Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

FTU_ NHÓM 10 đề tài 7 nghiên cứu ngưỡng chịu đựng nợ công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.36 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KhoaTài chính Ngân hàng

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH CÔNG

NGHIÊN CỨU NGƯỠNG CHỊU ĐỰNG NỢ CÔNG
VIỆT NAM

1.
2.
3.

Giáo viên hướng dẫn:
Lớp:
Nhóm 10:
Phạm Quỳnh Anh
Bùi Thị Thúy
Trịnh Ngọc Huyền

PGS TS. Nguyễn Thị Lan
TCH431(20192).1
1713330008
1713330102
1713330052

1


Hà Nội, tháng 3 năm 2020
MỤC LỤC


2


Mục lục bảng:

3


Mục lục hình:

4


PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010 đã làm suy giảm nhanh chóng và đáng kể các
hoạt động kinh tế trong môi trường toàn cầu hóa. Trong tình hình đó, từ những nước nghèo
nhất ở châu Phi đến những quốc gia có thị trường mới nổi như Việt Nam, Campuchia hay
những quốc gia có thị trường đã phát triển như Mỹ, Nhật, Liên Minh Châu Âu đều buộc phải
nới lỏng chính sách tài khóa, đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu, kích thích nền kinh
tế nhằm chống lại sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, điều này đã làm gia tăng tỷ lệ nợ
của các quốc gia này. Sự gia tăng nhanh chóng trong nợ nần, tuy là không lớn so với các
nước công nghiệp hóa, nhưng vẫn đặt ra câu hỏi về tính bền vững của nợ và không gian tài
khóa của các nước này có đủ để đối đầu với cuộc khủng hoảng trong tương lai.Thực tế trên
thế giới cho thấy những cuộc khủng hoảng nợ công diễn ra khi chính phủ quốc gia đó không
thể trả nợ đúng hạn, cả nợ gốc và lãi, nên phải tuyên bố phá sản hoặc cầu cứu sự trợ giúp
quốc tế.
Trên thế giới, nợ công và quản lý nợ công đã được nghiên cứu từ lâu nhưng ở Việt Nam chỉ
mới được đề cập nhiều trong những năm gần đây, nhất là sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ
(2007-2009) và khủng hoảng nợ công châu Âu (2009-2011), khi nợ công đang gia tăng

nhanh chóng và sắp vượt ngưỡng an toàn. Thực tế cho thấy, chỉ số nợ công của Việt Nam về
mặt danh nghĩa vẫn ở mức an toàn (năm 2016 nợ công ở mức 64,7% GDP, tiệm cận mức
trần cho phép của Quốc hội là 65% - theo báo cáo của Bộ Tài chính), tuy nhiên lại có xu
hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, cùng với áp lực trả nợ trong ngắn hạn đang đến
gần và năng lực trả nợ còn hạn chế. Do vậy, nợ công của Việt Nam đang tiềm ẩn nhiều rủi
ro, nên triển vọng là không bền vững. Câu hỏi được đặt ra là: Ngưỡng chịu đựng nợ công
của Việt Nam là bao nhiêu để không rơi vào tình trạng vỡ nợ? Chính phủ Việt Nam cần có
những chính sách gì để quản lý nợ công an toàn và bền vững?
Để giải quyết câu hỏi trên thì bài tiểu luận của chúng em nghiên cứu về đề tài: “Nghiên cứu
ngưỡng chịu đựng nợ công Việt Nam” . Bài tiểu luận tiến hành phân tích, nghiên cứu các lý
thuyết xây dựng ngưỡng chịu đựng nợ công trên thế giới, từ đó, nhóm tác giả tiến hành xây
5


dựng ngưỡng chịu đựng nợ công Việt Nam theo phương pháp định lượng và đưa ra các
khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao tính bền vững của nợ công Việt Nam.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích:
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về nợ công, ngưỡng chịu đựng nợ công. Trên cơ sở phân tích
thực trạng nợ công và xây dựng ngưỡng chịu đựng nợ của Việt Nam, tiểu luận đề xuất các
giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy trình xác định ngưỡng chịu đựng nợ
công và quản lý nợ công bền vững.
Nhiệm vụ:
(1) Làm rõ khái niệm ngưỡng chịu đựng nợ công, tổng hợp các phương pháp đánh giá
ngưỡng chịu đựng nợ công
(2) Tiến hành mô hình hồi quy ước lượng ngưỡng chịu đựng nợ công Việt Nam.
(3) Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tính bền vững nợ công Việt Nam trong thời
gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận tập trung nghiên cứu về những phương pháp tiếp cận xây

dựng ngưỡng chịu đựng nợ công và xây dựng ngưỡng chịu đựng nợ công Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Số liệu về các biến số kinh tế từ các trang IMF, WB, và các trang số
liệu uy tín liên quan đến lịch sử vỡ nợ của 30 quốc gia, số liệu Việt Nam được lấy từ WB và
cổng thông tin Bộ tài chính.
Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, cấu trúc của tiểu luận được xác định như sau:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu.
Chương 2: Kết quả và thảo luận ngưỡng chịu đựng nợ công của Việt Nam.
Chương 3: Kết luận và gợi ý chính sách, kiến nghị giải pháp.
Lời cảm ơn
6


Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ph.D Nguyễn Thị Lan đã hướng dẫn nhóm tác giả thực
hiện bài nghiên cứu về ngưỡng chịu đựng của nợ công Việt Nam.
Bài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót nên nhóm tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp, đánh giá từ Ph.D Nguyễn Thị Lan để có thể hoàn thiện hơn nữa trong tương lai.

7


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài
1.1.1 Tổng quan nghiên cứu nước ngoài
-

Nghiên cứu về khả năng chịu đựng nợ của Reinhart, Carmen và Rogo, Kenneth
và Savastano, Miguel 2003


Bài viết này giới thiệu khái niệm về “khả năng chịu đựng nợ” mà biểu hiện trong tình trạng
cực kỳ khó khăn mà nhiều thị trường mới nổi trải qua ở mức nợ dường như có thể kiểm soát
được theo tiêu chuẩn quốc gia tiên tiến. Tác giả lập luận rằng ngưỡng an toàn đối với các
khoản nợ bên ngoài đối với các quốc gia không dung nạp nợ là thấp, có thể thấp tới 15%
trong một số trường hợp. Các ngưỡng này phụ thuộc vào lịch sử lm phát và lạm phát của
một quốc gia. Khả năng chịu đựng nợ có liên quan đến hiện tượng vỡ nợ nối tiếp đã làm khổ
nhiều quốc gia trong hai thế kỷ qua.
Mục tiêu nghiên cứu: Thực hiện bước đầu tiên trong việc định lượng khả năng chịu đựng
nợ, bao gồm phân định nợ trên cơ sở lịch sử các sự kiện tín dụng có từ những năm 1820 cho
hơn 100 quốc gia.
Trong nghiên cứu này, các tác giả đã đưa ra ngưỡng nợ có thể bắt đầu làm tăng nguy cơ vỡ
nợ đối với các nước có “khả năng duy trì nợ” thấp là 35% GDP. Qua quan sát của nhóm
nghiên cứu cho thấy. Hơn một nửa các nước với lịch sử tín dụng lành mạnh có tỷ số nợ nước
ngoài trên GDP thấp hơn 35% (và 47% có tỷ số nợ nước ngoài thấp hơn 30%). Ngược lại,
đối với những quốc gia có một lịch sử tín dụng tương đối xấu, một ngưỡng tỷ lệ nợ nước
ngoài trên GDP trên 40%. Nếu không tính đến các nhân tố cụ thể của bất kỳ quốc gia nào để
giải thích “khả năng chịu đựng nợ”, chúng ta có thể thấy, khi nợ nước ngoài vượt quá 30%
đến 35% của GDP, “khả năng chịu đựng nợ” của một nước sẽ kém đi, rủi ro của tín dụng bắt
đầu tăng lên đáng kể..
-

Nghiên cứu về khả năng chịu đựng nợ được áp dụng cho Trung Mỹ, Panama và
Cộng hòa Dominican- Geoffrey J. Bannister và Luis-Diego Barrot - 2011
8


Bài viết này trình bày một phương pháp thay thế để tính các mục tiêu nợ bằng cách sử dụng
tài liệu không dung nạp nợ của Reinhart, Rogoff và Savastano (2003) và Reinhart và Rogoff
(2009). Phương pháp được trình bày cải thiện trên các bài báo trước bằng cách sử dụng
phương pháp bảng động, sửa lỗi cho tính nội sinh trong các biến hồi quy và dựa trên tính

toán các mục tiêu nợ theo xếp hạng tín dụng, một tiêu chí khách quan hơn. Ngoài ra, nghiên
cứu sử dụng một cơ sở dữ liệu mới về nợ chính phủ nói chung bao gồm 120 quốc gia trong
hơn 21 năm. Bài viết cho thấy một bảng xếp hạng của các quốc gia Trung Mỹ, Panama và
Cộng hòa Dominican (CAPDR) về khả năng không dung nạp nợ Một số chỉ số có thể được
sử dụng để điều tra thêm các thành phần chính của không dung nạp nợ.
Điểm chuẩn các tính toán về IIR và nợ cho mỗi quốc gia trong năm 2010, kết quả ước tính
kinh tế lượng có thể được sử dụng để tính IIR tham chiếu cho các mức nợ khác nhau. Chọn
IIR tương ứng với mục tiêu xếp hạng tín dụng mong muốn sau đó cho phép tính mức nợ sẽ
mang lại xếp hạng tín dụng IIR / tín dụng mong muốn, tất cả những thứ khác đều bằng nhau.
Chọn cùng một mục tiêu IIR cho tất cả các quốc gia mang lại mức nợ có thể được coi là một
chỉ số không dung nạp nợ, cho phép so sánh giữa các quốc gia.
Đối với Panama và Costa Rica, mục tiêu là đạt đến cấp độ IIR sẽ đưa họ vào hạng đầu tư rõ
ràng. Các quốc gia này đã giảm mức nợ trên GDP năm 2010 xuống 7 và 12 điểm tương ứng
để đạt được mục tiêu này. Đối với El Salvador, Guatemala và Cộng hòa Dominican, mục
tiêu sẽ là đạt đến cấp độ IIR cho phép họ bắt đầu được coi là ứng cử viên để nâng cấp lên
cấp đầu tư (cấp đầu tư mơ hồ). Điều này sẽ đòi hỏi những nỗ lực đáng kể trong việc giảm nợ
cho Cộng hòa Dominican (22,6 điểm phần trăm) và El Salvador (17,3 điểm phần trăm),
nhưng ít hơn đối với Guatemala (12,7 điểm phần trăm). Đối với Honduras và Nicaragua, nơi
có ít hoặc không có quyền truy cập vào thị trường tín dụng có chủ quyền quốc tế tư nhân,
mục tiêu là để đạt được một đánh giá cho phép họ bắt đầu xem xét một số loại tiếp cận thị
trường hạn chế. Tuy nhiên, các số tham chiếu được tính toán ở đây sẽ phải được điều chỉnh
theo mức độ nhượng bộ của khoản nợ chung để làm cho chúng có thể so sánh với các quốc
gia khác trong khu vực.

9


Bài viết này đề xuất một chỉ số như vậy, được tính là mức nợ cần thiết ở mỗi quốc gia để đạt
đến một mức IIR nhất định (trong trường hợp của tác giả là IIR là 50)
-


Balbir Kaur và Atri Mukherjee, “Threshold Level of Debt and Public Debt
Sustainability: The Indian Experience”, tập 33, số 1 và 2, 2012.

Bài báo hướng đến việc đánh giá tính bền vững của nợ công ở Ấn Độ trong bối cảnh gồm
các chỉ số khác nhau. Ngoài ra, các tác giả cũng nỗ lực để kiểm tra mối quan hệ giữa nợ
công và tăng trưởng trong bối cảnh Ấn Độ. Các tác giả đã cung cấp một bản tóm tắt mô tả
các kênh khác nhau thông qua đó thấy được mức nợ công cao là do tăng trưởng tác động,
cùng lạm phát và các biến kinh tế vĩ mô khác.
Về lý thuyết sử dụng trong bài viết, các tác giả cũng đã đưa ra tổng quan tài liệu liên quan
đến việc xác định mức ngưỡng của nợ dựa trên cả hai mối quan hệ nợ tăng trưởng và khía
cạnh tính bền vững của nợ ngân sách.
Mô hình phân tích: Để đánh giá tính bền vững của nợ công ở Ấn Độ, các tác giả đã thông
qua phân tích dựa trên chỉ số từ bài tập thực nghiệm. Phân tích thực nghiệm được thực hiện
trong bài viết này tập trung vào ước lượng giới hạn ngân sách liên và chức năng của chính
sách ngân sách phản ứng để đánh giá tính bền vững của chính sách ngân sách mở rộng ở Ấn
Độ.
Các kết quả chỉ ra rằng khoản nợ có vị trí ở Ấn Độ bền vững trong dài hạn. Các ước tính
cũng cho thấy rằng có một sự hợp tác mối quan hệ giữa chi tiêu chung của chính phủ và
doanh thu trong Ấn Độ - mối quan hệ phù hợp với hạn chế ngân sách hiện tại. Kết quả thực
nghiệm cũng tiết lộ rằng có điểm yếu trong thống kê ngân sách. Ngưỡng mức độ tỷ lệ nợ
chung của chính phủ đối với Ấn Độ đạt tới 61%, vượt quá mối quan hệ nghịch đảo được
quan sát giữa nợ và tăng trưởng. Mức ngưỡng này là thấp hơn mức nợ thực tế ở mức 66,0%
GDP vào cuối tháng 3 năm 2013. Điều này đòi hỏi tập trung nhiều hơn vào một ngân sách
đáng tin cậy để củng cố quy mô, bảo vệ chống lại các động thái nợ bất lợi.
-

Mô hình Cây nhị phân- Paolo Manasse and Nouriel Roubini (2005), Rules of
Thumb for Sovereign Debt Crises, IMF working paper No. 05/42


10


Bài viết này chứa một cuộc điều tra thực nghiệm về tập hợp các điều kiện kinh tế và chính
trị có liên quan đến khả năng xảy ra khủng hoảng nợ có chủ quyền. Tác giả sử dụng một
phương pháp thống kê mới (Cây nhị phân) thấy rằng không phải tất cả các cuộc khủng
hoảng đều như nhau: chúng khác nhau tùy thuộc vào việc chính phủ có phải đối mặt với khả
năng mất khả năng thanh toán, tính thanh khoản hoặc các rủi ro kinh tế vĩ mô khác nhau hay
không.
Theo tác giả, hầu hết các cuộc khủng hoảng nợ có thể được phân thành ba loại: i) các giai
đoạn mất khả năng thanh toán (nợ cao và lạm phát cao) hoặc nợ không bền vững do nợ cao
và thanh khoản kém; ii) các giai đoạn của tính thanh khoản kém, trong đó gần vỡ nợ được
thúc đẩy bởi các cổ phiếu lớn của các khoản nợ ngắn hạn so với dự trữ ngoại hối; và iii) các
điểm yếu của vĩ mô và tỷ giá hối đoái (đánh giá quá cao và cú sốc tăng trưởng âm). Ngược
lại, một loại quốc gia không có rủi ro tương đối rủi ro được mô tả bởi một số đặc điểm kinh
tế: tổng nợ nước ngoài thấp liên quan đến khả năng thanh toán, nợ ngắn hạn thấp so với dự
trữ ngoại hối, nợ nước ngoài công khai thấp so với doanh thu tài chính và trao đổi tỷ lệ
không được định giá quá cao. Sự bất ổn chính trị và điều kiện tiền tệ chặt chẽ trên thị trường
tài chính quốc tế làm trầm trọng thêm vấn đề thanh khoản.
-

Nghiên cứu của Pienkowski (2017) tại “ Debt Limits and the Structure of Public
Debt”

Nghiên cứu dựa trên đánh giá khả năng vỡ nợ của Chính phủ để xây dựng mô hình xác định
trần nợ. Nếu nợ công chạm ngưỡng giới hạn này thì chính phủ sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Trong mô hình này, Pienkowski đã cung cấp một khuôn khổ có thể sử dụng để đánh giá cấu
trúc của các công cụ nợ để có thể tăng trần nợ công của một quốc gia. Mô hình cho thấy
không có một trần nợ công nào tối ưu cho tất cả các nước. Các nước thu nhập thấp dễ bị tổn
thương trước các cú sốc bên ngoài nên có ngưỡng an toàn nợ công cơ bản thấp nhất, nên tập

trun vào việc giảm thiểu vay nợ ngoại tệ. Các nước thu nhập thấp có thể tìm thấy lợi ích
trong việc phát hành nợ nội tệ. Trong khi đó, nhóm các nước phát triển ít bị tổn thương trước
các cú sốc hơn nên cps lợi thế lớn nhất từ việc sử dụng trái phiếu liên kết GDP để nâng trần
nợ công lên một mức đáng kể.
11


-

Nghiên cứu của nhóm chuyên gia IMF (2016)

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Nợ công của Việt Nam đã tăng mạnh và nguy cơ xảy ra khủng
hoảng nợ công đã tăng lên, chủ yếu đến tự nợ trong nước. Dự báo sơ bộ của nhóm nghiên
cứu của IMF, nợ công của Việt Nam đến năm 2021 có thể sẽ tăng lên 70% GDP, rủi ro về nợ
công sẽ gia tăng trong thời gian tới. Tỷ lệ nợ nước ngoài của Việt Nam so với GDP dự kiến
sẽ tăng trong ngắn hạn nhưng vẫn ở mức vừa phải. Tuy nhiên, nợ nước ngoài của Việt Nam
có thể bị tổn thương do sự mất giá củ đồng nội tệ và những cú sốc tài khoản vãng lai.
Bảng tổng hợp kết quả nghiên cứu
Ngưỡng
nợ (% của
GDP)

Tác giả

Phương pháp tiếp cận

25

IMF (2003)


Đảm bảo tính bền vững của chính
sách tài khóa (lịch sử thặng dư cơ
bản)

25

IMF (2008,
2009)

Chính sách tài khóa phản chu kỳ

35 - 40

Pattillo (2002)

38

Mati (2005)

40

Smyth (1995)

50

60-75

Cohen (1997);
Manasse,
Roubini và

Schimmelpfenni
g (2003)
IMF (2008,
2009)

Hạn chế tác động từ cuộc khủng
hoảng
Tối ưu hóa tố độ tăng trưởng bằng
cách giảm nguy cơ “chèn lấn”
Tối ưu hóa tố độ tăng trưởng bằng
cách giảm nguy cơ “chèn lấn”

Phạm vi quốc gia

Thị trường mới nổi
Thị trường mới nổi
Các nước đang phát triển
Indonesia
United States

Hạn chế tác động từ cuộc khủng
hoảng

Các nước đang phát triển

Chính sách tài khóa phản chu kỳ

Các nước công nghiệp

64


Caner et al.
(2010)

Uớc lượng bình phương nhỏ nhất
ngưỡng

Các nước đang phát triển

77

Caner et al.
(2010)

Uớc lượng bình phương nhỏ nhất
ngưỡng

Các nước công nghiệp

90

Reinhart and
Rogoff (2010)

Biểu đồ liên quan nợ đối với phát
triển

Các nước công nghiệp

Reinhart and

Rogoff (2010)
Kumar and Woo
(2010)

Biểu đồ liên quan nợ đối với phát
triển

Thị trường mới nổi

Phương trình tốc độ tăng trưởng

Tất cả các nước

90
90

12


170-180

Ostry et al.(2010)

Đảm bảo tính bền vững của chính
sách tài khóa (hàm phản ứng tài
khóa)

Các nước công nghiệp

1.1.2 Tổng quan nghiên cứu trong nước

-

Hải An, “Nợ công: Ngưỡng nào là an toàn?”, Tạp chí Tài chính, 2014.

Bài viết đề cập đến vấn đề nợ công, các tác động cũng như quản lý nợ công, và xem xét đến
ngưỡng nợ công để tránh xảy ra khủng hoảng. Bài viết đã đưa ra quan điểm: Không phải lúc
nào nợ công cao cũng sẽ ngay lập tức mang lại những kết quả là khủng hoảng, bởi thực tế
trên thế giới cho thấy những cuộc khủng hoảng nợ công chỉ diễn ra khi chính phủ quốc gia
nào đó không thể trả nợ đúng hạn, cả nợ gốc và nợ lãi. Bài viết cũng đưa ra định nghĩa của
Manasse, Roubini và Schimmelpfennig (2003): “Một quốc gia được cho là bị khủng hoảng
về nợ công nếu được Standard & Poor’s xếp hạng là vỡ nợ, hoặc được nhận một khoản vay
không ưu đãi lớn của IMF”. Bài viết cũng đưa ra ý kiến của đại diện thường trú của IMF tại
Việt Nam - TS. Benedict Bingham: Ngưỡng nợ công là thông số hữu ích nhưng chỉ nhìn vào
cái ngưỡng đó là chưa đủ. Hay các chuyên gia đến từ Chương trình hỗ trợ phát triển của
Liên hiệp quốc (UNDP), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) cũng
nhấn mạnh không nên dựa quá nhiều vào ngưỡng nợ để nói về ngưỡng an toàn cho nợ công.
Tất cả các ý kiến được đưa ra để chứng minh rằng, bên cạnh việc quan tâm ngưỡng nợ công
thì cũng cần quan tâm đến việc phải hiểu được phạm vi, quy mô và chất lượng nợ thực chất
như thế nào, bao nhiêu phần trăm để thúc đẩy tăng trưởng ngắn hạn, dài hạn…
-

Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam theo mô hình cây nhị phânNguyễn Thị Lan

Khung phân tích: Tác giả đã sử dụng phương pháp đánh giá theo mô hình Cây nhị phân của
Manasse, P. và Roubini, N. (2005) - một trong những phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy
cao, được IMF, WB và các nhà nghiên cứu thừa nhận, là khung phân tích phục vụ cho bài
nghiên cứu này.

13



Kết quả và kết luận liên quan: Thông qua kết quả phân tích nợ công theo mô hình cây nhị
phân của Manasse và Roubini (2005), có thể nhận định rằng: Việt Nam hoàn toàn khó có khả
năng xảy ra khủng hoảng nợ công trong ngắn hạn.
Kết quả nghiên cứu về thực trạng quy mô và cơ cấu nợ công Việt Nam giai đoạn 2011- 2016
cho thấy: Nợ công của Việt Nam đang có biểu hiện tính thiếu bền vững, do nợ công Việt
nam đã bộc lộ các rủi ro tiềm ẩn như: tốc độ gia tăng nợ công ở mức đáng báo động (tăng
17,5%/năm), lãi suất vay trong nước khá cao (7,6%/năm), kỳ hạn vay bình quân thấp (4,8
năm) nên rủi ro lãi suất cao, áp lực trả nợ lớn, buộc Chính phủ phải tiếp tục vay để đảo nợ…
Hơn nữa, trong thời gian tới, rủi ro nợ công Việt Nam có thể gia tăng, do nhiều yếu tố bất
ổn.
Ngoài ra, rủi ro nợ công của Việt Nam hiện nay, chủ yếu là từ nợ trong nước do nợ trong
nước có kỳ hạn ngắn, lãi suất cao nên áp lực trả nợ lớn. Nợ nước ngoài tuy quy mô khá lớn
(44,3%GDP) nhưng nhờ có được các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế, được hưởng
lãi suất thấp và kì hạn dài nên gánh nặng trả nợ hàng năm là tương đối thấp trong những
năm tới. Do vậy, rủi ro nợ nước ngoài của Việt Nam trong thời gian tới là khá thấp.
-

Nghiên cứu của Phạm Thế Anh và cộng sự (2013)

Nghiên cứu “Hiệu ứng ngưỡng của nợ công và hàm ý chính sách cho Việt Nam” của tác giả
Phạm Thế Anh và cộng sự năm 2014. Nghiên cứu sử dụng mẫu dữ liệu mảng của 78 quốc
gia mới nổi và đang phát triển giai đoạn 2001- 2011 cho thấy rằng ngưỡng nợ công giữa các
quốc gia khác nhau thì khác nhau, dao động trong khoảng 12-57% GDP. Nợ công dưới 33%
GDP sẽ có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê khi
dưới 12% GDP. Trên ngưỡng 33%, đóng góp biên của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế là
nhỏ hơn không, tuy nhiên tác động tiêu cực chỉ có ý nghĩa thống kê khi nợcông vượt ngưỡng
57% GDP.
-


Nghiên cứu “Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt Nam giai
đoạn 2014 – 2020” của Đào Văn Hùng và cộng sự (2014)
14


Nghiên cứu đã đưa ra đánh giá: Nợ công của Việt Nam hiện có mức độ rủi ro vỡ nợ thấp
nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nên triển vọng là không bền vững.
Báo cáo nghiên cứu tại Hội thảo “Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt
Nam giai đoạn 2014 - 2020” đã chỉ ra những rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng tới an toàn nợ công.
Hình 1: Tỷ lệ nợ công/GDP
của
Việt
Nam
so với các nước trong khu vực
và trên thế
giới
năm
2013
Đơn vị: % GDP
120

108,5
95,7

100
79,7

80
60
40


54,2

54,3
35,3

20
0

Việt Nam (theo Luật Quản
Bình
lý nợ
quân
công)
7 nước ASEAN
Bình quân cácBình quân thếBình quân các Bình quân các
nước đang phát triển
giới
nước phát triểnnước EU

Nguồn: Báo cáo nghiên cứu “Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt Nam giai
đoạn 2014 - 2020” (Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Theo Nhóm nghiên cứu, Việt Nam là nước có thu nhập trung bình thấp, dân số đang già hóa
nhanh, năng suất lao động bình quân thấp và giảm dần, gây áp lực lớn khiến nợ công tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Năm 2013, thu nhập bình quân của Việt Nam đạt gần
2.000 USD/người/năm, thấp hơn Phi-líp-pin (4.700 USD) và In-đô-nê-xi-a (5.200 USD).
Bên cạnh đó, Việt Nam lại thuộc nhóm nước có năng suất lao động thấp trong khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, trong đó thấp hơn so với Singapore 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn
Quốc 10 lần, Ma-lai-xi-a 5 lần, Thái Lan 2,5 lần.

Bội chi lớn hơn chi đầu tư phát triển, tổng thu từ thuế và phí nhỏ hơn chi thường xuyên
cũng tác động đến tính bền vững ngân sách nhà nước (NSNN) và nợ công, tạo ra rủi ro lớn
cho NSNN trong trung và dài hạn. Theo dự toán NSNN năm 2014, bội chi NSNN là 224
nghìn tỷ đồng, chi đầu tư phát triển 163 nghìn tỷ đồng. Năm 2013, chi thường xuyên cao
15


hơn thu từ thuế và phí 113,4 nghìn tỷ đồng, dự toán năm 2014 cao hơn 165,4 nghìn tỷ đồng.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ chính phủ/thu NSNN và nghĩa vụ trả
nợ công/thu NSNN đang ở mức cao và có xu hướng tăng, từ mức 22,6% và 33,39% năm
2013 lên con số dự kiến là 32,51% và 45,93% năm 2015.

1.1.3 Khoảng trống nghiên cứu
Nhìn chung, có rất ít các nghiên cứu trong nước và nước ngoài xác định ngưỡng chịu đựng
nợ của các quốc gia. Các nghiên cứu trong nước đã tiếp cận các vấn đề như: “Đánh giá tính
bền vững nợ công theo mô hình cây nhị phân” (Nguyễn Thị Lan – 2016), “Hiệu ứng ngưỡng
của nợ công và hàm ý chính sách cho Việt Nam” (Phạm Thế Anh và cộng sự 2013), nghiên
cứu của Sử Đình Thành về ngưỡng nợ tối ưu…. Tuy nhiên chưa có mô hình nghiên cứu nào
đưa ra ngưỡng chịu đựng nợ hay ngưỡng nợ tại đó quốc gia có thể xảy ra khủng hoảng.
Do đó, nhóm chúng em tiến hành xây dựng mô hình hồi quy để tìm ra ngưỡng chịu đựng nợ
công, với dư liệu lịch sử từ 30 quốc gia đã từng xảy ra khủng hoảng nợ trong quá khứ, từ đó
tìm ra ngưỡng chịu đựng nợ của Việt Nam.

1.2 Cơ sở lý thuyết và khung phân tích ngưỡng chịu đựng của nợ công
1.2.1 Một số khái niệm liên quan đến nợ công và ngưỡng chịu đựng nợ công
1.2.1.1 Cơ sở lý thuyết về nợ công
-

Khái niệm và phương pháp tính nợ công


Có 3 quan điểm về nợ công: theo quan điểm của Việt Nam, của ngân hàng thế giới (WB) và
theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).


WB (2015): Nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn chủ thể bao gồm: (1) nợ của
chính phủ trung ương và các bộ, ban, ngành trung ương; (2) nợ của các cấp chính
quyền địa phương; (3) nợ của ngân hàng trung ương và (4) nợ của các thể chế độc
lập, nhưng nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách nhà nước quyết định (trên 50%
vốn thuộc sở hữu nhà nước) và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay cho
các thể chế đó.

16




IMF (2010): nợ công được hiểu là nghĩa vụ trả nợ của khu vực công. Đi kèm với đó
là định nghĩa cụ thể về khu vực công, bao gồm khu vực Chính phủ và các khu vực tổ
chức công (Hình 2)
Hình 2: Định nghĩa về khu vực công

Nguồn: IMF


Luật quản lý nợ công Việt Nam (2009) được xem là một bước tiến bộ lớn trong hệ
thống văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Theo Bộ Luật này thì nợ công
bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa
phương.
 Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước và vay nước
ngoài được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc

các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành
theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm các khoản nợ do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ.
 Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước và nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
17


 Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
So với quy ước của IMF, thống kê nợ công của Việt Nam chưa quy định cách tính về nợ
công ròng, phạm vi các khoản mục trong tổng nợ công nhỏ hơn quy ước của IMF do loại
trừ: các khoản vay, nhận tiền gửi, phát hành tiền của NHNN; quyền rút vốn đặc biệt của
IMF; các khoản bảo hiểm xã hội, hưu trí; các khoản tiền gửi, các khoản trả trước tại các tổ
chức sử dụng vốn ngân sách ngoài Chính phủ.
Như vậy, định nghĩa của IMF đầy đủ và chi tiết hơn nhiều so với Luật quản lý nợ công của
Việt Nam và của WB. Tuy nhiên khó có thể nói là có sự khác biệt lớn giữa các định nghĩa
này, do có thể coi các khoản nợ của khu vực của các tổ chức công là các khoản nợ mà chính
phủ sẽ bảo lãnh trong trường hợp các tổ chức này vỡ nợ. Do có sự khác biệt đó nên mới có
sự khác nhau trong cách tính nợ công của Việt Nam và các nước trên thế giới.
-

Phân loại nợ công

Nhằm mục đích nâng cао chất lượng quản lý và sử dụng nợ công, trên cơ sở đó thiết
lậр chính sách vау nợ hiệu quả, thì cần thiết рhải đưа rа những tiêu chí рhân lоại nợ
công thích hợр.



Căn cứ vàо nguồn gốc địа lý củа vốn vау, nợ công gồm có hаi lоại
 Nợ trоng nước: Nợ trоng nước là nợ công mà bên chо vау là cá nhân, tổ
chức Việt Nаm.
 Nợ nước ngоài: Nợ nước ngоài là nợ công mà bên chо vау là Chính рhủ

nước ngоài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân
nước ngоài. Như vậу, thео рháр luật Việt Nаm, nợ nước ngоài không được
hiểu là nợ mà bên chо vау là nước ngоài, mà là tоàn bộ các khоản nợ công
không рhải là nợ trоng nước.
Việc рhân lоại nợ trоng nước và nợ nước ngоài có ý nghĩа quаn trọng trоng quản lý nợ.
Việc рhân lоại nàу về mặt thông tin sẽ giúр хác định chính хác hơn tình hình cán cân
thаnh tоán quốc tế. Và ở một số khíа cạnh, việc quản lý nợ nước ngоài còn nhằm đảm
bảо аn ninh tiền tệ củа Nhà nước Việt Nаm, vì các khоản vау nước ngоài chủ уếu bằng
18


ngоại tệ tự dо chuуển đổi hоặc các рhương tiện thаnh tоán quốc tế khác.


Căn cứ vàо рhương thức huу động các khоản nợ, nợ công được рhân thành
 Các khоản nợ huу động bằng рhát hành trái рhiếu Chính рhủ: рhủ là các

khоản nợ dо Bộ Tài chính рhát hành nhằm huу động vốn chо ngân sách
nhà nước hоặc huу động vốn chо công trình, dự án đầu tư cụ thể.
 Nợ dо Chính рhủ bảо lãnh: là khоản nợ củа dоаnh nghiệр, tổ chức tài

chính, tín dụng vау trоng nước, nước ngоài được Chính рhủ bảо lãnh
 Nợ ОDА: là khоản vау nhân dаnh Nhà nước, Chính рhủ Việt Nаm từ nhà
tài trợ là chính рhủ nước ngоài, tổ chức tài trợ sоng рhương (như WB,

IMF, АDB…); tổ chức liên quốc giа hоặc tổ chức liên chính рhủ (như
NGОs) có уếu tố không hоàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với
khоản vау có ràng buộc, 25% đối với khоản vау không ràng buộc.


Căn cứ vàо tính chất ưu đãi củа các khоản nợ, nợ công gồm có hаi lоại
 Các khоản nợ thương mại: là những khоản vау nợ dựа trên quаn hệ cung

cầu về vốn vау trên thị trường, lãi suất dо thị trường quуết định, không
chịu bất cứ ràng buộc nàо về các điều kiện kinh tế hау chính trị.
 Các khоản nợ ưu đãi: là các khоản vау nợ có điều kiện ưu đãi hơn sо với

vау thương mại nhưng ưu đãi không đạt thео tiêu chuẩn chung củа ОDА.


Căn cứ vàо thời hạn, nợ công được рhân thành
 Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở хuống)
 Nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm)
 Nợ dài hạn (trên 10 năm)

-

Nợ bền vững

Trong ít nhất hai thập kỷ qua, có hai cách tiếp cận chung cho khái niệm tính bền vững của
nợ công như sau: Một cách cho rằng khi mức lãi suất mà một chính phủ đi vay không thể lớn
hơn tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế, vì vậy tỷ số nợ trên GDP không tăng, và khi đó nợ
19



không bền vững không diễn ra (nghĩa là nợ luôn bền vững). Cách tiếp cận khác cho rằng nếu
có một giới hạn đối với giá trị hiện tại của các khoản vay mượn, thì điều này có thể hạn chế
lượng vay mượn, do đó đây sẽ là tiêu chí chính để đạt được tính bền vững.
Theo ông Habib Rab, Chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới (WB), một số
nước có tỷ lệ nợ công /GDP cao nhưng vẫn được coi là bền vững , ngược lại một số nước
tỷ lệ nợ công thấp nhưng bị coi là không bền vững. Như vậy, đánh giá tính bền vững cũng
như khả năng trả nợ của một quốc gia không chỉ dựa vào quy mô nợ công mà chịu tác
động bởi một số nhân tố mang tính quyết định, đặc biệt là chất lượng của những chính
sách cũng như thể chế của quốc gia để quản lý ngân sách . Những chính sách và thể chế
này bao quát rất nhiều vấn đề như đảm bảo chất lượng đầu tư công, xác định ưu tiên cho
những dự án xây dựng cơ bản hay đầu tư phát triển, chất lượng của quá trình lâpp̣ ngân
sách, thực thi ngân sách, chất lượng của quá trình huy động NSNN cũng như những thể
chế chính sách đề đảm bảo kỷ luật tài khóa, hay như thâm hụt ngân sách ở mức kiểm soát
được. Những chính sách này sẽ tác động tới triển vọng kinh tế của quốc gia, điều này laị
quyết định mức nợ có bền vững hay không. Ông Habib Rab nhận định, tình hình nợ công
hiện tại của Việt Nam vẫn bền vững nhưng khối nợ đang tăng nhanh khiến khả năng ứng
phó với các cú sốc tương lai có thể bị suy giảm đáng kể.
Theo Ngân hàng thế giới (WB. 2006, A Guid o LIC Debt Substainability Analysis) thì: “ Nợ
công nước ngoài của một quốc gia được coi là bền vững nếu như các nghĩa vụ nợ (trả gốc và
lãi) được thực hiện một cách đầy đủ mà không cần sử dụng đến các biện pháp tài trợ ngoại lệ
(ví dụ như xin miễn giả), hoặc không cần phải thực hiện những điều chỉnh lớn đối với cán
cân thu nhập và chi tiêu của mình.
1.2.1.2 Cơ sở lý thuyết về ngưỡng chịu đựng nợ công
-

Khái niệm ngưỡng chịu đựng nợ công

Khái niệm “khả năng chịu đựng nợ” (Debt intolerance) lần đầu tiên được giới thiệu bởi
Reinhart, Rogoff và Savastano (2003): “ Một quốc gia được cho là bị khủng hoảng về nợ
công nếu được Standard & Poor’s xếp hạng là vỡ nợ, hoặc nhận được một khoản vay không

ưu đãi vượt 100% hạn mức của IMF”.
20


Một số quốc gia dường như là không chịu đựng được nợ (tức là dễ vi phạm nghĩa vụ trả nợ
liên tiếp) thậm chí ở mức nợ nước ngoài trên GDP tương đối thấp – một hội chứng mà họ
gọi là không có “khả năng chịu đựng nợ”.
Các nước không có “khả năng chịu đựng nợ” sẽ gặp các vấn đề về thanh toán và vỡ nợ nước
ngoài ở mức nợ có thể là quản lý dễ dàng ở các nước tiên tiến, chủ yếu ở chỗ mất lòng tin
của thị trường, lãi suất leo thang, và đấu tranh chính trị để trả nợ nước ngoài.
-

Phân biệt ngưỡng chịu đựng và ngưỡng tối ưu.

Ngưỡng chịu đựng nợ công có thể hiểu là ngưỡng nợ công tối đa mà quốc gia đó có thể chịu
đựng cho tời khi xảy ra vỡ nợ (Nguyễn Thị Lan -2019). Trong khi đó “ngưỡng nợ công tối
ưu” là ngưỡng nợ công mà tại đó quy mô nợ công được xem như mức nợ thận trọng, đảm
bảo tính bền vững của chính sách tài khóa và tối ưu hóa tăng trưởng kinh tế (Đào Văn Hùng
và cộng sự -2014).
Ngưỡng chịu đựng nợ công và Ngưỡng nợ công tối ưu đều được đo bằng tỷ lệ nợ công/GDP.
Hình 3: Ngưỡng nợ tối ưu và ngưỡng chịu đựng nợ công

Nguồn: Nguyễn Thị Lan (2019)

Như vậy, “ngưỡng nợ công tối ưu” có ý nghĩa trong việc xác định ngưỡng nợ mà tại đó làm
tối ưu hóa lợi ích mà nợ công đem lại cho nền kinh tế. Trong khi, “ngưỡng chịu đựng nợ
21


công” có ý nghĩa trong dự báo khủng hoảng nợ, góp phần đề xuất các giải pháp nhằm nâng

cao tính bền vững của nợ công và phòng tránh nguy cơ xảy ra rủi ro vỡ nợ.
-

Các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới
• Khủng hoảng nợ châu Mỹ Latin 1980

Khủng hoảng nợ của châu Mỹ Latin manh nha từ những năm 1970 và diễn ra vào những
năm 1980. Trong giai đoạn đó, các nước Mỹ Latin, điển hình như Brazil, Argentina và
Mexico đã vay nợ nước ngoài quy mô lớn, với mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp
trong nước và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đồng thời, trong giai đoạn này, các nước xuất khẩu
dầu mỏ cũng thu về một khoản lớn nhờ giá dầu mỏ tăng nhanh, sau đó, sử dụng khoản tiền
này để đầu tư vào các ngân hàng trên thế giới. Cũng bởi vậy, Mỹ Latin được các tổ chức tài
chính cho vay với những điều khoản dễ dãi.
Tuy nhiên, đến đầu những năm 1980, các nước Mỹ Latin bắt đầu gặp khó khăn trong việc trả
những khoản nợ này. Từ giữa năm 1975-1982, các khoản nợ công của các nước Mỹ Latin
đối với các tổ chức tài chính và ngân hàng thế giới tăng với tỉ lệ gộp hàng năm lên đến trên
20%, khiến tổng nợ vay lên đến hơn 315 tỉ USD năm 1983. Cùng thời điểm trên, do lạm
phát cao, Mỹ đã phải đưa ra chính sách thắt chặt, dẫn đến lãi suất tăng cao vào năm 1979.
Đồng thời, lãi suất cũng tăng mạnh ở Châu Âu khiến Mỹ và châu Âu trở nên hấp dẫn hơn
châu Mỹ Latin với đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó, kinh tế thế giới suy thoái những năm 1979,
1980 cũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng xuất khẩu của Mỹ Latin và đến tăng trưởng của
các nước này.
Như vậy, các quốc gia châu Mỹ Latin đã không còn có khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế
và khả năng trả nợ vay nước ngoài. Rủi ro nợ công này đã kéo dài trong nhiều năm và khủng
hoảng nợ bùng phát khi thị trường tài chính thế giới nhận thấy các nước này khó có thể trả
được các khoản nợ.
Đứng trước tình hình này, các nước châu Mỹ Latin đều nhận sự hỗ trợ của các tổ chức tài
chính lớn như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (World Bank) để có thể
duy trì trả nợ. Tuy nhiên, đổi lại, các nước này đều phải thực thi chính sách điều chỉnh cơ
cấu của IMF như cắt giảm ngân sách để giảm thâm hụt, duy trì tăng trưởng tín dụng thấp và

22


chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm chi tiêu trong nước và lạm phát, phá giá đồng nội tệ để
tăng cường xuất khẩu,… Còn với WB, họ tập trung thay đổi trong dài hạn và sâu rộng hơn.
Điều này khiến nền kinh tế nước châu Mỹ Latin kém phát triển, thu nhập bình quân đầu
người giảm mạnh, nghèo đói và sự bất bình đẳng xã hội càng gia tăng.


Khủng hoảng nợ Đông Á những cuối năm 1990

Trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước Đông Á đã có một thời kỳ phát
triển tốt với các dòng vốn nước ngoài quy mô lớn tập trung chảy vào và lượng xuất khẩu
tăng cao. Tuy nhiên, thất bại trong việc thực thi giám sát tài chính quốc gia, hậu quả của quá
trình tự do hoá tài chính, đã dẫn đến khủng hoảng nợ tư nhân.
Tăng trưởng kinh tế nhanh cùng với mức lãi suất cao ở các Đông Á đã hấp dẫn những nhà
đầu tư quốc tế tìm đến khu vực này. Năm 1996, Indonesia đã thu hút được xấp xỉ 18 tỉ USD
dòng vốn đầu tư tư nhân, Malaysia là 16 tỉ và Thái Lan là 13 tỉ ngay trước khủng hoảng. Tuy
nhiên, vấn đề ở chỗ sự bùng nổ tín dụng bởi các nguồn vốn từ nước ngoài lại được sử dụng
thiếu kiểm soát, và phần lớn đổ vào thị trường bất động sản và chứng khoán. Ở một số nước
như Thái Lan, rủi ro này còn gia tăng bởi chính sách tỉ giá neo theo USD khiến các tổ chức
tài chính ngân hàng và các công ty ưa thích vay nợ bằng ngoại tệ kỳ hạn ngắn cho những
quyết định đầu tư thiếu thận trọng.
Khủng hoảng tài chính Đông Á chính thức bắt đầu từ tháng 7/1997 với sự sụp đổ của đồng
bath Thái do các dòng vốn đồng loạt rút mạnh khỏi quốc gia này. Tại thời điểm đó, Thái Lan
đã có gánh nặng nợ nước ngoài lớn khiến quốc gia này lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản
trước khi đồng bath sụp đổ. Hiệu ứng đó lan toả sang các đồng tiền khác trong khu vực, dẫn
đến sự phá sản của nhiều tập đoàn lớn, đặc biệt là bất động sản.
Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan sang các nước Đông Á bao gồm Indonesia, Hàn Quốc, Thái
Lan, Hồng Kông, Malaysia, Philippines. Cuộc khủng hoảng tài chính đã chuyển sang suy

thoái nền kinh tế thực sự nghiêm trọng tại các nước. Đồng tiền các quốc gia bị phá giá, lạm
phát gia tăng, các tổ chức tài chính ngân hàng, các tập đoàn và công ty phá sản, nợ xấu gia
tăng, tăng trưởng kinh tế suy giảm và thất nghiệp gia tăng, thể hiện ở GDP của Indonesia
23


giảm tới 15% trong vòng một năm, Thái Lan và Malaysia cũng giảm xấp xỉ 10% GDP, trong
khi GDP của Hàn Quốc và Hồng Kông giảm lần lượt 3,8% và 2% trong quý đầu của năm
1998.
IMF đã phải khởi động chương trình cứu trợ trị giá 36 tỉ USD vào cuối năm 1997 và đầu
1998 để ổn định đồng tiền của các nước bị tác động mạnh nhất bởi khủng hoảng là Hàn
Quốc, Thái Lan và Indonesia, là một phần của toàn bộ các gói cứu giúp trị giá 100 tỉ USD,
nhưng đổi lại, các nước phải thực hiện những cải cách về cơ cấu và thực thi các chính sách
cần thiết để lấy lại niềm tin của cộng đồng quốc tế và chuẩn bị cho sự hồi phục kinh tế.


Khủng hoảng nợ công tại châu Âu

Cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng euro bắt đầu khi những thành viên của Liên
minh Châu Âu (EU) không thể tự ứng phó với vấn đề mất cân bằng tài khóa trong nước.
Những dấu hiệu đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ công đã bắt đầu từ năm 2009. Đến tháng
11, sau khủng hoảng nợ ở Dubai, tình trạng nợ công ở các nước châu Âu bắt đầu có chuyển
biến không tốt. Dấu hiệu khủng hoảng bắt đầu rõ hơn sau khi Hy Lạp thừa nhận (vào tháng
12/2009) tổng dư nợ lên tới 300 tỉ euro (tương đương 113% GDP).
Đến năm 2010, diễn biến nợ công của EU càng nghiêm trọng. Vào tháng 1, EU chỉ ra những
sai lệch trong quy trình hạch toán nợ công ở Hy Lạp. Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp năm
2009 được điều chỉnh lên 12,9% (thay vì 3,9% như công bố trước đó), cao hơn bốn lần so
với mức cho phép của EU. EU cũng bác bỏ khả năng Hy Lạp sẽ rời khỏi khu vực đồng euro.
Khi đó, đồng euro tiếp tục sụt giảm so với các đồng tiền chủ chốt.
Đến năm 2011, căng thẳng nợ công ở khu vực đồng euro tiếp tục tăng lên. Đến tháng 4, Bồ

Đào Nha phải thừa nhận mất khả năng ứng phó với các khoản nợ và yêu cầu EU giúp đỡ.
Lãi suất trái phiếu chính phủ của Tây Ban Nha và Ý cũng tăng mạnh. Định mức tín nhiệm
của Ý đã bị Standard&Poor’s cắt giảm từ A+ xuống A vào tháng 9. Cũng trong tháng 9, mặc
dù có tin đồn về khả năng xóa nợ cho Hy Lạp và tăng cường gói cứu trợ sau khi Hy Lạp
không thực hiện được mục tiêu cắt giảm ngân sách, song các nỗ lực nhằm đề ra các giải
pháp này đã không thành công.
24


Năm 2012, khủng hoảng nợ công vẫn tiếp diễn ở khu vực đồng euro. Đầu tháng 1,
Standard&Poor’s đã hạ định mức tín nhiệm của Pháp và tám thành viên khác, cũng như hạ
định mức tín nhiệm của Quỹ Hỗ trợ ổn định tài chính của châu Âu.
Nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ này được cho rằng là do tăng trưởng
tín dụng ở mức cao, phần lãi suất cho trích lập rủi ro thấp, dư thừa thanh khoản, đòn bẩy tài
chính ở mức cao, tăng giá tài sản và bong bóng ở khu vực bất động sản.
Một nguyên nhân quan trọng có liên quan đến cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu ở nhiều
quốc gia chính là việc tăng chi, giảm thu ngân sách nhà nước trong khi thiếu kiểm soát chặt
chẽ. Do phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu khởi đầu
từ Mỹ, nhiều nền kinh tế phát triển ở châu Âu đã tiến hành các biện pháp kích thích kinh tế,
bao gồm cả các biện pháp tài khóa. Mặc dù góp phần vào phục hồi kinh tế ở tầm quốc gia và
khu vực, song các biện pháp này cũng để lại hệ lụy không nhỏ cho các nước thực hiện, khi
áp lực đối với thâm hụt ngân sách và nợ công tăng dần.
Tác động kinh tế của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu là không nhỏ. Cuộc khủng hoảng
nợ công châu Âu đã trực tiếp làm tổn thất hàng ngàn tỉ USD thu nhập tài chính của các nước
thành viên EU, do giá trị của đồng euro giảm so với các đồng tiền chủ chốt khác. Điều này
ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ cấu sản xuất và tiêu dùng ở trong khu vực, nhất là khi các
sản phẩm nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn nhiều. Mặt khác, việc phải tập trung rất nhiều nguồn
lực tài khóa để chống đổ vỡ ở các nước vay nợ nhiều (Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,
v.v...) đã làm giảm các nguồn lực công phục vụ cho việc tái thiết lập lại nền kinh tế sau
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2007-2008.


1.2.2 Các lý thuyết liên quan Ngưỡng chịu đựng nợ công
1.2.2.1 Phương pháp đánh giá nợ công theo mô hình cây nhị phân .
Mô hình cây nhị phân của Manasse và Roubini (2005) với công trình: ““Rules of Thumb for
Sovereign Debt Crises” (IMF working paper, 2005, No. 05/42)
Mục đích của nghiên cứu là cung cấp câu trả lời cho các câu hỏi cơ bản như: “Những điều
kiện kinh tế và chính trị nào liên quan đến thực nghiệm với khả năng xảy ra khủng hoảng nợ
25


×