và
rõ ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là
quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh
nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp có thể là

những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại,
doanh thu, lợi nhuận… và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng
hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm… Như thế
kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về
hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và
chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản kinh doanh. Trong lý thuyết và
thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định
bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để xác định
hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn là giữa "đầu vào" và "đầu ra" không
có cùng một đơn vị đo lường, còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại
lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là hiệu quả
sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả
sản xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được ở
trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có
thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ đó
có thể có các giải pháp nhằm đạt mục tiêu của doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi
phí về nhân tài, vật lực và tiền vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ
6
tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng
chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
1.1.4. Đặc điểm của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính xác.
Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức tạp và khó đánh giá chính
xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh đã cho thấy hiệu quả sản
xuất kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt
được từ hoạt động sản xuất (doanh nghiệp sản xuất) hoặc kinh doanh (doanh nghiệp
thương mại, dịch vụ…) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
đó. Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít khi các
doanh nghiệp xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp thu được ở một

thời điểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong các doanh nghiệp thường
có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
không phải chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm, dịch vụ) mà còn phải bán được các kết quả đó
và quá trình bán hàng và quá trình tạo ra kết quả luôn không trùng nhau. Một doanh
nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể có nhiều sản phẩm được sản xuất ra nhưng lại tiêu
thụ được rất ít, như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt được kết quả (mục tiêu). Nếu
xét trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của sản xuất kinh doanh không phải là đại
lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh
doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị (đồng tiền với những thay đổi của nó
trên thị trường). Mặt khác, chính hoạt động của con người là luôn nhằm đến và đạt đến
kết quả nhất định, song không phải lúc nào con người cũng nắm chắc được, biết hết
được các kết quả do chính hành động của họ. Như vậy, phạm trù kết quả là một phạm
trù phức tạp mà không phải lúc nào chúng ta cũng đánh giá đầy đủ được nó.
Việc xác định đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. Nếu xét trân phương diện lý
thuyết thì chi phí tính bằng đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng tài nguyên, chi phí "thực"
để tạo ra kết quả của doanh nghiệp song điều đó không thể xác định được trong thực
tiễn. Ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê, kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị
nguyên nhiên vật liệu mỗi loại cũng không phải lúc nào cũng tiến hành được. Trong khi
đó, ở mọi doanh nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào không chỉ liên quan đến
7
một quá trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến nhiều quá trình kinh doanh
khác nhau. Điều này dẫn tới việc xác định hao phí một cách chính xác vào một quá trình
kinh doanh cụ thể gặp nhiều khó khăn. Nếu xét trên phương diện giá trị, chi phí kinh
doanh thường được hiểu là giá trị của toàn bộ tài nguyên đã sử dụng trong kinh doanh.
Bản thân việc sử dụng các yếu tố đầu vào dưới dạng chi phí sử dụng tài nguyên đã là
không xác định được trong tính toán bằng tiền, độ phức tạp và thiếu chính xác còn lớn
hơn nhiều vì nó hàm chứa rất nhiều yếu tố chủ quan của con người (chi phí là hi phí tính
toán). Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh con người ngày càng đưa
chi phí tính toán tiếp cận đến gần chi phí kinh tế hơn. Hơn nữa, không chỉ những chi phí
trực tiếp trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới đem lại kết quả cho doanh

nghiệp, mà còn rất nhiều chi phí cho hoạt động xã hội như: Giáo dục, cải tạo môi
trường, sức khoẻ… có tác động không nhỏ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chi phí này rất khó tính toán được trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt
khác, trong thực tế khi ra các quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh
nghiệp thường hướng vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi phí
biên cá nhân (MPC) thấp hơn chi phí biên xã hội (MSC). Điều này dẫn đến sự tách biệt
giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội. Để rút ngắn sự tách biệt này, các biện pháp can
thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết. Cũng cần thấy rằng khi doanh nghiệp
ra quyết định sản xuất kinh doanh theo hướng giảm chi phí biên cá nhân so với chi phí
biên xã hội sẽ tạo ra ảnh hưởng ngoại ứng đối với các doanh nghiệp sản xuất khác cũng
như đối với người tiêu dùng và trong nhiều trường hợp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
bản thân doanh nghiệp với tư cách là một thành viên trong đó. Nhiều doanh nghiệp cố
tình giảm thiểu chi phí cho việc xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường và sự ô nhiễm
ngày một tăng ảnh hưởng đến cả khu vực rộng lớn và cuối cùng dẫn đến việc đóng cửa
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các biện pháp pháp luật. Như thế kết quả
và hiệu quả đạt được trước mắt của doanh nghiệp đã dẫn đến không có hiệu quả và thậm
chí phi hiệu quả kinh tế nếu xét trong thời gian dài.
8
1.1.5. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải đối
đầu với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Có rất nhiều
doanh nghiệp đã trụ vững và phát triển đi lên nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều
doanh nghiệp “ vẫn đang loay hoay chưa tìm ra lối thoát ” và nhiều doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ đã phải đi đến phá sản, giải thể. Vì vậy, để phát triển được trong cơ chế thị
trường buộc các doanh nghiệp phải không ngừng tìm ra những biện pháp phù hợp để
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
a. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả - điều kiện sống còn của các doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường các chủ thể thường cạnh tranh với nhau rất gay gắt để đảm
bảo cho sự sinh tồn của mình, vì thế đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn luôn linh hoạt
để tìm hướng đi riêng cho mình. Có những doanh nghiệp đi lên bằng việc tìm mọi cách

triệt hạ các đối thủ, trốn lậu thuế, làm ăn phi pháp...Những doanh nghiệp này thường chỉ
tồn tại trong thời gian ngắn, bởi vì xét trên phương diện đạo đức họ đã vi phạm các
nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh mà ngày nay luật chơi công bằng luôn được các
doanh nghiệp ưa thích. Trong thị trường ngày nay, các doanh nghiệp thường phải tìm ra
cách đi riêng cho mình, nhưng tất cả họ đều phải trả lời những câu hỏi chung nhất của
thị trường, đó là sản xuất cho ai? sản xuất ra cái gì? và sản xuất như thế nào? Tựu chung
lại, điểm mấu chốt mà các doanh nghiệp phải giải quyết là tính hiệu quả trong sản xuất
kinh doanh của họ. Quá trình sản xuất các hoạt động dịch vụ kinh doanh đều là những
vòng quay liên hồi phục vụ cho một vòng đời sản phẩm. Doanh nghiệp thường mong
muốn vòng đời sản phẩm ngắn lại, quy mô mở rộng ra, giai đoạn tăng trưởng và phát
triển sản phẩm được kéo dài thì đòi hỏi mỗi quyết định kinh doanh phải đúng đắn và
mang tính hiệu quả cao. Qua đó cho thấy bất kì một doanh nghiệp nào hoạt động
không có hiệu quả trong cơ chế thị trường tức là tự nhấn mình chết chìm trong '' vòng
xoáy của các luồng cạnh tranh ''.
Sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp hiện nay đó chính là việc đi giải quyết
bài toán mang tính sống còn, đó là sản xuất kinh doanh có mang lại hiệu quả?. Nếu như
trước kia, việc đánh giá hiệu quả của các doanh nghiệp chỉ dựa vào khả năng hoàn thành
kế hoạch các chỉ tiêu Nhà nước giao cho, thì ngày nay các doanh nghiệp thường phải tự
bươn trải để tìm kiếm và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Muốn vậy, trước tiên mỗi
9
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất
lượng sản phẩm giảm chi phí, giá thành, nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp
mình ...
b. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh và sự tiến
bộ trong kinh doanh.
Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày
càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc liệt hơn. Sự cạnh
tranh lúc này không phải là các mặt hàng mà cạnh tranh cả chất lượng, giá cả… Trong
khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm
cho doanh nghiệp mạnh lên nhưng cũng có thể bóp chết doanh nghiệp trên thị trường.

Do vậy, để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh
tranh trên thị trường. Để được điều này thì các doanh nghiệp phải có hàng hóa, dịch vụ
có chất lượng tốt, giá cả hợp lý.
Mặt khác hiệu quả sản xuất kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng
khối lượng hàng hóa bán, chất lượng không ngừng được hoàn thiện nâng cao… Như
vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả, chính là hạt nhân cơ bản
của thắng lợi trong cạnh tranh. Và các dạng cạnh tranh nhau tức là không ngừng nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh là con đường của doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của mình.
c. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là công cụ hữu hiệu của nhà quản trị.
Mục tiêu bao trùm và lâu dài của quá trình kinh doanh là tạo ra lợi nhuận và tối đa
hoá lợi nhuận trên cơ sở các nguồn lực sẵn có. Để đạt được mục tiêu này, quản trị doanh
nghiệp có nhiều phương thức khác nhau, trong đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh là công cụ hữu hiệu để nhà quản trị thực hiện chức năng cuả mình. Việc xem xét
và tính toán hiệu quả kinh doanh không chỉ cho biết sản xuất đạt được ở trình độ nào mà
còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các yếu tố ảnh hưởng ( những yếu tố then
chốt và những yếu tố phụ...) và từ đó đưa ra biện pháp thích hợp trên cả phương diện
tăng kết quả và giảm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bản chất của
phạm trù hiệu quả đã chỉ rõ trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất: Trình độ lợi dụng
các nguồn lực càng cao, doanh nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả trong cùng một
nguồn lực đầu vào hoặc tốc độ tăng kết quả lớn hơn tốc độ tăng chi phí sử dụng các
10
nguồn lực đầu vào. Như vậy, thông qua xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh, các nhà
quản trị có thể kiểm soát được công việc kinh doanh của doanh nghiệp mình bằng việc
so sánh, đánh giá, phân tích kinh tế nhằm tìm ra các giải pháp tối ưu, đưa ra các quyết
định kinh doanh đúng đắn để đạt được mục tiêu bao trùm cuối cùng là lợi nhuận.
Tóm lại, qua tất cả các vấn đề trên cho thấy rằng sản xuất kinh doanh có hiệu quả là
cần thiết, là mục tiêu kinh tế tổng hợp cần đạt được trong mỗi kỳ kinh doanh của bất kỳ
doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường.
1.1.6. Phân loại hiệu quả sản xuất

Đứng trên các góc độ, các phương diện nhìn nhận khác nhau, người ta lại có các
cách hiểu khác nhau về hiệu quả. Nhìn chung có 4 cách phân loại hiệu quả sau:
a. Hiệu quả của chi phí tổng hợp và hiệu quả của chi phí bộ phận.
Hình thành cách phân loại này dựa trên cơ sở coi việc thực hiện một nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải sử dụng tổng hợp nhiều yếu tố chi phí. Đó là chi
phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh nghiệp. Mỗi yếu tố chi phí đó đều là một bộ phận cấu thành nên chi
phí tổng hợp. Hiệu quả của chi phí tổng hợp là biểu hiện tương quan giữa kết quả thu
được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện kết quả đó.
Hiệu quả của chi phí bộ phận thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và
từng chi phí bộ phận cần thiết để thực hiện kết quả đó.
Giữa hiệu quả chi phí tổng hợp và hiệu quả chi phí bộ phận có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Nếu như hiệu quả của chi phí tổng hợp thể hiện hiệu quả sản xuất kinh
doanh của tổng hợp tất cả các yếu tố trong hệ thống sản xuất kinh doanh thì hiệu quả
của chi phí bộ phận thể hiện sự ảnh hưởng của từng yếu tố sản xuất đến hiệu quả toàn
bộ hệ thống sản xuất kinh doanh đó.
Cách phân loại này cho các nhà quản lý có thể thấy rõ được hiệu quả tổng hợp của
toàn bộ hệ thống và hiệu quả hoạt động của từng yếu tố chi phí. Từ đó cho phép các nhà
quản lý có thể xác định được những khâu, những bộ phận còn yếu để kịp thời có biện
pháp khắc phục, cũng như những khâu, những bộ phận mạnh để tăng cường, nhằm nâng
cao hiệu quả của từng yếu tố cũng như hiệu quả của tổng hợp cả hệ thống.
b. Hiệu quả cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân.
11
Theo phạm vi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta chia làm hai loại:
hiệu quả cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mà biểu hiện tập trung nhất của nó là lợi nhuận.
Hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ bản, nó chính là sản phẩm thặng dư, thu nhập quốc dân hay tổng thu nhập mà đất
nước thu được trong mỗi kỳ kinh doanh so với lượng vốn sản xuất, lao động xã hội và

tài nguyên đã hao phí.
Do đó phạm vi xét hiệu quả kinh tế quốc dân là rộng lớn hơn và bao trùm cả phạm
vi xét hiệu quả kinh tế cá biệt. Hiệu quả cá biệt là một bộ phận cấu thành nên hiệu quả
kinh tế quốc dân là tổng hợp của hiệu quả sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Cơ sở của cách phân loại này là coi doanh nghiệp là một tế
bào, một bộ phận của nền kinh tế và tổng giá trị thặng dư của toàn bộ nền kinh tế, là
tổng hợp giá trị thặng dư của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Sự nỗ lực nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp luật cũng
đồng thời làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế.
c. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh.
Căn cứ vào phương pháp tính toán và việc áp dụng các chỉ tiêu hiệu quả, người ta
chia hiệu quả sản xuất kinh doanh thành hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh.
Hiệu quả tuyệt đối thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra
để thực hiện kết quả đó. Về mặt lượng, hiệu quả này thể hiện ở các chỉ tiêu: lợi nhuận,
năng suất lao động, thời gian hoàn vốn...
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối
hoặc so sánh tương quan giữa các đại lượng thể hiện chi phí hay kết quả của các phương
án. Chỉ tiêu hiệu quả so sánh dùng để đánh giá mức độ hiệu quả của từng phương án từ
đó chọn ra phương án có hiệu quả tối ưu nhất.
d. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị-xã hội
Cách phân loại này căn cứ vào tính chất của kết quả sản xuất kinh doanh mang lại.
Doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh mà mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn chi phí bỏ ra
thì doanh nghiệp này đạt được hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là mục tiêu hàng đầu
của hầu hết các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh và nó được thể hiện tập
12
trung nhất trong chỉ tiêu lợi nhuận. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, trong quá trình sản xuất
kinh doanh, khi mà doanh nghiệp mang lại lợi ích cho ngành, cho địa phương, cho toàn
xã hội nhiều hơn những chi phí mà xã hội phải gánh chịu từ họ thì doanh nghiệp đó đạt
được hiệu quả chính trị- xã hội. Hiệu quả chính trị - xã hội thể hiện ở việc doanh nghiệp
tạo ra nhiều công ăn việc làm, tạo điều kiện làm tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho

người lao động, thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế, chính trị mà đảng và Nhà nước đã
đề ra.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phần lớn các doanh nghiệp do chạy
theo lợi nhuận đã coi nhẹ hiệu quả chính trị - xã hội. Do đó để đảm bảo nền kinh tế phát
triển ổn định, bền vững thì Nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải cân đối vai trò
của hai loại hiệu quả này. Điều đó giải thích tại sao cần có sự tồn tại của các doanh
nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp công ích.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
Để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt hay không tốt thì doanh nghiệp đều
chịu ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân tố. Các nhân tố này có ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và luôn là đối tượng
nghiên cứu các chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Doanh nghiệp kinh
doanh vận tải cũng như rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề khác nhau
của nền kinh tế quốc dân cũng đều chịu ảnh hưởng của những nhân tố chính sau:
1.2.1. Nhóm nhân tố bên trong
a. Nguồn nhân lực.
Trong công cuộc khoa học kỹ thuật ngày nay, người ta nói nhiều đến thiết bị, máy
móc đó là lực lượng lao động trực tiếp. Vai trò của con người trong lao động ngày càng
lu mờ đi so với máy móc thiết bị, nhưng có một điều mà không một ai có thể phủ nhận
được là sức sáng tạo để tạo ra và sửa chữa những máy móc thiết bị hiện đại đó lại chính
là con người.
Máy móc, trang thiết bị càng tối tân, hiện đại bao nhiêu mà không biết sử dụng thì
thiệt hại gây ra càng lớn. Người ta có thể dùng nhiều tiền để mua được các máy móc,
trang thiết bị rất hiện đại nhưng sẽ phải mất nhiều thời gian để đào tạo được những con
người đủ giỏi để điều khiển chúng. Sự phù hợp giữa trình độ lao động và trình độ công
nghệ đang là vấn đề được quan tâm ở hầu hết các quốc gia. Với một nền kinh tế đang
13
phát triển như nước ta hiện nay thì việc áp dụng khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải phù hợp
với trình độ lao động, với hoàn cảnh đất nước. Dân số nước ta đứng hàng thứ 13 trên
thế giới mà lại là dân số trẻ nên lực lượng lao động được coi là một thế mạnh, một trong

những tâm điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Lao động là một trong các yếu tố đầu vào trọng tâm của doanh nghiệp, nó tham gia
vào hầu hết các công đoạn của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Lao động sử dụng tư liệu lao động tác động lên đối tượng lao động, biến chúng
thành của cải vật chất, nếu không có lao động thì quá trình sản xuất sẽ bị ngừng trệ. Tuy
nhiên, muốn cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao thì cần phải có một đội ngũ đủ về
số lượng, tốt về chất lượng, phù hợp về giới tính và lứa tuổi, đồng thời phân giao đúng
người, đúng việc, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các bộ phận và các
cá nhân; bảo đảm mọi người đều có việc làm, mọi khâu, mọi bộ phận đều có người phụ
trách và có sự ăn khớp, đồng bộ trong từng đơn vị và trên toàn doanh nghiệp. Điều đó
chính là cơ sở để quá trình sản xuất được tiến hành nhịp nhàng, liên tục, là cơ sở để
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong một doanh nghiệp, nếu tạo ra được bầu không khí hoà hợp, cấp trên quan tâm
đến cấp dưới, ban lãnh đạo tạo ra được sự tin cậy yêu mến của người lao động thì đó là
liều thuốc vô cùng quý giá kích thích người lao động hăng say làm việc. Đây cũng là
một trong những giải pháp được nhiều doanh nghiệp sử dụng và nó góp phần tạo ra văn
hoá công ty.
b. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, ngày nay một trong
những vấn đề mà các doanh nghiệp phải giải quyết là phải xác định chí0nh xác nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh của mình. Nếu như trước kia trong thời kỳ bao cấp, nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ là hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch mà Nhà
nước giao cho thì ngày nay các doanh nghiệp thường phải lăn lộn trên thị trường để trả
lời những câu hỏi như: sản suất cho ai? sản xuất cái gì? sản suất như thế nào? Nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng được xác định chính xác( từ phân tích yếu
tố nội tại và khách quan ), thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng lớn và do đó
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng được nâng cao.
14
c. Nguồn vốn

Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là một yếu tố quan trọng quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nó tham gia vào quá trình sản xuất
dưới dạng tài sản cố định, tài sản lưu động, tài sản tài chính. Một doanh nghiệp có
nguồn vốn lớn và một cơ cấu hợp lý không những đảm bảo cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh diễn ra liên tục mà còn có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản
xuất kinh doanh nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Một cơ cấu vốn hợp
lý là phải cân đối giữa tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản tài chính. Nếu đầu tư
nhiều cho tài sản cố định mà không chú ý đến tài sản lưu động sẽ làm gián đoạn quá
trình sản xuất và làm lãng phí năng lực sản xuất của tài sản cố định. Nếu đầu tư cân đối
giữa tài sản cố định và tài sản lưu động nhưng không chú ý dự trữ tài chính một cách
hợp lý thì doanh nghiệp sẽ kém nhanh nhậy và thụ động trước các tình huống bất ngờ
phát sinh, dễ bỏ mất cơ hội, giảm uy tín. Kể cả khi phân bổ vốn một cách cân đối hợp lý
mà khả năng quản lý vốn không cao dễ dẫn đến tình trạng bị chiếm dụng vốn và thất
thoát vốn. Như vậy, nguồn vốn với việc sử dụng và quản lý sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
d. Trình độ khoa học công nghệ của doanh nghiệp
Ngày nay, việc áp dụng các thành tựu nghiên cứu khoa học vào sản xuất kinh
doanh đang trở thành một trào lưu, một yêu cầu mang tính sống còn của các doanh
nghiệp trên thương trường cạnh tranh. Với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, các doanh
nghiệp sẽ nâng cao được trình độ khai thác các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
kinh doanh, từ đó tăng được khối lượng sản phẩm bán ra, tăng doanh thu, giảm chi phí
giá thành dẫn đến tăng tổng lợi nhuận. Đồng thời, việc áp dụng tiến bộ khoa học công
nghệ sẽ giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu của thị trường, góp
phần mở rộng thị trường, nâng cao uy tín và vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Như
vậy, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ chính là một điều kiện quan trọng để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
e. Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp
15
Qua thực tiễn ở các nước đang phát triển cho thấy, hiệu quả sản xuất kinh doanh ở
các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào trình

độ tổ chức quản lý của họ. Trình độ tổ chức, quản lý cao của một doanh nghiệp được
thể hiện ở chỗ doanh nghiệp biết tạo lập được một cơ cấu tổ chức quản lý với tỷ lệ hợp
lý, cơ cấu bộ máy gọn nhẹ, linh hoạt; bố trí đúng người, đúng việc; vận dụng hiệu quả
các phương pháp như: hành chính kinh tế, giáo dục tâm lý… trong quản lý đảm bảo cho
quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, nhịp nhàng, cân đối. Tổ chức tốt quá trình sản
xuất kinh doanh sẽ góp phần nâng cao doanh số sản lượng bán ra, giảm thiểu được các
khoản chi phí không cần thiết từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanhcủa
toàn doanh nghiệp.
1.2.2. Nhóm nhân tố bên ngoài
a . Nhóm nhân tố vi mô
- Khách hàng:
Khách hàng là người tiêu dùng các sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Khách
hàng với tất cả các yếu tố đi kèm: Khả năng thanh toán, động cơ mua sắm, thị hiếu tiêu
dùng…, chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Với mỗi doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh, việc xác định khu vực tiêu thụ, sở thích, thị hiếu, tâm
lý… của khách hàng là yếu tố tối cần thiết.
Nếu trong thời kỳ bao cấp, khách hàng phải đặt chỗ, chen lấn, xô đẩy để mua được
hàng thì ngày nay các nhà kinh doanh luôn phải trả lời câu hỏi: làm thế nào để làm vừa
lòng khách hàng nhất? Trong mối quan hệ với khách hàng, để có thể thu được nhiều lợi
ích hơn từ phải khách hàng, có nhiều khách hàng hơn, doanh nghiệp phải tiến hành
nghiên cứu kỹ về quy mô khách hàng, kết cấu khách hàng, quy mô nhu cầu, động cơ
mua bán, thị hiếu của khách hàng… từ đó đưa ra được chiến lược kinh doanh hợp lý,
hạn chế được việc gây sức ép từ phía khách hàng.
- Đối thủ cạnh tranh
Ngày nay, môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt.
Các doanh nghiệp không chỉ phải quan tâm đến khả năng, tiềm năng của doanh nghiệp
mình mà còn phải quan tâm đến các đổi thủ cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh cũng có
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Số lượng các đối
thủ cạnh tranh và quy mô sản xuất kinh doanh của họ có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng
16

cung cấp hàng hoá ra thị trường của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng có nhiều đối thủ
cạnh tranh mạnh, có vị thế cạnh tranh lớn thì cường độ cạnh tranh trên thị trường mà
doanh nghiệp tham gia sẽ càng lớn do đó sẽ tác động làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Để dành thắng lợi trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải biết
phân tích, phân loại đối thủ cạnh tranh ( đối thủ cạnh tranh trực tiếp, gián tiếp, đối thủ
cạnh tranh chủ yếu, đối thủ cạnh tranh tiềm năng…), từ đó thấy được điểm mạnh, điểm
yếu của họ so với doanh nghiệp mình và đưa ra những đối sách kinh doanh hợp lý cho
từng loại đối thủ cạnh tranh, thâm chí đến từng đối thủ cạnh tranh một.
- Các nhà cung cấp yếu tố đầu vào:
Các nhà cung cấp yếu tố đầu vào cũng ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp quan hệ với các nhà cung cấp trong việc
đáp ứng các yếu tố đầu vào của sản xuất. Một mối quan hệ tốt với nhà cung cấp sẽ giúp
được doanh nghiệp có được yếu tố đầu vào đúng và đủ về chất lượng, số lượng, giá cả
hợp lý, tiến độ đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, tiết kiệm. Để
làm được điều đó, các doanh nghiệp nên tìm cách dành thế chủ động trong mối quan hệ
với họ. Muốn vậy, doanh nghiệp nên tiến hành đa dạng hoá các nhà cung cấp, hạn chế
tình trạng có nhà cung cấp độc quyền, sử dụng các biện pháp marketing, khéo ràng buộc
các nhà cung cấp với doanh nghiệp một cách lâu dài, ổn định.
- Sản phẩm thay thế:
Trong cơ chế thị trường, sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một đòi hỏi tất yếu
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú và cao cấp hơn của người tiêu
dùng. Vì vậy, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm
và phân tích những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của doanh nghiệp trong
nhu cầu của người tiêu dùng. Để giảm được sức ép từ sản phẩm thay thế, doanh nghiệp
sẽ phải không ngừng cải tiến hoàn thiện sản phẩm của mình để đáp ứng nhu cầu của thị
trường một cách tốt nhất, nhanh nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư
đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, hoàn thiện hệ thống
dịch vụ đi kèm… tạo ra sự khác biệt giữa sản phẩm của mình và sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh cũng như các ưu điểm so với sản phẩm thay thế.
b. Nhóm nhân tố vĩ mô

- Địa lý khí hậu
17
Các yếu tố địa lý khí hậu có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp được đặt ở vị trí có điều kiện tự
nhiên thuận lợi như : có thời tiết phù hợp, có vị trí địa lý thuận tiện... sẽ giúp doanh
nghiệp giảm bớt được chi phí sản xuất kinh doanh, tăng được tổng lợi nhuận.
- Môi trường kinh tế
Thực trạng nền kinh tế của đất nước luôn có ảnh hưởng trực tiếp, tích cực hoặc tiêu
cực tới sự phát triển cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt
động trong nền kinh tế đó. Một nền kinh tế mà có được nhiều điều kiện thuận lợi cho
sản xuất kinh doanh ( tốc độ phát triển cao, ổn định…) thì các doanh nghiệp hoạt động
trong nó sẽ có điều kiện tốt hơn để sử dụng được tối ưu các nguồn lực đầu vào sản xuất
ra sản phẩm dịch vụ, do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng
được nâng cao.
Bên cạnh đó, môi trường kinh tế quốc tế cũng tác động không nhỏ tới hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
xuất nhập khẩu. Chính sách mở cửa của các quốc gia có ảnh hưởng lớn tới hành vi của
doanh nghiệp. Sự thay đổi về quan điểm chính trị này tạo ra cơ hội cũng như thách thức
cho các doanh nghiệp để hoà nhập vào thị trường khu vực cũng như thế giới. Các doanh
nghiệp sẽ phải cạnh tranh với nhiều đối thủ cạnh tranh hơn nhưng cũng có điều kiện để
mở rộng thị trường hơn. Trong điều kiện như vậy, để đảm bảo vẫn nâng cao được hiệu
quả sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện mình và nhanh
chóng đưa ra sách lược kinh doanh phù hợp.
- Các chính sách của Nhà nước
Một hành lang pháp lý thông thoáng, đầy đủ sẽ tạo ra sân chơi công bằng cho các
doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp sẽ phải dựa trên cơ sở của pháp luật mà tìm cho mình
một hướng đi đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất mà không vi phạm pháp luật.
- Yếu tố văn hoá - xã hội
Doanh nghiệp cũng chính là một đơn vị cấu thành nên tổng thể xã hội nơi nó hoạt
động, do đó môi trường văn hoá - xã hội cũng sẽ tác động tới hiệu quả hoạt động của

doanh nghiệp. Trong mỗi một cộng đồng dân cư khác nhau thì sẽ có một tập quán và
thói quen tiêu dùng khác nhau, điều đó chính là một phần tạo ra sự khác biệt về văn hoá
- xã hội giữa các cộng đồng. Phương châm kinh doanh ngày nay là “ bán những gì mà
18
thị trường cần chức không phải là bán những gì mà ta có ”. Do đó, để có thể thành công
trên thương trường, các doanh nghiệp sẽ phải tìm hiểu rõ thị trường của doanh nghiệp từ
đó xác định được thị trường cần loại sản phẩm nào và phương thức cung cấp như thế
nào là hiệu quả nhất.
Trên thực tế đã có những kinh nghiệm rất đắt giá từ việc không coi trọng yếu tố môi
trường văn hoá.
Tóm lại, qua phân tích trên ta thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp luôn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố cả nhân tố bên trong lẫn nhân tố bên
ngoài. Do đó, để đạt được mục tiêu kinh doanh một cách tốt nhất đòi hỏi các doanh
nghiệp phải nghiên cứu kỹ chúng và vận dụng một cách linh hoạt, có hiệu quả chúng
vào điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp mình.
1.3. Nguyên tắc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đo lường kết quả và chi phí cho sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tính hiệu quả
Muốn tính được chỉ tiêu hiệu quả kinh trước hết cần xác định được các chỉ tiêu đo
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Số lượng chỉ tiêu hiệu quả ở
mỗi dạng tùy thuộc vào số chỉ tiêu kết quả và số chỉ tiêu chi phí thu thập được. Việc lựa
chọn chỉ tiêu biểu hiện kết quả và chi phí SXKD để tính hiệu quả cần đảm bảo nguyên
tắc sau:
- Hệ thống chỉ tiêu phải có tính hướng đích: Phục vụ tốt cho yêu cầu của công tác
quản trị sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó phải đáp ứng tốt nhất cho người ra
quyết định nắm bắt được thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. So sánh các
chỉ tiêu đó với đối thủ cạnh tranh để biết được tọa độ doanh nghiệp mình trên thị trường
trong và ngoài nước để có chiến lược kinh doanh hợp lý.
- Phải có tính thực tiễn: Hệ thống chỉ tiêu có thể thu thập được từ hệ thống hạch
toán mà đơn vị đã và đang áp dụng, hoặc có thể sẽ được tổ chức ghi chép thông tin
trong tương lai gần.

- Hệ thống chỉ tiêu phải phù hợp với khả năng thanh toán của đa phần các doanh
nghiệp.
- Đảm bảo tính hữu ích: Hệ thống chỉ tiêu phải có tác dụng thiết thực phục vụ cho
công tác quản trị sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
19
1.4. Hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh và phương pháp xác định
chúng
Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cần phải
dựa vào một hệ thống tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu
phấn đấu. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là biểu hiện đặc trưng về
lượng tiêu chuẩn hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế để đánh giá hiệu
quả, người ta thường phải sử dụng cả hệ thống chỉ tiêu. Sở dĩ có điều đó là vì bản chất
của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội để sản xuất ra
hàng hoá, tuy nhiên việc tính toán nó là rất khó khăn. Mặt khác, bản thân mỗi chỉ tiêu lại
phản ánh hiệu quả ở một khía cạnh và mỗi chỉ tiêu đó đều có những ưu, nhược điểm
riêng. Một sự phân tích tổng hợp dựa trên cả hệ thống chỉ tiêu sẽ cho chúng ta cái nhìn
toàn diện hơn, đầy đủ hơn về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tổng hợp
1.4.1.1. Lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả, đồng thời vừa là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ doanh nghiệp thường quan tâm xem họ
thu được gì và bao nhiêu sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, vì vậy chỉ tiêu lợi nhuận
được họ quan tâm nhất. Còn với các nhà quản trị thì lợi nhuận vừa là mục tiêu cần đạt
được, vừa là cơ sở để tính các chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận được xác định bằng công thức
M = TR – TC
M : Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
TR: Tổng doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
TC: Tổng chi phí bỏ ra của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
Trong cơ chế thị trường ngày nay, các doanh nghiệp thường kinh doanh trên nhiều

ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau, do đó lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được cũng
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau . Chỉ tiêu lợi nhuận là một trong số những
chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đo lợi nhuận ta có các chỉ tiêu sau:
+ Lợi nhuận gộp: Là hiệu số của doanh thu thuần với giá vốn hàng bán phát sinh
trong kỳ.
20
Lợi nhuận
gộp
=
Tổng doanh
thu thuần
-
Tổng giá vốn hàng bán
(hay tổng giá thành sản phẩm bán
không gồm chi phí quản lý doanh nghiệp
và chi phí bán hàng)
+ Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh là kết quả tài chính trước thuế thu
nhập doanh nghiệp của hoạt động kinh doanh chính trong kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này
được tính trên cơ sở lợi nhuận gộp trừ đi chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp phân bổ cho hàng hóa, thành phẩm và dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ nghiên cứu.
+ Thu nhập hoạt động tài chính là các khoản thu từ kết quả hoạt động tài chính.
+ Lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính: Là số chênh lệch giữa thu từ hoạt động
tài chính trừ đi chi phí cho hoạt động tài chính của kỳ nghiên cứu.
+ Lợi nhuận bất thường là chênh lệch giữa các khoản thu và chi cho hoạt động bất
thường.
+ Tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp: Là tổng số lợi nhuận thực hiện
trong kỳ tính toán của doanh nghiệp trước khi trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt
động kinh doanh, hoạt động tài chính và các khoản bất thường phát sinh trong kỳ tính
toán.

Lợi nhuận thuần
trước thuế
= Lợi nhuận gộp -
Tổng chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp
Tổng lợi
nhuận thuần
trước thuế
=
Lợi nhuận thuần
trước thuế của
hoạt động
SXKD
+
Lợi nhuần
thuần trước
thuế của hoạt
động tài chính
+
Lợi nhuận
của hoạt
động bất
thường
+ Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp ( còn gọi là thực lợi nhuận thuần): là tổng lợi
nhuận thuần từ các hoạt động của doanh nghiệp trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp phát sinh trong kỳ tính toán.
Tổng lợi nhuận
thuần sau thuế
=
Tổng lợi nhuận thuần

trước thuế
-
Thuế thu nhập doanh nghiệp
21
Do vậy, khi tiến hành xem xét chỉ tiêu lợi nhuận, để có cái nhìn toàn diện hơn về
nguồn lợi nhuận thu được thì doanh nghiệp nên phân tích tách bạch chúng ra.
1.4.1.2. Doanh thu
- Tổng doanh thu là toàn bộ số tiền thu được do tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ là doanh
nghiệp đã thực hiện trong kỳ báo cáo.
+ Doanh thu hàng xuất khẩu
+ Doanh thu thuần: Là tổng doanh thu trừ đi các khoản giảm trừ như: giảm giá hàng
bán, giá trị hàng bán bị trả lại, các loại thuế như: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu,
thuế giá trị gia tăng…
Với nội dung như trên chỉ tiêu tổng doanh thu, doanh thu hàng xuất khẩu hoặc doanh
thu thuần đều có thể sử dụng để đo kết quả sản xuất kinh doanh và để tính hiệu quả sản
xuất của doanh nghiệp.
1.4.1.3. Chỉ tiêu giá trị sản xuất (GO)
Giá trị sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của các kết quả hoạt động lao
động hữu ích do lao động làm ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một tháng,một
quý, 6 tháng hoặc một năm. Về mặt hiện vật, kết quả được biểu hiện ở dạng thành
phẩm, sản phẩm chính, sản phẩm phụ…Để tổng hợp được tất cả các dạng kết quả trên,
người ta phải quy về đơn vị tiền tệ.
- Về phạm vi tính toán: Go của doanh nghiệp là tổng hợp Go của ngành sản xuất mà
doanh nghiệp tiến hành. Đứng trên góc độ thu nhập, tất cả các hoạt động có mục đích
của con người có tạo ra thu nhập là hoạt động sản xuất.
- Về cấu trúc giá trị:
GO = C +V +M
Trong đó:
C: Chi phí về lao động quá khứ,
V: Chi phí về lao động sống,

M: Lợi nhuận
- Căn cứ vào thông tin trong kết quả sản xuất kinh doanh thì :
GO = 1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 9
(1): Doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất chính
(2):Doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất phụ.
22
(3): Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm.
(4): Chênh lệch cuối kỳ so với đầu kỳ thành phẩm tồn kho.
(5): Chênh lệch cuối kỳ so với đầu kỳ sản phẩm sản xuất dở dang, công cụ mô hình
tự chế.
(6): Chênh lệch cuối kỳ so với đầu kỳ giá trị hàng hóa gửi bán chưa thu được tiền.
(7): Giá trị sản phẩm được tính theo quy định đặc biệt
(8): Tiền thu được do cho thuê tài sản cố định kèm theo người điều khiển.
(9): Giá trị sản phẩm dịch vụ làm thuê cho bên ngoài đã hoàn thành trong kỳ.
Giá trị sản xuất được tính theo hai loại giá: giá hiện hành và giá so sánh
* Giá trị sản xuất của hoạt động thương mại
GO = Chi phí lưu thông + Lợi nhuận + Thuế
Hoặc GO = Doanh số bán ra - Giá vốn hàng bán
1.4.1.4. Các chỉ tiêu về doanh lợi
Xét trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn quản trị kinh doanh các nhà kinh tế
cũng như các nhà quản trị hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp đều quan tâm trước
hết đến việc tính toán, đánh giá chỉ tiêu chung phản ánh doanh lợi của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu doanh lợi được tính cho toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp và tính
riêng cho vốn tự có của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của
vốn kinh doanh, vốn tự có, khẳng định mức độ đạt hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số
vốn doanh nghiệp sử dụng nói chung cũng như hiệu quả sử dụng số vốn tự có của doanh
nghiệp nói riêng. Nhiều tác giả coi các chỉ tiêu này là thước đo mang tính quyết định
đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Doanh lợi của tài sản :



=
TS
M
ROA
M : Lợi nhuận ( lãi ròng + lãi trả vốn vay )


TS
: Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng bỏ vào đầu tư tài sản doanh nghiệp tạo ra được mấy
đồng lợi nhuận, càng cao càng tốt.
- Doanh lợi trên vốn chủ sở hữu ( vốn tự có ) :
23
CSH
V
M
ROE =
Trong đó:
ROE : Doanh lợi vốn chủ sở hữu
M : Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
V
CSH
: Vốn chủ sở hữu của của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn CSH, doanh nghiệp sẽ tạo ra được mấy đồng
lợi nhuận.
- Doanh lợi doanh thu bán hàng :
TR
M
ROS =

ROS : Doanh lợi doanh thu bán hàng
M : Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
TR : Tổng doanh thu bán hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Sức sinh lời của Cổ phiếu (EPS)
th
CP
M
EPS =
EPS: Sức sinh lời của cổ phiếu
M: Lợi nhuận sau thuế
CP
th
: Cổ phiếu phổ thông lưu hành bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh Công ty sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận khi bán
được một cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
1.4.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận
Chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận thường được dùng để phân tích hiệu
quả kinh tế của từng mặt hoạt động, từng yếu tố sản xuất cụ thể nhằm tìm biện pháp tối
đa chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp. Đây là chức năng chủ yếu của hệ
thống chỉ tiêu này.
24
Ngoài ra chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh bộ phận còn dùng để phân tích bổ
sung cho chỉ tiêu tổng hợp để kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết luận được rút ra từ các
chỉ tiêu tổng hợp.
Do các chỉ tiêu bộ phận phán ảnh hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động (bộ
phận) nên thường được xây dựng trong thống kê, phân tích cụ thể, chính xác mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố, từng mặt hoạt động, từng bộ phận công tác đến hiệu quả
kinh tế tổng hợp.
Bảng 1.1: Ma trận hiệu quả đầy đủ dưới dạng thuận

Kết quả/
Chi phí
GO VA NVA M
1 2 3 4 5
L
NSLĐ BQ 1
lao động
= GO/
L
NSLĐ BQ 1
lao động
= VA/
L
NSLĐ BQ 1
lao động
= NVA/
L
Mức lợi nhuận
BQ 1 lao động
= M/
L
dh
V
Năng suất tài
sản dài hạn
=GO/
dh
V
Năng suất tài
sản dài hạn

=VA/
dh
V
Năng suất tài
sản dài hạn
=NVA/
dh
V
Tỷ suất lợi nhuận
tính theo tài sản
dài hạn
= M/
dh
V
C
Năng suất sử
dụng chi phí
= GO/C
Năng suất sử
dụng chi phí
= VA/C
Năng suất sử
dụng chi phí
= NVA/C
Tỷ suất lợi nhuận
tính theo chi phí =
M/C
( Nguồn: Thống kê doanh nghiệp - 2009)
Trong đó:
GO: Giá trị sản xuất

VA: Giá trị gia tăng
NVA: Giá trị tăng thêm thuần
M: Lợi nhuận
L
: Số lao động làm việc bình quân trong kỳ
dh
V
: Tài sản dài hạn bình quân trong kỳ
C: Tổng chi phí sản xuất
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động
25

×