Tải bản đầy đủ (.docx) (230 trang)

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN THI TỰ LUẬN ĐẤU THẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.33 KB, 230 trang )

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN THI TỰ LUẬN ĐẤU THẦU
CHỦ ĐỀ: PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT ĐẦU THẦU SỐ 43
Câu 1: Tổng công ty A (Do nhà nước nắm giữ 98% vốn điều lệ) đang thực
hiện một dự án có tổng mức đầu tư 1000 tỷ đồng, trong đó phần vốn nhà nước là
295 tỷ thì Dự án có thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đấu thầu số 43/2013/QH13
không?
Trả lời:
Theo Khoản 4, Điều 8, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 quy định
Doanh nghiệp nhà nước là Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ,
theo đó, doanh nghiệp A không phải là doanh nghiệp Nhà nước.
Như vậy, trong trường hợp này, vốn nhà nước chỉ chiếm 29,5%, theo Khoản
2, Điều 1, Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 thì Dự án trên không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13. Vì vậy, việc tổ chức lựa chọn nhà
thầu thực hiện theo khoản 2, Điều 2, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13.
Câu 2: Công ty là Doanh nghiệp Nhà nước phải mua bảo hiểm trong hoạt
động hàng ngày cho tiền mặt, ngoại tệ, chứng từ có giá, trong quá trình vận chuyển
từ nơi này đến nơi khác, thì việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ bảo hiểm thực
hiện theo quy định nào?
Trả lời:
Theo khoản 9, điều 4 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định: “Dịch vụ
phi tư vấn là một hoặc một số hoạt động bao gồm: logistics, bảo hiểm, quảng cáo,
lắp đặt không thuộc quy định tại khoản 45 Điều này, nghiệm thu chạy thử, tổ chức
đào tạo, bảo trì, bảo dưỡng, vẽ bản đồ và hoạt động khác không phải là dịch vụ tư
vấn quy định tại khoản 8 Điều này”, Vì vậy, việc mua bảo hiểm trong hoạt động
hàng ngày cho tiền mặt, ngoại tệ, chứng từ có giá là dịch vụ phi tư vấn. Chính vì
thế, việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ bảo hiểm để đảm bảo tính liên tục
trong sản xuất, kinh doanh của Doanh nghiệp sẽ được thực hiện theo quy định tại
khoản 2, Điều 3 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13: “Trường hợp lựa chọn đấu thầu
cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn
để bảo đảm tính liên tục cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và mua sắm nhằm duy
trì hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước; thực hiện gói thầu thuộc


dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất của nhà
đầu tư được lựa chọn thì doanh nghiệp phải ban hành quy định về lựa chọn nhà
thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp trên cơ sở bảo đảm mục tiêu công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”.
Câu 3: Công ty A là nhà thầu trúng thầu gói thầu cho thuê thiết bị, dịch vụ
do Sở B làm Chủ đầu tư, thì việc công ty A ký hợp đồng với các nhà cung cấp khác


để cung cấp, lắp đặt thiết bị, dịch vụ để phục vụ Hợp đồng kinh tế với Sở B có
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 không?
Trả lời:
Chúng ta cần xem xét các tình huống sau:
Nếu thiết bị, dịch vụ là hàng hóa được mua sắm chỉ có mục đích sử dụng
cho gói thầu và giá trị của nó được khấu hao toàn bộ theo hợp đồng được ký giữa
công ty A và Sở B thì công ty A có thể ký hợp đồng trực tiếp với nhà thầu cung cấp
khác mà không phải lựa chọn nhà thầu theo quy định của Luật đấu thầu số
43/2013/QH13.
Nếu thiết bị, dịch vụ là hàng hóa được khấu hao nhiều lần, hình thành nên tài
sản cố định
Phục vụ sản xuất kinh doanh, cần xem xét rõ Công ty A có thuộc doanh
nghiệp nhà nước hay không?
Tại điểm b, điểm c, khoản 1 Điều 1 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13, quy
định về lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa,
xây lắp đối với:
“+ Dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;
+ Dự án đầu tư phát triển không thuộc quy định tại điểm a và điểm b khoản
này có sử dụng vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước từ 30% trở lên hoặc
dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của dự án”; Thì thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật số 43/2013/QH13.
Trường hợp công ty A là doanh nghiệp nhà nước thì việc công ty A sử dụng

vốn của Doanh nghiệp nhà nước để lựa chọn nhà thầu cung cấp, lắp đặt thiết bị, và
dịch vụ để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi điều chỉnh của
luật đấu thầu số 43/2013/QH13. Do đó, Doanh nghiệp phải ban hành quy chế lựa
chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp trên cơ sở bảo đảm mục
tiêu công bằng minh bạch và hiệu quả kinh tế (Theo quy định tại khoản 2, Điều 3
Luật đấu thầu số 43/2013/QH13.
Trường hợp công ty A không phải là doanh nghiệp Nhà nước nhưng sử dụng
vốn nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng
mức đầu tư của Dự án thì việc lựa chọn nhà thầu để cung cấp lắp đặt thiết bị, dịch
vụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật số 43/2013/QH13 (quy định tại điểm c,
khoản 1, Điều 1 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13).
Trường hợp công ty A không phải là doanh nghiệp Nhà nước và không sử
dụng vốn nhà nước hoặc sử dụng vốn Nhà nước nhưng dưới 30% và nhỏ hơn 500
tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của Dự án thì việc lựa chọn nhà thầu để cung cấp
lắp đặt thiết bị, dịch vụ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật số
43/2013/QH13.


Câu 4: Việc lựa chọn đơn vị tư vấn thực hiện thoái vốn, đơn vị định giá, đơn
vị thẩm định giá của Doanh nghiệp nhà nước để thiến hành cổ phần hóa có thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13?
Trả lời:
- Nếu gói thầu thực hiện thoái vốn, đơn vị định giá, đơn vị thẩm định giá
thuộc dự án đầu tư phát triển của Doanh nghiệp Nhà nước thì thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 (Theo quy định tại điểm b, khoản 1,
điều 1 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13). Ngoài ra, việc thực hiện thoái vốn là công
việc được thực hiện 1 lần, không phải hoạt động thường xuyên theo từng năm nên
không được coi là hoạt động thường xuyên của Doanh nghiệp Nhà nước và không
thuộc phạm vi quy định tại Khoản 2, Điều 3 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13.
Câu 5: Tổng công ty A là doanh nghiệp Nhà nước đã tổ chức đấu thầu mua

thiết bị X . Hiện nay, tổng công ty A muốn chuyển giao thiết bị X cho công ty cổ
phần B (Tổng Công ty A là công ty mẹ có vốn góp là 60% vốn điều lệ của công ty
cổ phần B. Việc chuyển giao này có phải thực hiện đấu thầu hay không?
Trả lời:
Hiện nay, pháp luật về đấu thầu không quy định việc bàn giao tài sản giữa
các Doanh nghiệp với nhau. Do vậy, việc bàn giao trang thiết bị đã được đấu thầu
trước đó giữa Tổng công ty A và công ty cổ phần B không thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13?
Câu 6: Công ty B là công ty con của tập đoàn A (100% vốn nhà nước). vậy
trường hợp khi công ty B tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu mua sắm hàng hóa để
mua thiết bị phục vụ việc kinh doanh tại nước ngoài thì có thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13?
Trả lời:
Đối với dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam mà
dự án đó sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ
đồng trong tổng mức đầu tư cùa dự án, việc tổ chức lựa chọn nhà thầu tại Việt Nam
để thực hiện cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa mà dịch vụ
hàng hóa đó được sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam thì thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật đấu thầu số 43/20I3/QH13 (quy định tại khoản 2, điều 1, Luật đấu thầu số
43/20I3/QH13)
Trường hợp Công ty B tổ chức lựa chọn nhà thầu tại Việt Nam để cung cấp
dịch vụ, hàng hóa mà dịch vu, hàng hóa đó được sử dụng ở Việt Nam thì thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu số 43/20I3/QH13; Trường hợp dịch vụ, hàng
hóa đó không được sử dụng ở Việt Nam thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật đấu thầu số 43/20I3/QH13(Theo quy định tại khoản 2 Điểu 1 Luật đấu thầu số
43/20I3/QH13)


Câu 7: Công ty A là nhà đầu tư đã trúng thầu Dự án X theo hình thức BOT.
Việc công ty A lựa chọn nhà thầu để thực hiện dự án có phải tuân thủ quy định của

Luật đấu thầu số 43/20I3/QH13 không?
Trả lời:
Dự án đầu tư theo hình thức BOT được hiểu là dự án đầu tư theo hình thức
đối tác công tư (PPP). Tại khoản 2, Điều 3 Luật đấu thầu số 43/20I3/QH13 quy
định: “Trường hợp lựa chọn đấu thầu cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật
tư, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn để bảo đảm tính liên tục cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh và mua sắm nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của doanh
nghiệp nhà nước; thực hiện gói thầu thuộc dự án đầu tư theo hình thức đối tác công
tư, dự án đầu tư có sử dụng đất của nhà đầu tư được lựa chọn thì doanh nghiệp
phải ban hành quy định về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh
nghiệp trên cơ sở bảo đảm mục tiêu công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế” .
Vì vậy, việc công ty A lựa chọn nhà thầu để thực hiện dự án cần phải tuân thủ quy
định của Luật đấu thầu số 43/20I3/QH13, cụ thể như công ty A phải ban hành quy
định về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp trên cơ sở bảo
đảm mục tiêu công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Câu 8: Bệnh viện X (Bệnh viện tuyến trung ương), là đơn vị thực hiện dự án
xây dựng tòa nhà khám chữa bệnh chất lượng cao có tổng mức đầu tư 145 tỷ đồng.
Trong đó, 90% nguồn vốn là vốn vay thương mại và bệnh viện không dùng tài sản
có nguồn gốc nhà nước để thế chấp và trả nợ vay. Phần vốn còn lại 10% là từ Quỹ
phát triển hoạt động sự nghiệp của bệnh viện, nguồn vốn này có nguồn gốc từ vốn
nhà nước.
Trong trường hợp này, việc xây dựng tòa nhà khám chữa bệnh chât lượng
cao của Bệnh viện X có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu số
43/20I3/QH13 hay không?
Trả lời:
Căn cứ điểm a, khoản 1, điều 1 Luật 43/2013/QH13 quy định việc lựa chọn
nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp đối với Dự
án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước: Dự án đầu tư phát triển sử dụng
vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,

đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập;
Theo khoản 44 Điều 4, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định: Vốn nhà
nước bao gồm vốn
ngân sách nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu chính phủ, trái phiếu
chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các
nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được bảo đảm


bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; giá
trị quyền sử dụng đất.
Đối với trường hợp bệnh viện công lập X khi đầu tư dự án xây dựng tòa nhà
khám chữa bệnh chất lượng cao có sử dụng vốn Nhà nước (không phân biệt trên
hay dưới 30% vốn nhà nước trong tổng mức đầu tư của Dự án) thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13.
Câu 9: Bệnh viện công lập A được giao nhiệm vụ chủ đầu tư Dự án Xây
dựng tòa nhà khám chữa bệnh chất lượng cao có tổng mức đầu tư 250 tỷ đồng.
Trong đó, 90% nguồn vốn là vốn vay thương mại và Bệnh viện không dùng tài sản
có nguồn gốc nhà nước để thế chấp và trả nợ vay; phần vốn còn lại (10%) được
trích từ Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp của Bệnh viện.
Trong trường hợp này, việc lựa chọn nhà thầu thực hiện các gói thầu thuộc
Dự án Xây dựng tòa nhà khám chữa bệnh chất lượng cao của Bệnh viện A có thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 hay không?
Trả lời:
Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (Điều 1 Khoản 1 Điểm a) quy định dự án
đầu tư phát triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Theo quy định tại Khoản 44 Điều 4 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, vốn

nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu chính
phủ, trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay
ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được
bảo đảm bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà
nước; giá trị quyền sử dụng đất. Như vậy, vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự
nghiệp là vốn nhà nước theo quy định nêu trên.
Đối với trường hợp của Bệnh viện A, mặc dù Dự án Xây dựng tòa nhà khám
chữa bệnh chất lượng cao chỉ sử dụng 25 tỷ đồng từ nguồn vốn nhà nước trong
tổng mức đầu tư (tương đương với 10%) nhưng Bệnh viện A lại là đơn vị sự
nghiệp công lập, nên việc lựa chọn nhà thầu thực hiện các gói thầu của Dự án này
thuộc phạm vi điều chỉnh quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13.
Từ quy định nêu trên, chúng ta thấy rằng Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13
điều chỉnh hoạt động mua sắm sử dụng vốn nhà nước của các tổ chức thuộc khu
vực công. Do đó, dự án đầu tư phát triển có sử dụng vốn nhà nước dù ít hay nhiều
của các chủ đầu tư là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập đều thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu.


Câu 10: Công ty viễn thông X là Doanh nghiệp Nhà nước và đang tiến hành
mở bán đấu giá gói lưu lượng quốc tế chiều về tại hệ thống mạng do mình quản lý.
Trong quá trình đấu thầu, công ty Viễn thông X có cần tuân thủ các quy định của
Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 và Nghi định số 63/2014/NĐ- CP hay không?
Trả lời:
Tại khoản 12, Điều 4 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 ghi rõ: “Đấu thầu là
quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư
vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết

và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác
công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Với trường hợp nêu trên, việc công ty viễn thông X tiến hành mở bán đấu
giá gói lưu lượng quốc tế chiều về tại hệ thống mạng do mình quản lý không phải
là hoạt động lựa chọn nhà thầu theo quy định nêu trên. Vì vậy, hoạt động bán đấu
giá này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 nên
công ty Viễn thông X không cần tuân thủ các quy định của Luật đấu thầu số
43/2013/QH13 và Nghi định số 63/2014/NĐ-CP.
Câu 11: Đối với các doanh nghiệp nhà nước, việc mua sắm để đảm bảo tính
liên tục cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác nhằm duy trì
hoạt động thường xuyên thực hiện theo quy định nào?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 2, Điều 3 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định
“Trường hợp lựa chọn đấu thầu cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư,
dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn để bảo đảm tính liên tục cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh và mua sắm nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp
nhà nước; thực hiện gói thầu thuộc dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự
án đầu tư có sử dụng đất của nhà đầu tư được lựa chọn thì doanh nghiệp phải ban
hành quy định về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp trên
cơ sở bảo đảm mục tiêu công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”. Vì vậy, Đối
với các doanh nghiệp nhà nước, việc mua sắm để đảm bảo tính liên tục cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác nhằm duy trì hoạt động thường
xuyên thực hiện theo quy định tại khoản 2, Điều 3 Luật đấu thầu số
43/2013/QH13. Ngoài ra, doanh nghiệp phải ban hành danh mục mua sắm thường
xuyên và ban hành quy chế riêng về lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong
doanh nghiệp trên cơ sở bảo đảm mục tiêu công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh
tế.
Câu 12: Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (là doanh
nghiệp Nhà nước) mua sắm ô tô chuyên dụng có thuộc phạm vi điều chỉnh của

Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 không?


Trả lời:
Việc mua sắm ô tô chuyên dụng của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam là hoạt động mua sắm tài sản của Doanh nghiệp nhà nước và
phải tuân thủ theo các quy định của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13. Trong trường
hợp việc mua sắm ô tô không hình thành dự án mua sắm tài sản, chỉ có dự toán
mua sắm được duyệt thì việc lựa chọn nhà thầu cung cấp ô tô cần tuân thủ theo quy
trình lựa chọn nhằm duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định tại khoản
2, điều 3 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 thì Ngân hàng phải ban hành quy định về
lựa chọn nhà thầu để áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp trên cơ sở bảo đảm
mục tiêu công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Câu 13: Câu 4 (cục QLĐT)
Ngân hàng thương mại X có sự tham gia góp vốn của Nhà nước chiếm 95%.
Ngân hàng X đã tài trợ cho Huyện Y thực hiện dự án xây dựng trường học cho học
sinh trên địa bàn huyện, trong đó Ngân hàng X đóng góp 25%, cán bộ, nhân viên
của Ngân hàng quyên góp, đóng góp 75% vào dự án. Huyện Y là chủ đầu tư của dự
án xây dựng trường học này. Hỏi việc lựa chọn nhà thầu thuộc dự án nêu trên có
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu hay không?
Trả lời:
Theo Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (Điều 4, khoản 8) quy định
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
theo đó Ngân Hàng thương mại X không phải là Doanh nghiệp Nhà nước.
Căn cứ theo điểm c, khoản 1, Điều 1 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy
định: Dự án đầu tư phát
triển không thuộc quy định tại điểm a và điểm b khoản này (Khoản 1) có sử
dụng vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30%
nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của dự án thì vẫn thuộc phạm điều
chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13, như vậy, nếu:

Phần vốn nhà nước của Ngân hàng thương mại X đóng góp trên 500 tỷ đồng
thì việc lựa chọn nhà thầu thuộc dự án nêu trên thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
đấu thầu.
Phần vốn nhà nước của Ngân hàng thương mại X đóng góp dưới 500 tỷ
đồng thì việc lựa chọn nhà thầu thuộc dự án nêu trên không thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật đấu thầu.
Câu 14 Câu 25 (Cục QLĐT):
Tổng công ty A (do nhà nước nắm giữ 98% vốn điều lệ) đang thực hiện một
dự án có tổng mức đầu tư 1.000 tỷ đồng trong đó phần vốn nhà nước là 295 tỷ
đồng.
Hỏi: Dự án trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu hay không
và giải thích?


Trả lời:
Theo Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (điều 4, khoản 8) quy định
doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ,
vì vậy tổng công ty A không phải là Doanh nghiệp Nhà nước.
Trong trường hợp này phần vốn Nhà nước chỉ chiếm 29,5% trong tổng mức
đầu tư dự án thì Dự án này không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đấu thầu số
43/2013/QH13 (Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 1 luật đấu thầu số
43/2013/QH13 khi Lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn,
hàng hóa, xây lắp đối với Dự án đầu tư phát triển không thuộc quy định tại điểm a
và điểm b khoản 1 Điều 1 có sử dụng vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà
nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư
của dự án);
Câu 15 Câu 33 (Cục QLĐT):
Bệnh viện công lập X là chủ đầu tư dự án xây dựng tòa nhà khám chữa bệnh
chất lượng cao có tổng mức đầu tư 145 tỷ đồng. Trong đó, 90% nguồn vốn là vốn
vay thương mại và bệnh viện không dùng tài sản có nguồn gốc nhà nước để thế

chấp và trả nợ vay. Phần vốn còn lại 10% là từ Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp
của bệnh viện, nguồn vốn này có nguồn gốc từ vốn nhà nước.
Hỏi: Trong trường hợp này, việc xây dựng tòa nhà khám chữa bệnh chât
lượng cao của Bệnh viện X có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đâu thâu hay
không và phân tích?
Trả lời:
Căn cứ điểm a, khoản 1, điều 1 Luật 43/2013/QH13 quy định việc lựa chọn
nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp đối với Dự
án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước: Dự án đầu tư phát triển sử dụng
vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập;
Theo khoản 44 Điều 4, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định: Vốn nhà
nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu chính phủ,
trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu
đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được bảo
đảm bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;
giá trị quyền sử dụng đất.
Đối với trường hợp bệnh viện công lập X khi đầu tư dự án xây dựng tòa nhà
khám chữa bệnh chất lượng cao có sử dụng vốn Nhà nước (không phân biệt trên
hay dưới 30% vốn nhà nước trong tổng mức đầu tư của Dự án) thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13.


Câu 16 Câu 34 (Cục QLĐT):
Công ty A là doanh nghiệp nhà nước, trong đó có lĩnh vực kinh doanh là
mua, bán ô tô.
Hỏi: Việc mua ô tô để bán của Công ty A có phải tuân thủ theo quy định của
Luật đấu thầu hay không, giải thích?

Trả lời:
Căn cứ điểm b, khoản 1, điều 1 Luật 43/2013/QH13 quy định việc lựa chọn
nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp đối với Dự
án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Theo khoản 44 Điều 4, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định: Vốn nhà
nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu chính phủ,
trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu
đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được bảo
đảm bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước;
giá trị quyền sử dụng đất.
Như vậy, Đối với trường hợp Công ty A là doanh nghiệp nhà nước, Việc
mua ô tô để bán vẫn phải tuân thủ theo quy định của Luật đấu thầu số
43/2013/QH13.
CHỦ ĐỀ: HÌNH THỨC LỰA CHỌN NHÀ THẦU
Câu 17: Đối với gói thầu áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp, việc lựa chọn
nhà thầu được thực hiện như thế nào? Trường hợp nhà thầu trước đó vẫn đủ khẳ
năng thực hiện tiếp gói thầu nhưng bên mời thầu muốn mời nhà thầu khác thực
hiện thì có được không?
Trả lời:
Tại Khoản 2, khoản 3 Điều 24 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định về
các điều kiện để được áp dụng mua sắm trực tiếp như sau:
- Khoản 2: Mua sắm trực tiếp được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện
sau đây:
Nhà thầu đã trúng thầu thông qua đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế và
đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu trước đó;
Gói thầu có nội dung, tính chất tương tự và quy mô nhỏ hơn 130% so với
gói thầu đã ký hợp đồng trước đó;
Đơn giá của các phần việc thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không
được vượt đơn giá của các phần việc tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã ký hợp

đồng trước đó;


Thời hạn từ khi ký hợp đồng của gói thầu trước đó đến ngày phê duyệt kết
quả mua sắm trực tiếp không quá 12 tháng.
Khoản 3. “Trường hợp nhà thầu thực hiện hợp đồng trước đó không có khả
năng tiếp tục thực hiện gói thầu mua sắm trực tiếp thì được áp dụng mua sắm trực
tiếp đối với nhà thầu khác nếu đáp ứng các yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm, kỹ
thuật và giá theo hồ sơ mời thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu trước đó”
+ Vì vậy, việc áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp phải tuân thủ các quy
định nêu trên.
+ Trường hợp nhà thầu trước đó vẫn đủ khẳ năng thực hiện tiếp gói thầu
nhưng bên mời thầu muốn mời nhà thầu khác thực hiện là không phù hợp với pháp
luật về đấu thầu vì nhà thầu thực hiện gói thầu trước đó là nhà thầu đã trúng thầu
thông qua đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế, vì thế nhà thầu đáp ứng yêu cầu
về năng lực kinh nghiệm, chất lượng hàng hóa do nhà thầu cung cấp, cũng như sự
tuân thủ các điều khoản hợp đồng của nhà thầu đã được kiểm chứng cụ thể. Nếu
thay thế bằng nhà thầu khác thì không đảm bảo công bằng trong đấu thầu, chất
lượng hàng hóa chưa được kiểm trứng trong quá trình sử dụng mà chỉ được thể
hiện thông qua cam kết bằng văn bản của nhà thầu.
Chỉ khi nhà thầu trước đó không có khả năng tiếp tục thực hiện gói thầu thì
bên mời thầu áp dụng mua sắm trực tiếp đối với nhà thầu khác nếu đáp ứng các
yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm, kỹ thuật và giá theo hồ sơ mời thầu và kết quả
lựa chọn nhà thầu trước đó.
Câu 18: Chủ đầu tư A đang tiến hành lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho gói
thầu cung cấp dịch vụ tư vấn có giá 450 triệu đồng. Trong nội dung kế hoạch lựa
chọn nhà thầu có ghi hình thức lựa chọn nhà thầu là chỉ định thầu; phương thức lựa
chọn nhà thầu là một giai đoạn một túi hồ sơ.
Việc ghi thông tin về hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu như trên
có phù hợp không?

Trả lời:
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 54 Khoản 1 và Điều 56 Khoản 2) quy
định gói thầu dịch vụ tư vấn có giá không quá 500 triệu nằm trong hạn mức chỉ
định thầu; gói thầu nằm trong hạn mức chỉ định thầu thì được áp dụng quy trình chỉ
định thầu rút gọn. Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 28 Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13, phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ được áp dụng đối với chỉ
định thầu gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa,
xây lắp, hỗn hợp.
Theo hướng dẫn tại Khoản 5 Điều 5 Thông tư số 10/2015/TT-BKHĐT ngày
26/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết về kế hoạch lựa chọn nhà
thầu, phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ được áp dụng trong các trường hợp
chỉ định thầu đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua


sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp; trường hợp gói thầu áp dụng theo quy trình chỉ
định thầu rút gọn thì không ghi nội dung này.
Đối với trường hợp nêu trên, do gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn có giá
dưới 500 triệu đồng nên việc áp dụng chỉ định thầu rút gọn đối với gói thầu này là
phù hợp với điều kiện gói thầu phải đáp ứng đủ các điều kiện chỉ định thầu quy
định tại Khoản 2 Điều 22 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13.
Khi áp dụng chỉ định thầu theo quy trình rút gọn, chủ đầu tư và nhà thầu sẽ
tiến hành thương thảo hợp đồng ngay mà không phải trải qua bước bên mời thầu
phát hành hồ sơ yêu cầu và nhà thầu nộp hồ sơ đề xuất để bên mời thầu đánh giá
trước khi thương thảo hợp đồng. Theo đó, đối chiếu với quy định tại Thông tư số
10/2015/TT-BKHĐT nêu trên, trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu
cung cấp dịch vụ tư vấn áp dụng hình thức chỉ định thầu và có giá gói thầu không
quá 500 triệu đồng không cần thiết phải ghi nội dung về phương thức lựa chọn nhà
thầu.
Câu 19: Sở Giao thông vận tải tỉnh A có đơn vị sự nghiệp hạch toán kế toán
độc lập là Trung tâm Tư vấn giám sát B. Sở Giao thông vận tải được giao nhiệm vụ

là chủ đầu tư Dự án Xây dựng công trình đường giao thông trên địa bàn Tỉnh. Vậy
Sở Giao thông vận tải có được giao cho Trung tâm Tư vấn giám sát B thực hiện
Gói thầu Tư vấn giám sát thi công công trình thuộc Dự án nói trên theo hình thức
tự thực hiện hay không?
Trả lời:
Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (Điều 25) quy định tự thực hiện được áp
dụng trong trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ
thuật, tài chính và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 61 và Điều 62 Khoản 1) quy định điều
kiện được áp dụng hình thức tự thực hiện bao gồm: (i) có chức năng, nhiệm vụ,
lĩnh vực hoạt động và ngành nghề kinh doanh phù hợp với yêu cầu của gói thầu;
(ii) phải chứng minh và thể hiện trong phương án tự thực hiện về khả năng huy
động nhân sự, máy móc, thiết bị đáp ứng yêu cầu về tiến độ thực hiện gói thầu; (iii)
đơn vị được giao thực hiện gói thầu không được chuyển nhượng khối lượng công
việc với tổng số tiền từ 10% giá gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá gói thầu nhưng
trên 50 tỷ đồng. Trường hợp gói thầu do đơn vị hạch toán phụ thuộc thực hiện thì
trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo hợp đồng. Trường hợp tổ chức
trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu không có đơn vị hạch toán phụ thuộc thì trong
phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo về thỏa thuận giao việc cho một đơn vị
thuộc mình thực hiện (các phòng, ban, tổ, đội…).
Theo đó, việc áp dụng hình thức tự thực hiện phải tuân thủ quy định nêu
trên. Mặc dù Trung tâm Tư vấn giám sát B là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Giao
thông vận tải tỉnh A về mặt tổ chức, nhưng


lại hạch toán kế toán độc lập với Sở Giao thông vận tải nên việc Sở Giao
thông vận tải giao cho Trung tâm Tư vấn giám sát B thực hiện gói thầu do Sở làm
chủ đầu tư theo hình thức tự thực hiện là không phù hợp với quy định của pháp
luật về đấu thầu.
Câu 20: Công ty chúng tôi là doanh nghiệp nhà nước, đang chuẩn bị tiến

hành dự án đầu tư hệ thống thiết bị chuyên dùng phục vụ việc khai thác khoáng sản
sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Thiết bị chuyên dùng này
hiện Việt Nam chưa sản xuất được; chỉ được nhập khẩu khi có nhu cầu và trước
đây đã từng được nhập khẩu để cung cấp cho một số dự án. Bên cạnh đó, việc nhập
khẩu cũng chỉ được thực hiện bởi một vài doanh nghiệp Việt Nam được hãng sản
xuất ủy quyền phân phối. Vậy trong trường hợp này, Công ty chúng tôi có được
phép áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi quốc tế để lựa chọn nhà thầu cung cấp
thiết bị chuyên dùng phục vụ việc khai thác khoáng sản nhằm tăng tính cạnh tranh
trong đấu thầu hay không?
Trả lời:
Luật Đấu thầu năm 2013 (Điều 15 Khoản 1) quy định việc tổ chức đấu thầu
quốc tế chỉ được thực hiện khi đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: (i) nhà tài
trợ vốn cho gói thầu có yêu cầu tổ chức đấu thầu quốc tế; (ii) gói thầu mua sắm
hàng hóa mà hàng hóa đó trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất được
nhưng không đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, giá. Trường hợp hàng hóa
thông dụng, đã được nhập khẩu và chào bán tại Việt Nam thì không tổ chức đấu
thầu quốc tế; (iii) gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, xây lắp, hỗn
hợp mà nhà thầu trong nước không có khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện gói
thầu.
Đối với trường hợp này, mặc dù thiết bị chuyên dùng phục vụ việc khai thác
khoáng sản đã được nhập khẩu và chào bán tại Việt Nam, nhưng việc nhập khẩu
này không mang tính thường xuyên, thiết bị nhập khẩu không bán rộng rãi trên thị
trường mà chỉ nhập khẩu theo từng đơn hàng cụ thể khi có nhu cầu. Nếu chỉ dựa
vào quy định “hàng hóa thông dụng, đã được nhập khẩu và chào bán tại Việt Nam
thì không tổ chức đấu thầu quốc tế” để cho rằng thiết bị khai thác khoáng sản đã
được nhập khẩu và chào bán tại Việt Nam để áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi
trong nước là không phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu, không bảo
đảm tính cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Chúng ta thấy rằng, thiết bị khai thác khoáng sản mặc dù đã được nhập khẩu
và chào bán tại Việt Nam nhưng đây không phải là hàng hóa thông dụng, sẵn có

trên thị trường. Nếu tổ chức đấu thầu trong nước thì sẽ chỉ có rất ít nhà thầu trong
nước (là nhà cung cấp theo ủy quyền của nhà sản xuất nước ngoài) tham dự thầu.
Điều này đồng nghĩa với việc không bảo đảm tính cạnh tranh trong đấu thầu do có
ít nhà thầu tham dự, từ đó dẫn đến không bảo đảm hiệu quả kinh tế của gói thầu.


Như vậy, đối với trường hợp nói trên, việc chủ đầu tư lựa chọn hình thức đấu
thầu rộng rãi quốc tế là cần thiết và phù hợp với quy định của pháp luật đấu thầu,
đồng thời bảo đảm tính cạnh tranh, hiệu quả kinh tế của gói thầu.
Câu 21: Đơn vị A được UBND tỉnh X giao nhiệm vụ làm đầu mối tổ chức
thực hiện mua sắm tập trung trên địa bàn Tỉnh. Một gói thầu mua sắm có giá
khoảng 8 tỷ đồng được Đơn vị A trình trong kế hoạch mua sắm tập trung, trong đó
đề xuất áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp cho gói thầu này.
Hỏi: Trường hợp nêu trên có được áp dụng mua sắm tập trung theo hình
thức mua sắm trực tiếp hay không?
Trả lời:
Mua sắm tập trung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ cần
mua sắm đối với số lượng nhiều, chủng loại tương tự ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư. Mục đích của việc mua sắm tập trung thông
qua đơn vị mua sắm tập trung là nhằm giảm chi phí, thời gian, đầu mối tổ chức đấu
thầu, tăng cường tính chuyên nghiệp trong đấu thầu, góp phần tăng hiệu quả kinh
tế.
Khoản 1 Điều 44 Luật Đấu thầu quy định: “Mua sắm tập trung là cách tổ
chức đấu thầu rộng rãi
để lựa chọn nhà thầu”. Do vậy, trường hợp nêu trên, Đơn vị A đề xuất
phương án mua sắm trực tiếp là chưa phù hợp với quy định của pháp luật về đấu
thầu. Hay nói cách khác, khi tổ chức lựa chọn nhà thầu theo phương án mua sắm
tập trung thì hình thức lựa chọn nhà thầu luôn luôn là đấu thầu rộng rãi.
Câu 22: Công ty chúng tôi là doanh nghiệp nhà nước. Cách đây 6 tháng,
thông qua đấu thầu rộng rãi, Công ty đã lựa chọn được nhà thầu A thực hiện Gói

thầu Cung cấp 10 xe ô tô chuyên dụng (Gói thầu số
thuộc Dự án Đầu tư nâng cấp năng lực sản xuất, kinh doanh giai đoạn 1.
Hiện nay, Công ty đang tiếp tục triển khai giai đoạn 2 của Dự án, trong giai đoạn
này có Gói thầu số 2: Cung cấp 10 xe ô tô chuyên dụng (tương tự như Gói thầu số
1).
Qua tìm hiểu thị trường, chúng tôi thấy xuất hiện Công ty B có khả năng
cung cấp 10 xe ô tô chuyên dụng với nhiều chính sách về giá cả và dịch vụ sau bán
hàng tốt hơn nhà thầu A; Công ty B chưa từng trúng thầu thông qua đấu thầu rộng
rãi, hạn chế và đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu tương tự. Vậy, trong trường hợp
này, Công ty chúng tôi có được áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp để mời Công
ty B vào đàm phán hợp đồng, bảo đảm giá hợp đồng sau đàm phán của Gói thầu số
2 thấp hơn giá hợp đồng của Gói thầu số 1 hay không?
Trả lời:


Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 24 Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13, một trong những điều kiện để áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp
là nhà thầu đã trúng thầu thông qua đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế và đã
ký hợp đồng thực hiện gói thầu trước đó.
Theo đó, mặc dù Công ty B có khả năng cung cấp 10 xe ô tô chuyên dụng
với nhiều chính sách về giá cả và dịch vụ sau bán hàng tốt hơn nhà thầu A nhưng
do trước đây Công ty B chưa từng trúng thầu thông qua đấu thầu rộng rãi, hạn chế
và đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu tương tự nên trong trường hợp này không đủ
điều kiện để áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp đối với Gói thầu số 2 cho Công
ty B theo quy định nêu trên.
Bản chất của hình thức mua sắm trực tiếp là mở rộng phạm vi cung cấp của
hợp đồng đã ký kết trước đó. Sở dĩ việc áp dụng mua sắm trực tiếp với nhà thầu
trúng thầu trước đó là do chủ đầu tư đã kiểm chứng được năng lực, kinh nghiệm và
khả năng thực hiện hợp đồng tương tự trước đó của nhà thầu này. Việc tổ chức đấu
thầu để lựa chọn nhà thầu thực hiện gói thầu tương tự mà trước đó đã lựa chọn

được nhà thầu thông qua đấu thầu rộng rãi, hạn chế sẽ mất thời gian, trong nhiều
trường hợp đơn giá trúng thầu lại cao hơn đơn giá của hợp đồng đã ký kết. Vì vậy,
việc áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp sẽ giúp tiết kiệm thời gian lựa chọn nhà
thầu đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cho gói thầu.
Việc áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp chỉ được thực hiện khi đáp ứng
đầy đủ các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 24 Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13. Theo đó, nếu gói thầu không đáp ứng quy định nêu trên thì phải áp
dụng hình thức lựa chọn nhà thầu khác cho phù hợp.
Ngoài ra, do hiệu quả của việc áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp mang
lại, trong Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 đã bổ sung quy định mới so với Luật
Đấu thầu số 61/2005/QH11. Theo đó, trường hợp nhà thầu thực hiện hợp đồng
trước đó không có khả năng tiếp tục thực hiện gói thầu mua sắm trực tiếp thì được
áp dụng mua sắm trực tiếp đối với nhà thầu khác nếu nhà thầu này đáp ứng các yêu
cầu về năng lực, kinh nghiệm, kỹ thuật và giá theo hồ sơ mời thầu, kết quả lựa
chọn nhà thầu trước đó (Khoản 3 Điều 24 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13).
Câu 23:

Câu 6 (Cục QLĐT):

Tổng công ty A là chủ đầu tư dự án X, trong đó có gói thầu xây lắp Y có giá
gói thầu 900 triệu đồng. Tổng công ty A dự kiến chỉ định thầu cho Công ty cổ phần
B (là công ty con của Tổng công ty A, do Tổng công ty A góp vốn 80%) thực hiện
gói thầu Y. Công ty cổ phần B có tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
quân trong năm là 220 người và hiện có tống nguồn vốn 50 tỷ đông.
Anh/chị hãy bình luận về việc Tổng công ty A chỉ định thầu cho Công ty B
thực hiện gói thầu Y.
Trường hợp Công ty B có tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
quân trong năm là 95 người và hiện có tống nguồn vốn 50 tỷ đồng thì việc Tông



công ty A chỉ định thầu cho Công ty B thực hiện gói thầu Y có phù hợp với quy
định của pháp luật đấu thầu hay không?
Trả lời:
Một trong các nội dung về ưu đãi doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ trong đấu thầu
là đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà
thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp tham gia đấu thầu.
Việc xác định cấp doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp được thực hiện theo Khoản 1và 2 Điều 6 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP.
Doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa được quy định tại Điều 6 Nghị định số
39/2018/NĐ-CP. Tại Khoản 2, Điều 6 quy định: Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao
động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh
thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng.
Theo quy định nêu tại khoản 12, điều 4 Luật đấu thầu thì Đấu thầu là quá
trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn,
dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và
thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử
dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Theo đó, mục 1, chương II của Luật này (Điều 20 – Điều 27) có liệt kê các hình
thức lựa chọn nhà thầu, trong đó có Chỉ định thầu, vì vậy, đối với hình thức đấu
thầu nào cũng phải tuân thủ yêu cầu về cấp Doanh nghiệp theo Khoản 3, Điều 6
Nghị định 63/2014/NĐ-CP, vì vậy:
Trường hợp Công ty cổ phần B tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội
bình quân trong năm là 220 người và hiện có tống nguồn vốn 50 tỷ đông thì Tổng
công ty A chỉ định thầu cho Công ty B thực hiện gói thầu Y là sai với quy định về
pháp luật đấu thầu.
Trường hợp Công ty B có tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
quân trong năm là 95 người và hiện có tống nguồn vốn 50 tỷ đồng (là doanh
nghiệp cấp nhỏ), Mặt khác, Theo quy định tại Khoản 1 Điều 55, Nghị định số

63/2014/NĐ-CP, nhà thầu được xác định để nhận HSYC khi có tư cách hợp lệ theo
quy định tại các điểm a,b,c,d,e và h Khoản 1 Điều 5 của Luật đấu thầu, như vậy
nhà thầu được chỉ định thầu không cần đáp ứng yêu cầu về Bảo đảm cạnh tranh
trong đấu thầu (Công ty cổ phần B là công ty con của Tổng công ty A, do Tổng
công ty A góp vốn 80%) thì việc Tổng công ty A chỉ định thầu cho Công ty B thực
hiện gói thầu Y là phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu.
Câu 24:

Câu 32 (Cục QLĐT):

Hình thức lựa chọn nhà thầu trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho gói thầu
mua sắm trang thiết bị văn phòng (gồm 50 bộ máy tính đế bàn và 50 bộ bàn ghế


làm việc) được người có thâm quyền phê duyệt là “mua sắm trực tiếp”. Chủ đâu tư
A dự kiến:
Mời nhà thầu X vào thương thảo hợp đồng đối với phần cung câp 50 bộ máy
tính đế bàn
(do cách đây 6 tháng, nhà thầu X đã trúng thầu, ký hợp đồng và hoàn thành
hợp đồng gói thầu cung cấp 100 bộ máy tính để bàn cho chủ đầu tư B đáp ứng tiến
độ, chất lượng);
Mời nhà thầu Y vào thương thảo hợp đồng đối với phần cung cấp 50 bộ bàn
ghế làm việc
(do cách đây 10 tháng, nhà thầu Y đã trúng thầu, ký hợp đồng và hoàn thành
họp đồng gói thầu cung cấp 80 bộ bàn ghế làm việc cho chủ đầu tư c đáp ứng tiến
độ, chất lượng).
Hỏi: Anh/chị hãy bình luận về cách làm nêu trên của chủ đầu tư A
Trả lời:
Căn cứ Điều 24 Luật 43/2013/QH13 quy định như sau:
Mua sắm trực tiếp được áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa tương

tự thuộc cùng một dự án, dự toán mua sắm hoặc thuộc dự án, dự toán mua sắm
khác.
Mua sắm trực tiếp được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Nhà thầu đã trúng thầu thông qua đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế và
đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu trước đó;
Gói thầu có nội dung, tính chất tương tự và quy mô nhỏ hơn 130% so với
gói thầu đã ký hợp đồng trước đó;
Đơn giá của các phần việc thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không
được vượt đơn giá của các phần việc tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã ký hợp
đồng trước đó;
Thời hạn từ khi ký hợp đồng của gói thầu trước đó đến ngày phê duyệt kết
quả mua sắm trực tiếp không quá 12 tháng.
Trường hợp nhà thầu thực hiện hợp đồng trước đó không có khả năng tiếp
tục thực hiện gói thầu mua sắm trực tiếp thì được áp dụng mua sắm trực tiếp đối
với nhà thầu khác nếu đáp ứng các yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm, kỹ thuật và
giá theo hồ sơ mời thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu trước đó.
Vì vậy, với trường hợp như trên, thứ nhất, việc Chủ đầu tư A phê duyệt kế
hoạch lựa chọn nhà thầu cho gói thầu mua sắm trang thiết bị văn phòng (gồm 50
bộ máy tính đế bàn và 50 bộ bàn ghế làm việc) là mua sắm trực tiếp là không phù
hợp với pháp luật đấu thầu.


Thứ hai, Việc Chủ đầu tư A dự kiến mời nhà thầu X và nhà thầu Y vào
thương thảo cho hai hạng mục khác nhau đều không phù hợp với pháp luật về đấu
thầu vì: Nhà thầu X và nhà thầu Y đều không phải là nhà thầu đã trúng thầu thông
qua đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế và đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu
trước đó của Chủ đầu tư A, mặt khác chủ đầu tư A giao cho nhà thầu X và Y thực
hiện Gói thầu trước đó của Chủ đầu tư B, C vì đã hoàn thành gói thầu trước đó có
một phần nội dung tương tự với nội dung, tính chất so với gói thầu dự kiến thực
hiện.

Câu 25: Đơn vị tôi đang tiến hành sơn vôi lại khối nhà làm việc với tổng dự
toán được duyệt là 670 triệu đồng. Theo các văn bản hiện hành thì chúng tôi có
quyền áp dụng quy trình chỉ định thầu rút gọn và áp dụng theo Mẫu 06 của Thông
tư 11/2015/TT-BKHĐT ngày 27/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi
tiết lập hồ sơ yêu cầu chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh. Tuy nhiên, khi liên lạc
hỏi lại người có trách nhiệm ở Vụ Tài chính của bộ chủ quản (đơn vị sẽ quyết toán
dự án) thì được trả lời là phải áp dụng chỉ định thầu thông thường cho an toàn!”.
Hỏi: Ý kiến của đơn vị quyết toán nêu trên có đúng không? Trong trường
hợp này, căn cứ pháp lý nào có thể giúp thực hiện được quyết toán với quy trình
chỉ định thầu rút gọn?
Trả lời:
Hạn mức chỉ định thầu được quy định tại Điều 54 Nghị định 63/2014/NĐCP ngày 26/06/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu. Theo đó, gói thầu có giá trị trong hạn mức được áp
dụng chỉ định thầu theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 22 của Luật Đấu thầu
bao gồm: Không quá 500 triệu đồng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch
vụ phi tư vấn, dịch vụ công; không quá 01 tỷ đồng đối với gói thầu mua sắm hàng
hóa, xây lắp, hỗn hợp, mua thuốc, vật tư y tế, sản phẩm công; không quá 100 triệu
đồng đối với gói thầu thuộc dự toán mua sắm thường xuyên.
Trường hợp bạn đọc nêu, gói thầu thuộc hạn mức chỉ định thầu thì theo quy
định tại Khoản 2 Điều 56 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, các gói thầu trong hạn mức
chỉ định thầu theo quy định tại Điều 54 được áp dụng theo quy trình chỉ định thầu
rút gọn.
Quy trình chỉ định thầu rút gọn đối với gói thầu trong hạn mức chỉ định thầu
được quy định tại Khoản 2 Điều 56 Nghị định 63/2014/NĐ-CP. Cụ thể, bên mời
thầu căn cứ vào mục tiêu, phạm vi công việc, dự toán được duyệt để chuẩn bị và
gửi dự thảo hợp đồng cho nhà thầu được chủ đầu tư xác định có đủ năng lực và
kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Nội dung dự thảo hợp đồng bao gồm
các yêu cầu về phạm vi, nội dung công việc cần thực hiện, thời gian thực hiện, chất
lượng công việc cần đạt được, giá trị tương ứng và các nội dung cần thiết khác.
Trên cơ sở dự thảo hợp đồng, bên mời thầu và

nhà thầu được đề nghị chỉ định thầu tiến hành thương thảo, hoàn thiện hợp
đồng làm cơ sở để phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng. Tiếp


đó, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. Hợp đồng ký kết giữa các bên phải phù hợp
với quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu, biên bản thương thảo hợp
đồng và các tài liệu liên quan khác.
Trường hợp cần thiết, bên mời thầu vẫn có thể áp dụng quy trình chỉ định
thầu thông thường đối với các gói thầu nằm trong hạn mức được chỉ định thầu rút
gọn.
Để thuận tiện trong quá trình thực hiện, khi lập tờ trình Kế hoạch lựa chọn
nhà thầu, chủ đầu tư nên ghi rõ hình thức lựa chọn nhà thầu là chỉ định thầu rút gọn
hay chỉ định thầu thông thường và nêu rõ lý do để người có thẩm quyền phê duyệt.
Câu 26: Trường hợp hàng hóa đã có đại lý cung cấp tại Việt Nam thì có được
tổ chức đấu thầu quốc tế gói thầu mua sắm loại hàng hóa đó không?
Trả lời:
Tại khoản 1, Điều 15 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định: “Việc tổ
chức đấu thầu quốc tế để lựa chọn nhà thầu chỉ được thực hiện khi đáp ứng một
trong các điều kiện sau đây:
Nhà tài trợ vốn cho gói thầu có yêu cầu tổ chức đấu thầu quốc tế;
Gói thầu mua sắm hàng hóa mà hàng hóa đó trong nước không sản xuất
được hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng,
giá. Trường hợp hàng hóa thông dụng, đã được nhập khẩu và chào bán tại Việt
Nam thì không tổ chức đấu thầu quốc tế;
Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, xây lắp, hỗn hợp mà
nhà thầu trong nước không có khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện gói thầu.
Vì vậy, trường hợp hàng hóa thuộc gói thầu mua sắm là thông dụng, đã được
nhập khẩu và cung cấp bởi các đại lý ở Việt Nam thì không được đấu thầu quốc tế
nếu không có yêu cầu của nhà tài trợ vốn cho gói thầu (Áp dụng đối với gói thầu
sử dụng vốn ODA.

- Trường hợp là hàng hóa trong nước không sản xuất được hoặc đặc thù,
phức tạp, tuy
đã được một số nhà thầu trong nước nhập khẩu để thực hiện dự án trước đó
thì vẫn phải áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế.
Câu 27: Trường hợp Dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước, Chủ đầu
tư có được ký hợp đồng trực tiếp với Ban quản lý dự án chuyên ngành, ban quản lý
dự án đầu tư xây dựng khu vực để cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý dự án theo quy
định điều 16 mục 2 Nghị định số 59/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý dự án
đầu tư xây dựng không?
Trả lời:
Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định các hình thức lựa chọn nhà thầu
gồm: Đấu thầu rộng rãi; đấu thầu hạn chế; chỉ định thầu; chào hàng cạnh tranh;


mua sắm trực tiếp; tự thực hiện. Pháp luật về đấu thầu không quy định lựa chọn
nhà thầu theo hình thức trực tiếp ký hợp đồng như quy định tại Nghị định số
59/2015/NĐ-CP nêu trên. Theo đó, trường hợp gói thầu tư vấn quản lý dự án thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 thì Chủ đầu tư phải tiến
hành lựa chọn nhà thầu theo quy định của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 và Nghị
định số 63/2014/NĐ-CP và các văn bản pháp lý liên quan. Trường hợp gói thầu tư
vấn quản lý dự án có giá không vượt quá 500 triệu đồng thì được áp dụng hình
thức chỉ định thầu theo quy trình rút gọn (quy định tại điều 56, Nghị định số
63/2014/NĐ-CP.
Câu 28: Theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 12 Quyết định số 83/QĐTTg ngày 16/11/2010 của Thủ tướng chính phủ, các gói thầu trồng rừng được phép
chỉ định thầu. Như vậy các gói thầu trồng rừng không thuộc hạn mức chỉ định thầu
quy định tại điều 54 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP có được áp dụng chỉ định thầu
hay không?
Trả lời:
Việc áp dụng hình thức chỉ định thầu chỉ được áp dụng khi gói thầu thuộc
các trường hợp chỉ

định thầu quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 và
điều 54 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, đồng thời đáp ứng điều kiện chỉ định thầu
quy định tại khoản 2 Điều 22 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13. Theo quy định tại
khoản 1 điều 73 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 và khoản 2 điều 100 Nghị định số
63/2014/NĐ-CP đối với những dự án do mình đầu tư, người có thẩm quyền của Dự
án có trách nhiệm xem xét phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu trong đó bao gồm
hình thức chỉ định thầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của
mình.
Đối với các gói thầu về trồng rừng thì người có thẩm quyền của Dự án đối
chiếu các trường hợp được chỉ định thầu và các điều kiện áp dụng chỉ định thầu
theo quy định nêu trên để xem xét, tự quyết định theo thẩm quyền và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Trường hợp không đáp ứng các quy
định này thì áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu khác phù hợp theo quy định của
pháp luật về đấu thầu.
Câu 29: Hợp đồng gốc của gói thầu đã đấu thầu rộng rãi trước đó ngoài danh
mục hàng hóa theo giá CLF còn có phần chi phí vận chuyển và các chi phí liên
quan đến vận chuyển theo yêu cầu của HSMT. Đối với gói thầu tương tự sau đó áp
dụng mua sắm trực tiếp có được tính phần chi phí vận chuyển đó để áp dụng theo
đơn giá gốc không?
Trả lời:
Việc áp dụng mua sắm trực tiếp cần thực hiện theo các quy định tại khoản 2
Điều 24 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 và điểm c, khoản 4 Điều 60 Nghị định số


63/2014/NĐ-CP, theo đó, đơn giá của hàng hóa áp dụng mua sắm trực tiếp có thể
là đơn giá thuần (giá của hàng hóa, sản phẩm) hoặc là đơn giá đã bao gồm các chi
phí về vận chuyển, bảo hiểm, thuế…với điều kiện phải so sánh trên cùng một mặt
bằng với đơn giá đã ký hợp đồng trước đó. Trường hợp có sự thay đổi về địa điểm
vận chuyển, giao hàng thì nhà thầu và bên mời thầu có thể thương thảo về đơn giá
trên cơ sở phù hợp với giá cả thị trường và giá trị hợp đồng mua sắm trực tiếp phải

nhỏ hơn 130% so với giá trị hợp đồng đã ký trước đó.
Câu 30: Việc chỉ định thầu cung ứng thuốc theo quy định tại khoản 5 điều 79
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP có bị hạn chế về số lượng không?
Trả lời:
Tại khoản 5 điều 79 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định “Thuốc đã có
trong danh mục thuốc thuộc kế hoạch lựa chọn nhà thầu cung cấp thuốc đã được
duyệt nhưng trong năm nhu cầu sử dụng vượt số lượng kế hoạch đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt”. Vì vậy, khi áp dụng chỉ định thầu gói thầu mua thuốc theo
quy định trên thì số lượng thuốc cần mua bổ sung phải căn cứ theo nhu cầu sử
dụng thuốc trong năm và bên mời thầu phải chứng minh được sự cần thiết về việc
mua số thuốc bổ sung đó để đảm bảo mục tiêu của công tác đấu thầu là minh bạch,
cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
Câu 31: Trung tâm tư vấn X (có con dấu, tài khoản riêng) là đơn vị sự
nghiệp công lập, hạch toán tài chính độc lập và trực thuộc sở Y. Sở Y đang được
giao nhiệm vụ là CĐT gói thầu A (gói thầu A có nội dung phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của trung tâm X).
Hỏi: CĐT sở Y có thể giao cho Trung tâm X thực hiện gói thầu A theo hình
thức tự thực hiện được ko?
Trả lời:
Theo Điều 25 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định Tự thực hiện được
áp dụng đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua sắm trong trường hợp tổ chức
trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm
đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
Theo Điều 61 và Khoản 1 Điều 62 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định
điều kiện được áp dụng hình thức tự thực hiện bao gồm: (i) Có chức năng, nhiệm
vụ, lĩnh vực hoạt động và ngành nghề kinh doanh phù hợp với yêu cầu của gói
thầu; (ii) Phải chứng minh và thể hiện trong phương án tự thực hiện về khả năng
huy động nhân sự, máy móc, thiết bị đáp ứng yêu cầu về tiến độ thực hiện gói thầu;
(iii) Đơn vị được giao thực hiện gói thầu không được chuyển nhượng khối
lượng công việc với tổng số tiền từ 10% giá gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá gói

thầu nhưng trên 50 tỷ đồng.
Theo đó, việc áp dụng hình thức tự thực hiện phải tuân thủ quy định nêu
trên. Mặc dù Trung tâm tư vấn X là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Y về
mặt tổ chức, nhưng lại hạch toán tài chính độc lập với Sở Y nên việc Sở Y giao cho


Trung tâm Tư vấn X thực hiện gói thầu A do Sở làm chủ đầu tư theo hình thức tự
thực hiện là không phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu.
Câu 32: Cơ quan A có đơn vị sự nghiệp hạch toán kế toán độc lập là trung
tâm B. Cơ quan A là chủ đầu tư gói thầu X, vậy cơ quan A có được giao cho trung
tâm B thực hiện gói thầu X theo hình thức tự thực hiện không?
Trả lời:
Tại Điều 25 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định “Tự thực hiện được
áp dụng đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua sắm trong trường hợp tổ chức
trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm
đáp ứng yêu cầu của gói thầu”. Mặt khác, Tại Điều 61 Nghị định số 63/2014/NĐCP quy định về điều kiện áp dụng hình thức tự thực hiện: Việc áp dụng hình thức
tự thực hiện phải được phê duyệt trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu" trên cơ sở tuân
thủ quy định tại Điều 25 của Luật Đấu thầu và đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Có chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động và ngành nghề kinh doanh phù
hợp với yêu cầu của gói thầu;
Phải chứng minh và thể hiện trong phương án tự thực hiện về khả năng huy
động nhân sự, máy móc, thiết bị đáp ứng yêu cầu về tiến độ thực hiện gói thầu;
Đơn vị được giao thực hiện gói thầu không được chuyển nhượng khối lượng
công việc với tổng số tiền từ 10% giá gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá gói thầu
nhưng trên 50 tỷ đồng.
- Tại khoản 1, Điều 62 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định: “Hồ sơ về
phương án tự thực hiện được lập bao gồm yêu cầu về phạm vi, nội dung công việc,
giá trị, thời gian thực hiện, chất lượng công việc cần thực hiện và dự thảo hợp đồng
hoặc thỏa thuận giao việc. Trường hợp gói thầu do đơn vị hạch toán phụ thuộc thực
hiện thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo hợp đồng. Trường hợp tổ

chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu không có đơn vị hạch toán phụ thuộc thì
trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo về thỏa thuận giao việc cho một
đơn vị thuộc mình thực hiện.
Theo đó, việc áp dụng hình thức tự thực hiện phải tuân thủ quy định nêu trên
vì vậy, trung tâm B là đơn vị sự nghiệp trực thuộc nhưng hạch toán kế toán độc lập
với cơ quan A. Vì vậy việc cơ quan A giao cho trung tâm B thực hiện gói thầu X do
cơ quan A làm Chủ đầu tư theo hình thức tự thực hiện là không phù hợp với quy
định của pháp luật về đấu thầu.
Câu 33: Đơn vị A tổ chức lựa chọn nhà thầu cung cấp máy tính theo hình
thức đấu thầu rộng rãi và nhà thầu B đã trúng thầu gói thầu này. Đơn vị A được áp
dụng mua sắm trực tiếp đối với mặt hàng máy tính mà nhà thầu B đã trúng thầu
bao nhiêu lần?
Trả lời:
Tại khoản 1, khoản 2 Điều 24 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định:


Mua sắm trực tiếp được áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa tương
tự thuộc cùng một dự án, dự toán mua sắm hoặc thuộc dự án, dự toán mua sắm
khác.
Mua sắm trực tiếp được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Nhà thầu đã trúng thầu thông qua đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế và
đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu trước đó;
Gói thầu có nội dung, tính chất tương tự và quy mô nhỏ hơn 130% so với
gói thầu đã ký hợp đồng trước đó;
Đơn giá của các phần việc thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không
được vượt đơn giá của các phần việc tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã ký hợp
đồng trước đó;
Thời hạn từ khi ký hợp đồng của gói thầu trước đó đến ngày phê duyệt kết
quả mua sắm trực tiếp không quá 12 tháng.
Theo đó, việc áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp được thực hiện theo quy

định nêu trên mà không có quy định cụ thể về số lần áp dụng. Tuy nhiên, việc áp
dụng mua sắm trực tiếp phải bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu
quả kinh tế, tránh tình trạng chia dự án, dự toán mua sắm thành các gói thầu trái
với quy định của pháp luật về đấu thầu nhằm mục đích hạn chế sự tham gia của các
nhà thầu vì đây là một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu theo quy định tại
điểm k khoản 6 điều 89 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13. Ngoài ra, trường hợp gói
thầu mua sắm thỏa mãn các điều kiện để được mua sắm trực tiếp nhưng không
mang lại hiệu quả kinh tế hoặc hàng hóa mà thị trường có su hướng giảm giá hoặc
có tính năng kỹ thuật được đổi mới theo hướng tốt hơn thì người có thẩm quyền
cần quy định không áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp mà nên chọn áp dụng
hình thức lựa chọn nhà thầu khác phù hợp hơn theo quy định của pháp luật về đấu
thầu.
Câu 34: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh X đang tiến hành thẩm định kế hoạch
lựa chọn nhà thầu một số gói thầu tư vấn thuộc dự án xây dựng quy hoạch đô thị
tỉnh tầm nhìn đến năm 2030. Theo quy đinh tại Nghị định số 37/2010/NĐ-CP, việc
lựa chọn gói thầu tư vấn lập quy họach được thực hiện thông qua hình thức chỉ
định thầu hoặc thi tuyển. Như vậy các gói thầu tư vấn lập quy hoạch đô thị của tỉnh
X có được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu không, kể cả đối với gói thầu có
giá trên hạn mức giá gói thầu thuộc trường hợp được áp dụng hình thức chỉ định
thầu theo quy định của Nghị định số 63/2014/NĐ-CP?
Trả lời:
- Tại điểm a, khoản 1 điều 1 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định “Dự
án đầu tư phát triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự


nghiệp công lập” thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Trong đó, dự án đầu tư
phát triển bao gồm cả dự án, đề án quy hoạch. Theo quy định tại khoản 1, điều 3
của Luật này, hoạt động đấu thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này phải tuân
thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Tại Điều 11, Luật quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12 quy định việc lựa chọn
tổ chức tư vấn lập quy hoạch được thực hiện thông qua hình thức chỉ định hoặc thi
tuyển. Như vậy pháp luật về quy hoạch không quy định đối với gói thầu lựa chọn
tư vấn lập quy hoạch thì đương nhiên áp dụng chỉ định thầu. Nghị định số
37/2010/NĐ-CP (Điều 12) quy định cơ quan tổ chức lập quy hoạch đô thị thực
hiện việc chỉ định tổ chức tư vấn lập quy hoạch đô thị theo quy định của pháp luật
về chỉ định thầu.
Theo quy định của pháp luật về đấu thầu, chỉ định thầu chỉ được thực hiện
đối với gói thầu nêu tại các khoản a, b, c, d, đ khoản 1 Điều 22 Luật đấu thầu số
43/2013/QH13 hoặc gói thầu thuộc hạn mức chỉ định thầu theo quy định tại Điều
54 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP. Do vậy, đối với trường hợp này, nếu gói thầu tư
vấn lập quy hoạch đô thị thuộc các trường hợp chỉ định thầu đã nêu trên và đáp
ứng đủ điều kiện chỉ định thầu quy định tại khoản 2, điều 22 Luật đấu thầu số
43/2013/QH13 thì được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu. Trường hợp gói
thầu không thuộc các trường hợp được chỉ định thầu thì phải áp dụng hình thức lựa
chọn nhà thầu khác cho phù hợp.
Câu 35: Công ty cổ phần A là công ty con trực thuộc tập đoàn B chuẩn bị tổ
chức lựa chọn nhà thầu một số gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu
thầu số 43/2013/QH13. Công ty cổ phần A có được phép sử dụng kết quả đấu thầu
rộng rãi của tập đoàn B hoặc các công ty con trong cùng tập
đoàn để áp dụng mua sắm trực tiếp hay không?
Trả lời:
Tại khoản 1, Điều 24 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định: Mua sắm
trực tiếp được áp dụng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa tương tự thuộc cùng
một dự án, dự toán mua sắm hoặc thuộc dự án, dự toán mua sắm khác. Như vậy,
đối với trươngf hợp của công ty cổ phần A, nếu tập đoàn B hoặc các công ty con
trong cùng tập đoàn đã tổ chức đấu thầu rộng rãi hoặc hạn chế và đã lựa chọn được
nhà thầu cho một gói thầu nào đó thì công ty cổ phần A có thể căn cứ kết quả đấu
thầu này để áp dụng hinhg thức mua sắm trực tiếp đối với gói thầu thuộc dự án do
mình là chủ đầu tư có nội dung tương tự với gói thầu nêu trên đồng thời đáp ứng

đầy đủ các điều kiện khác quy định tài Điều 24 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13.
Tuy nhiên cần lưu ý việc áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp phải được phê duyệt
trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu để làm cơ sở tổ chức đấu thầu.


Câu 36: Công ty liên Doanh X đã tổ chức đấu thầu rộng rãi quốc tế một gói
thầu mua sắm hàng hóa thuộc dự án xây dựng nhà máy ván ép. Tuy nhiên, chỉ có
03 nhà thầu nộp HSDT và tất cả đều không đáp ứng yêu cầu nêu trong HSMT.
Trong trường hợp này để rút ngắn thời gian chuẩn bị xây dựng nhà máy ván ép nêu
trên. Công ty liên doanh X có thể áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với gói thầu
chưa lựa chọn được nhà thầu sau khi đấu thầu rộng rãi quốc tế hay không?
Trả lời:
Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 15, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13, quy định
về việc tổ chức đấu thầu quốc tế: Việc tổ chức đấu thầu quốc tế để lựa chọn nhà
thầu chỉ được thực hiện khi đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: Gói thầu mua
sắm hàng hóa mà hàng hóa đó trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất được
nhưng không đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, giá. Trường hợp hàng hóa
thông dụng, đã được nhập khẩu và chào bán tại Việt Nam thì không tổ chức đấu
thầu quốc tế; Như vậy, gói thầu này tổ chức đấu thầu quốc tế khi phì hợp các tiêu
chí ở trên.
Trường hợp, sau khi đánh giá HSDT chủ đầu tư kết luận không có nhà thầu
nào đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu (cả ba nhà thầu đều được đánh giá không
đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm) thì BMT phải báo cáo Chủ đầu tư để
tiến hành hủy thầu theo quy dịnh tịa Điều 17, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13.
-Trường hợp, Đế bảo đảm tiến độ xây dựng nhà máy, chủ đầu tư cũng không
thể áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với gói thầu trên, Vì Chỉ định thầu chỉ áp
dụng cho các trường hợp được quy định cụ thể tại Điều 22 Luật đấu thầu số
43/2013/QH13 và mục I, chương V, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP và phải trên cơ
sở Phê duyệt điều chỉnh Kế hoạch đấu thầu. Cho nên, nếu BMT không tiến hành
hủy thầu và đấu thầu quốc tế lại mà lại áp dụng hình thức chỉ định để lựa chọn nhà

thầu thực hiện là vi phạm pháp luật về đấu thầu, không đảm bảo cạnh tranh, công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Câu 37: Gói thầu mua phần mềm diệt vi rút cho hệ thống thông tin thuộc dự
án “Nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin” của Chủ đầu tư A có giá gói thầu là 250
triệu. Gói thầu cần những điều kiện gì để được áp dụng hình thức chỉ định thầu rút
gọn? ngoài ra, trong quá trình thực hiện chỉ định thầu rút gọn, chủ đầu tư có phải
thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu hay không?
Trả lời:
Tại điểm e, khoản 1 Điều 22 quy định về một trong các trường hợp áp dụng
chỉ định thầu “Gói thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá gói thầu
trong hạn mức được áp dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ”. và tại khoản 1 Điều 54 Nghị định
số 63/2014/NĐ-CP quy định hạn mức chỉ định thầu như sau: “Không quá 500 triệu
đồng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, dịch vụ công;
không quá 01 tỷ đồng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp, mua
thuốc, vật tư y tế, sản phẩm công”. Vì vậy,


với trường hợp nêu trên, gói thầu được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu
rút gọn theo quy định tại khoản 2 điều 56 NDD/2014/NĐ-CP.
Trình tự thực hiện chỉ định thầu rút gọn như sau:
Chuẩn bị và gửi dự thảo HĐ cho nhà thầu được Chủ đầu tư xác định đủ năng
lực và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu;
Thương thảo, hoàn thiện HĐ;
Trình, phê duyệt và công khai kết quả lực chọn nhà thầu;
Ký kết hợp đồng.
Như vậy, với hình thức chỉ định thầu rút gọn, việc thẩm định kết quả lựa
chọn nhà thầu không phải là yêu cầu bắt buộc. tuy nhiên, trong trường hợp Chủ
đầu tư thấy cần thiết thì vẫn có thể yêu cầu đơn vị có chức năng thẩm định nội
dung này, làm cơ sở xem xét phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.

Ngoài ra, dù gói thầu trong hạn mức được áp dụng hình thức chỉ định thầu
nhưng để thực hiện chỉ định thầu , gói thầu phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện
theo quy định nêu tại khoản 2, điều 22 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13.
Câu 38: Trong Quyết định phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu, gói thầu X
áp dụng hình thức tự thực hiện. Khi thực hiện gói thầu này, chủ đầu tư giao cho
đơn vị hạch toán phụ thuộc mình nhưng đơn vị này không đủ năng lực thực hiện
toàn bộ gói thầu. Vậy việc áp dụng hình thức tự thực hiện trong trường hợp này có
phù hợp không?
Trả lời:
Tại Điều 25 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định: “Tự thực hiện được
áp dụng đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua sắm trong trường hợp tổ chức
trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm
đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
Theo quy định tại khoản 3, điều 61 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, một trong
các điều kiện để áp dụng hình thức tự thực hiện là “Đơn vị được giao thực hiện gói
thầu không được chuyển nhượng khối lượng công việc với tổng số tiền từ 10% giá
gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá gói thầu nhưng trên 50 tỷ đồng”
Đối với tình huống trên, trường hợp đơn vị dự kiến được giao thực hiện gói
thầu hạch toán phụ thuộc với Chủ đầu tư và có năng lực kỹ thuật, tài chính kinh
nghiệm để thực hiện toàn bộ các phần công việc của gói thầu thì việc áp dụng hình
thức tự thực hiện là phù hợp.
Tuy nhiên, trường hợp đơn vị dự kiến được giao thực hiện gói thầu chỉ thực
hiện được một phần công việc của gói thầu, phần công việc còn lại của gói thầu
phải giao cho đơn vị khác với giá trị từ 10% giá gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá
gói thầu nhưng trên 50 tỷ đồng thì việc áp dụng hình thức tự thực hiện là không


×