Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ trong ca dao, dân ca

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201 KB, 6 trang )

32

ngôn ngữ & đời sống

số 8

(190)-2011

Ngôn ngữ với văn chơng

Các từ đa tiết phơng ngữ nam bộ
trong ca dao, dân ca
trần đức hùng
(Đại học Đồng Tháp)

1. V ni dung v ngh thut, th ca dõn
gian Nam B cng mang nhng c im
chung nh th ca dõn gian cỏc vựng khỏc.
Song, th ca dõn gian Nam B cng cú nhng
c trng riờng. L sỏng tỏc dõn gian, th ca
dõn gian Nam B l li n ting núi ca con
ngi ni õy - nhng con ngi khai phỏ
vựng t mi phng Nam. Thiờn nhiờn mờnh
mụng sụng nc, mnh t trự phỳ, hoang s,
cuc sng lao ng gn vi sụng nc, tõm
hn tỡnh cm chõn cht hn hu nhng ý chớ
mnh m, tt c nhng nột riờng ú c th
hin m nột trong CDDC ca ngi Nam B
m trc ht l cht liu ngụn ng. Ngoi
phng tin ngụn ng chung, v t ng, trong
cỏc sỏng tỏc dõn gian Nam B, lp t a


phng, c bit l lp t a tit úng vai trũ
quan trng trong vic th hin ni dung v
ngh thut tỏc phm. Núi cỏch khỏc, s tri
nhn, cỏch nh danh s vt ca ch nhõn s
dng t ng ú c th hin rừ c phng
din hỡnh thc l cu to ca t.
T a phng a tit trong th ca dõn gian
l s phn ỏnh cỏc kiu dng kt hp t a
phng dựng trong giao tip hng ngy ó
c c nh húa. Tuy nhiờn, vn mụ hỡnh
cu to t ng a phng trong i sng giao
tip cng nh trong th ca dõn gian hin nay
cũn ớt c cỏc nh ngụn ng quan tõm nghiờn
cu. Ngi u tiờn cú th k n khi nghiờn
cu vn ny l tỏc gi Hong Trng Canh
vi bi vit c im cu to t a phng
Ngh Tnh [2]. Trong bi vit ny, tỏc gi ó
phõn loi c th t a phng Ngh Tnh

thnh 6 kiu quan h kt hp. V cu to t
ng a phng Nam B, tỏc gi Trn Th
Ngc Lang trong cun Phng ng Nam B
[6], cng ó tỡm hiu mt s kiu kt hp ca
t ng. Tuy nhiờn, tỏc gi mi ch xột chỳng
ch yu lp tớnh t v t lỏy. Vỡ th, chỳng
tụi tỡm hiu cu to ca lp t a tit trong
CDDCNB nhm cung cp ngun c liu quan
trng gúp phn nghiờn cu t a phng Nam
B c v cu to v nh danh.
tỡm hiu cu to ca t a phng Nam

B a tit, chỳng tụi ó tin hnh thng kờ ton
b t a phng trong ba tỏc phm c su
tm cụng phu quy mụ nht v th ca dõn ca
Nam B l: Ca dao - dõn ca Nam B ca
Bo nh Giang (ch biờn) [4]; phn Ca dao dõn ca trong Vn hc dõn gian ng bng
sụng Cu Long, ca Khoa Ng vn - i hc
Cn Th [5] v Ca dao - dõn ca Nam Kỡ lc
tnh ca Hunh Ngc Trng [9]. Ba tỏc phm
vi 5629 bi CDDCNB, chỳng tụi ó thu thp
c 914 t a phng. Da theo s lng
õm tit xột v cu to phõn chia s t a
phng thu c, kt qu phõn loi cỏc loi t
a phng Nam b cú mt trong CDDCNB
nh sau:
Bng 1: T a phng trong ca dao - dõn
ca Nam B xột v cu to
T a phng
T n tit
T a
trong CDDC Nam
tit
B
S lng
477
437
T l %
52,2
47,8
Tng
914



Sè 8

(190)-2011

ng«n ng÷ & ®êi sèng

Qua bảng thống kê, chúng ta thấy, số lượng
từ đơn tiết là 477 từ (chiếm tỉ lệ 52,2%), số
lượng từ đa tiết là 437 từ (chiếm tỉ lệ 47,8%).
Như vậy, số lượng từ đơn tiết và từ đa tiết gần
như tương đương nhau. Các lớp từ địa phương
trong CDDCNB cùng với lớp từ toàn dân đã
đảm trách vai trò chức năng thi ca, một chức
năng giao tiếp đặc thù - giao tiếp bằng ngôn
ngữ nghệ thuật dân gian. Hiện thực cuộc sống,
con người, thiên nhiên, sản vật vùng Nam Bộ
hiện lên trong CDDC rất khác với thơ ca dân
gian các vùng khác. Sự khác biệt đó có thể do
nhiều lí do, một trong các lí do đó là sự khác
biệt về hiện thực, về văn hóa của vùng sông
nước. Văn học là nghệ thuật ngôn từ, tạo nên
bức tranh hiện thực sinh động ấy là vai trò của
từ ngữ trong đó có lớp từ địa phương. Do
mang đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa khác
nhau, mỗi lớp từ trong vai trò nghệ thuật có
những giá trị không giống nhau. Bức tranh
hiện thực trong CDDCNB vừa đa dạng vừa cụ
thể sinh động mang tính cá thể hóa, giàu sắc

thái biểu cảm. Thể hiện bức tranh riêng biệt đó
trước hết là do vai trò của lớp từ đa tiết. Bởi
như ta biết, cấu tạo của từ liên quan đến chức
năng, vai trò định danh của từ. Do vậy, trong
bài viết này chúng tôi tìm hiểu cấu tạo của lớp
từ địa phương Nam Bộ đa tiết về các khía
cạnh: thành phần yếu tố cấu tạo, các kiểu, các
mô hình kết hợp tạo từ ghép và láy địa phương
Nam Bộ. Để khảo sát miêu tả các nội dung cụ
thể, chúng tôi cố gắng đặt các yếu tố phương
ngữ trong sự đối lập với yếu tố toàn dân.
2. Một số kiểu kết hợp tạo từ chủ yếu của
từ địa phương trong ca dao, dân ca Nam Bộ
Đặt các yếu tố cấu tạo từ trong quan hệ đối
lập giữa phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân về
âm và nghĩa, căn cứ theo tính chất của các loại
yếu tố (là phương ngữ hay toàn dân) và quan
hệ, trật tự giữa chúng, chúng tôi chia từ đa tiết
địa phương Nam Bộ thành 7 kiểu và khái quát
thành các mô hình. Mô hình và số lượng từ đa
tiết mỗi loại được chúng tôi thể hiện cụ thể ở
bảng 2 như sau:

33

Bảng 2: Các mô hình cấu tạo từ đa tiết địa
phương Nam Bộ và số lượng, tỉ lệ từ mỗi loại
Các kiểu quan hệ
tạo từ đa tiết


STT

Số
lượng
từ

Tỉ lệ %

1

A + A’

láy

AA’

18

4,12

2

B + B’

láy

BB’

15


3,43

3

C + C’

láy

CC'

56

12,82

4

D+E

ghép

DE

169

38,67

5

G+H


ghép

GH

93

21,28

6

N+Z

ghép

NZ

61

13,96

7

F+X

FX

25

5,72


Tổng

437

100

ghép

2.1. Các kiểu kết hợp tạo từ láy trong
phương ngữ Nam Bộ
2.1.1. Kiểu kết hợp tạo từ láy AA’
Mô hình:
A + A’

láy

AA’

A: Yếu tố cơ sở có
nghĩa trong ngôn ngữ
toàn dân.
A’: Yếu tố láy được
tạo ra từ A.
AA’: Từ láy địa
phương Nam Bộ.

Đây là kiểu từ láy được tạo ra từ yếu tố gốc
có nghĩa đang được dùng độc lập với tư cách là
từ trong ngôn ngữ toàn dân, như: nứt, say, mỏi,
rỉ,… Các từ láy được tạo ra trong phương ngữ

từ các yếu tố này, đang được người dân Nam
Bộ quen dùng nhưng không có mặt trong vốn
từ toàn dân, chúng có nghĩa khác các từ láy
trong ngôn ngữ toàn dân cùng được tạo ra từ
một yếu tố gốc như thế. Các từ láy Nam Bộ có
mặt trong CDDC được tạo ra theo kiểu này
gồm 15 từ, chiếm tỉ lệ 3,43%, đó là những từ
như: nứt niểng, mỏi mê, xơ vơ, rã rượi,…
Để thấy rõ hơn sự khác biệt của từ láy
phương ngữ loại này so với từ láy toàn dân, có
thể so sánh nghĩa của từ láy xơ vơ (Nam Bộ)
với từ xơ xác (toàn dân). Từ yếu tố gốc xơ


ng«n ng÷ & ®êi sèng

34

trong ngôn ngữ toàn dân có nghĩa là “ở trình
trạng như chỉ còn trơ ra những xơ, sợi, do bị
mòn rách, hủy hoại”, ngôn ngữ toàn dân có từ
xơ xác chỉ “tình trạng không còn nguyên vẹn,
lành lặn, trông thảm hại. Nhà cửa xơ xác,
nghèo xơ nghèo xác” [7, tr.1157], phương ngữ
Nam Bộ có từ xơ vơ chỉ sự trơ trụi, bơ vơ
không có sức sống:
Trồng cây cũng muốn cây xanh,
Muốn chi lá rụng bỏ nhành xơ vơ.
(CDDCNB)
Như vậy, nếu như với từ xơ xác nét nghĩa

sắc thái hóa biểu trưng hóa của từ này là sự tả
tơi không lành lặn thì nét nghĩa biểu trưng của
từ xơ vơ lại là sự trơ trụi đơn độc gợi cảm giác
bơ vơ.
2.1.2. Kiểu quan hệ tạo từ láy BB’
Mô hình:
B + B’

láy

BB’

B: Yếu tố cơ sở mất
nghĩa trong ngôn ngữ
toàn dân.
B’: Yếu tố láy được
tạo ra từ A.
BB’: Từ láy địa
phương Nam Bộ.

Số lượng từ láy được tạo ra theo kiểu này có
mặt trong CDDCNB có 18 từ, chiếm tỉ lệ
4,12%. Các từ cấu tạo theo dạng này trong
CDDCNB như: dục dặc, chàng ràng, phì phà,
kèo nèo, dặc dặc, lăng líu, lăng quằng, riu
ríu…
Yếu tố cơ sở mất nghĩa trong ngôn ngữ toàn
dân (B) được chúng tôi xác định ở đây là
những yếu tố cổ trong tiếng Việt vốn trước đây
được dùng độc lập, được Huỳnh Tịnh Của

phản ánh trong cuốn Đại Nam quốc âm tự vị
nhưng nay đã mờ nghĩa, mất nghĩa, chỉ còn lưu
giữ dùng trong phương ngữ Nam Bộ. Trong
phương ngữ Nam Bộ, một số yếu tố trong loại
này do được dùng giao tiếp nên đã đóng vai trò
làm yếu tố cơ sở tham gia cấu tạo nên các từ
phương ngữ. Các từ được tạo ra từ các yếu tố
đó được xem là từ địa phương Nam Bộ. Trong
CDDCNB, nhóm từ này góp phần thể hiện nội
dung nghệ thuật, những sắc thái nghĩa riêng mà

sè 8

(190)-2011

hiện nay không có từ láy nào trong ngôn ngữ
toàn dân thay thế được nó, ví như:
Chẳng ưng thì nói buổi đầu,
Để chi lăng líu nửa chầu lại thôi.
(CDDC NB)
Theo cuốn Đại Nam quốc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của, lăng có nghĩa là “lấn lướt”
[3, tr. 542]. Lăng líu là từ được tạo ra từ lăng,
có nghĩa là: “1. líu lo, có nhiều âm thanh cao
và quyện vào nhau nghe vui tai; 2. Dan díu,
lăng nhăng, quan hệ tình cảm yêu đương
không trong sáng, lành mạnh” [8, tr.693]. Như
vậy, từ lăng líu trong bài ca dao trên được sử
dụng với nghĩa thứ hai.
2.1.3. Kiểu quan hệ tạo từ láy CC’

Mô hình:
C + C’

láy

CC’

C: Yếu tố cơ sở
phương ngữ.
C’: Yếu tố láy được
tạo ra từ C.
CC’: Từ láy địa
phương Nam Bộ.

Bên cạnh hai loại từ láy được tạo ra từ yếu
tố cơ sở gốc là từ toàn dân, chúng tôi còn thấy
trong phương ngữ Nam Bộ còn có lớp từ được
tạo ra từ yếu tố cơ sở mang tính chất phương
ngữ. Từ láy thuộc loại này có số lượng vượt
trội so với hai loại từ láy đã nói (gấp gần 3 lần),
gồm 56 từ, chiếm tỉ lệ 12,82% vốn từ phương
ngữ trong CDDCNB.
Theo mô hình này, yếu tố cơ sở để tạo ra từ
láy địa phương là yếu tố dùng trong phương
ngữ. Các từ được tạo ra từ các yếu tố loại này
như: bôn chôn, lương khương, lưu linh, xự
xang, liu điu, lòn xòn, bùm rùm, lắc lẻo, lịu địu,
xuê xang… Những từ này được dùng để phản
ánh cách đánh giá về sự vật, hiện tượng hay
tính cách của người Nam Bộ. Do các yếu tố

gốc cũng như từ láy loại này không được dùng
trong ngôn ngữ toàn dân nên nghĩa của chúng
thường là khó hiểu, khó hình dung đối với
những người ở các phương ngữ khác. Chẳng
hạn, trong phương ngữ Nam Bộ có từ xuê xang
có nghĩa gần với từ bảnh bao trong ngôn ngữ
toàn dân chỉ sự chải chuốt, chưng diện hơn


Sè 8

ng«n ng÷ & ®êi sèng

(190)-2011

mức bình thường, nhưng từ xuê xang mang sắc
thái riêng, toát lên vẻ sang trọng. Ví dụ:
Đeo dây chuyền đôi sợi hột vàng thả xuê
xang,
Anh liếc xem thục nữ đoan trang,
Bớ Ba Tư ơi,
Anh hỏi em có chốn dươn (duyên) vàng hay
chưa.
(CDDC NKLT)
Như vậy, có thể thấy rằng nếu không phải là
người Nam Bộ hoặc không tiếp xúc thường
xuyên với người Nam Bộ thì sẽ rất khó hiểu
trọn nghĩa của từ xuê xang này.
2.2. Các kiểu kết hợp tạo từ ghép trong
phương ngữ Nam Bộ

2.2.1. Kiểu quan hệ tạo từ ghép DE
Mô hình:
D+E

ghép

DE

D: Yếu tố có nghĩa
dùng độc lập trong
ngôn ngữ toàn dân.
E: Yếu tố có nghĩa
dùng trong phương
ngữ Nam Bộ.
DE: Từ ghép địa
phương Nam Bộ.

Đặt các từ phương ngữ trong quan hệ đối
lập với từ toàn dân về âm và nghĩa, những từ
ghép phương ngữ Nam Bộ được tạo ra theo
kiểu này hiện nay có một yếu tố trong từ đang
được dùng trong vốn từ toàn dân, yếu tố còn lại
có thể là dạng biến thể ngữ âm của yếu tố toàn
dân (kiểu như: bất nhơn, mỏng dánh) hoặc
không có quan hệ tương ứng ngữ âm nhưng
khác nghĩa hoặc tương đồng về nghĩa với yếu
tố toàn dân (kiểu như: lớn xộn, nướng trui,
buồm mền). Trong CDDCNB, đây là kiểu từ
ghép phương ngữ có số lượng nhiều nhất, gồm
169 từ, chiếm tỉ lệ 38,67% tổng số vốn từ đa

tiết. Xét theo tính chất quan hệ ngữ nghĩa giữa
các yếu tố, kiểu quan hệ tạo từ ghép này cũng
có hai loại như từ ghép trong vốn từ toàn dân là
từ ghép hợp nghĩa (kiểu như: phú quới, giang
san, nhớp nhơ,…) và từ ghép phân nghĩa (dạng
như: bao đành, bất nhơn, chín hườm, chua lét,
héo don, héo xàu, ướt nhem, mỏng dánh, hộp
quẹt, mình ên, non èo,…). Từ ghép được tạo ra

35

theo quan hệ giữa một yếu tố toàn dân, một
yếu tố phương ngữ như trên, chiếm số lượng
chủ yếu là loại từ ghép phân nghĩa. Điều đó
góp phần tạo ra ấn tượng về sắc thái phương
ngữ Nam Bộ về âm và nghĩa đậm nét trong
ngôn ngữ CDDC vùng này. Ví dụ:
Này em ơi, bánh nhiều lắm sao gọi là bánh
ít,
Chuối non èo sao gọi chuối già,
Đối như anh vậy, chắc là xứng đôi.
(CDDC NKLT)
Theo Từ điển tiếng Việt thì non có nghĩa
gốc là: “Ở giai đoạn mới mọc, mới sinh ra,
chưa phát triển đầy đủ” [7, tr.734]. Yếu tố này
ghép với èo thành non èo và mang sắc thái
nghĩa chỉ sự đánh giá “non quá mức, chưa có
được sự phát triển cần có” [7, tr.943]. Hiện
tượng sử dụng các yếu tố phương ngữ mang ý
nghĩa chỉ sự đánh giá về sự vật theo mức độ

như èo trong từ ghép phân nghĩa Nam Bộ là rất
nhiều, ví như: héo xàu, sang dới, êm rìu, ướt
nhem, tối hù, chút bẻo, vang dầy, cao nghệu,
mỏng dánh, rã bè, rã bèn, rộng thình…
2.2.2. Kiểu quan hệ tạo từ ghép GH
Mô hình:
G+H

ghép

GH

G: Yếu tố phương ngữ
Nam Bộ.
H: Yếu tố có nghĩa
trong ngôn ngữ toàn
dân.
GH: Từ ghép địa
phương Nam Bộ.

Cũng là loại từ ghép phương ngữ, trong
thành phần cấu tạo của từ có một yếu tố toàn
dân kết hợp với một yếu tố phương ngữ như
loại DE trên nhưng loại GH này trật tự ngược
lại, yếu tố phương ngữ đứng trước, yếu tố toàn
dân đứng sau. Ví dụ: hành hài, nhơn tình, bông
súng, bông tai,…). Kiểu quan hệ này tạo ra số
lượng từ khá nhiều, gồm 93 đơn vị, chiếm tỉ lệ
21,28% tổng vốn từ đa tiết.
Về yếu tố tạo từ, chúng tôi thấy G trong từ

ghép địa phương Nam Bộ có hai loại chủ yếu:
- Loại thứ nhất, yếu tố G được hình thành
theo quy luật biến đổi ngữ âm. Loại yếu tố này
có số lượng không nhiều, chỉ có 33 yếu tố. Tuy


ng«n ng÷ & ®êi sèng

36

nhiên, sự biến đổi ngữ âm lại khá đa dạng, có
thể ở phụ âm đầu, ở phần vần, ở thanh điệu
hoặc thanh điệu cùng âm đầu hay vần. Ví dụ:
hành hài, nộp tài, đờn tranh, huê kì, hường
nhan, nhơn hậu, sanh phương… Về nghĩa,
nghĩa của yếu tố biến âm địa phương loại này
tương đồng với yếu tố toàn dân.
- Loại thứ hai, yếu tố G là yếu tố khác âm
nhưng có nghĩa tương đồng với yếu tố toàn
dân, như: trét chai, ngó chừng, mần nên, bông
súng, bông tai, ghe chài, ghe bầu, mền nỉ…
hoặc yếu tố đó vừa khác âm vừa khác nghĩa
với yếu tố toàn dân, như: xí hụt, xí gạt, diên
biên, cù lao, sá bao, sá gì… Đây là loại yếu tố
mang đặc trưng riêng về âm và nghĩa của
phương ngữ Nam Bộ so với ngôn ngữ toàn
dân.
Xét về đặc điểm cấu tạo, cũng giống như
kiểu từ ghép DE, kiểu kết hợp tạo từ GH này
gồm có từ ghép hợp nghĩa và từ ghép phân

nghĩa. Trong đó, từ ghép phân nghĩa chiếm số
lượng chủ yếu (72 / 93 từ); đó là những từ như:
nộp tài, sanh chuyện, bình tích, bông súng…
2.2.3. Kiểu quan hệ tạo từ ghép NZ
Mô hình:
N+Z

ghép

NZ

N: Yếu tố phương
ngữ Nam Bộ.
Z: Yếu tố phương
ngữ Nam Bộ.
NZ: Từ ghép địa
phương Nam Bộ.

Đây là kiểu quan hệ kết hợp tạo từ ghép mà
cả hai yếu tố N và Z đều mang tính chất
phương ngữ. Các yếu tố trong từ loại này có
thể là yếu tố được tạo ra từ hiện tượng biến âm,
yếu tố khác âm nhưng có nghĩa tương đồng
hoặc là những yếu tố hoàn toàn không dùng
trong ngôn ngữ toàn dân. Số lượng từ được tạo
ra từ kiểu quan hệ này là 61 từ, chiếm tỉ lệ
13,96%. Tuy số lượng từ kiểu này không nhiều
so với tổng số từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ
trong CDDCNB, nhưng lớp từ này lại là
trường hợp đặc biệt không chỉ vì phần lớn

chúng không có quan hệ âm và nghĩa so với từ
toàn dân mà còn vì đây là lớp từ chỉ hiện

sè 8

(190)-2011

tượng, sản vật, phong tục tập quán, thói quen
nói năng mang đặc trưng riêng của vùng đất
Nam Bộ. Đó là những từ như: sầu riêng, trảng
lườn, hổng dè, mắc cỡ, xí gạt, ghe lườn, ghe
rổi, ngỡi trượng, ngỡi nhơn,... Khi được dùng
trong thơ ca dân gian, các từ ngữ loại này góp
phần tạo nên sắc thái đặc trưng vùng miền rất
rõ nét về lối nói, về cảnh quan, thiên nhiên, sản
vật đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ:
- Bần gie con hạc đậu cánh xòe,
Tưởng anh vô gá duyên chồng vợ, hổng dè
gạt em.
(CDDC NB)
- An Bình đất mẹ cù lao,
Thơm hương hoa bưởi, ngọt ngào nhãn
long,
Khách về nhớ mãi trong lòng,
Cù lao nho nhỏ bên dòng Tiền Giang.
(CDDC ĐBSCL)
2.2.4. Kiểu quan hệ tạo từ ghép FX
Mô hình:
F+X


ghép

FX

F: Yếu tố có nghĩa
trong ngôn ngữ toàn
dân.
X: Yếu tố có nghĩa
trong ngôn ngữ toàn
dân.
FX: Từ láy địa
phương Nam Bộ.

Lớp từ ghép được tạo ra theo kiểu quan hệ
kết hợp này là kiểu từ mà xét về thành phần
cấu tạo, các yếu tố trong từ đều có nghĩa, dùng
độc lập trong ngôn ngữ toàn dân nhưng xét về
quan hệ kết hợp tạo từ thì những tổ hợp này chỉ
xuất hiện trong phương ngữ mà không thấy có
mặt trong vốn từ toàn dân. Vì thế, chúng tôi
xem loại từ này là từ địa phương. Số lượng từ
ghép thuộc loại này chiếm số lượng không
nhiều trong CDDCNB, chỉ có 25 từ trong tổng
số 437 từ ghép mà chúng tôi khảo sát (chiếm
5,72%). Tuy nhiên, đây cũng là một trường
hợp đặc biệt không chỉ về thành phần cấu tạo
như đã nói, mà còn về nghĩa, các từ loại này
thường chỉ về sự vật, hiện tượng hay thói quen
nói năng mang đặc trưng riêng của vùng đất
nơi đây. Đó là những từ như: Kho tiêu, bánh

bò, chim vịt, cò ma, nước lên, nước ngập, nước


Sè 8

(190)-2011

ng«n ng÷ & ®êi sèng

lớn, nước nổi, nước đứng, bao đồng, tốt tuổi…
Trong CDDCNB chúng được sử dụng một
cách tự nhiên như ngôn ngữ giao tiếp thường
ngày:
Nước không chân sao kêu nước đứng,
Con cá không trèo sao gọi cá leo,
Ai mà đối đặng giàu nghèo em cũng ưng.
(CDDC NB)
Khi nghe các từ nước đứng, cá leo thì những
người ở các địa phương khác có cảm giác rất
quen mà cũng lạ bởi các yếu tố tham gia tạo nên
hai từ trên là những yếu tố có trong ngôn ngữ
toàn dân. Tuy nhiên, họ lại không hiểu được
nghĩa của chúng là gì nếu không được giải thích
cụ thể. Trong phương ngữ Nam Bộ, nước đứng
là “nước không chảy, nước ở thời điểm tiếp giáp
giữa nước dâng (nước lớn) và nước rút (nước
ròng)” [8, tr.957]; cá leo là “cá nheo, cá nước
ngọt, thân màu xám, không vẩy, đầu bẹt, miệng
rộng, có hai đôi râu đỏ” [8, tr.251].
3. Kết luận

Trên đây là những tìm hiểu của chúng tôi về
mô hình thể hiện các kiểu quan hệ kết hợp, thể
hiện đặc điểm tính chất các loại yếu tố tạo từ đa
tiết địa phương trong CDDCNB. Từ những mô
hình trên, chúng tôi thấy các từ đa tiết phương
ngữ Nam Bộ cũng được tạo ra từ các kiểu quan
hệ tạo từ láy và từ ghép trong tiếng Việt nhưng
khác các từ đa tiết trong ngôn ngữ toàn dân là
thành phần các yếu tố và kiểu quan hệ liên kết
tạo từ giữa các yếu tố đó. Về yếu tố, có mặt
trong từ địa phương Nam Bộ gồm hai loại yếu
tố, toàn dân và địa phương. Các yếu tố toàn dân
có thể đang được dùng độc lập trong vốn từ toàn
dân, có thể là yếu tố cổ, đã mờ nghĩa, mất nghĩa;
các yếu tố phương ngữ có thể là hình thức biến
âm có quan hệ tương ứng ngữ âm với yếu tố
toàn dân, hoặc có thể là yếu tố khác âm tương
đồng về nghĩa, hoặc khác nghĩa với yếu tố toàn
dân. Sự kết hợp giữa các yếu tố toàn dân và địa
phương trong từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ
khá đa dạng, gồm 7 kiểu lớn, so với từ toàn dân,
chúng có những khác biệt nhất định về âm,
nghĩa và biểu cảm. Các từ đa tiết có mô hình

37

như vậy tuy khác với từ đa tiết toàn dân nhưng
được người Nam Bộ quen dùng, chúng không
chỉ là phương tiện giao tiếp quen thuộc thường
ngày mà còn trở thành phương tiện biểu hiện

nghệ thuật trong các sáng tác thơ ca dân gian
Nam Bộ. Sự có mặt trong CDDCNB 437 từ đa
tiết, cùng với số lượng 477 từ đơn tiết phản ánh
sự phong phú của vốn từ địa phương Nam Bộ
và cho thấy khả năng vai trò của lớp từ này
trong thơ ca dân gian địa phương. Như vậy,
nghiên cứu từ địa phương Nam Bộ trong
CDDC về cấu tạo thông qua việc miêu tả khái
quát thành các mô hình quan hệ kết hợp của các
yếu tố, chúng ta có điều kiện hiểu sâu sắc hơn từ
địa phương Nam Bộ cũng như về những nét độc
đáo và đặc sắc đặc trưng cấu tạo từ phương ngữ.
Chính những mối quan hệ kết hợp tạo từ đó đã
góp phần cho ta thấy tính đa dạng, sự phong
phú và vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc về mặt biểu
hiện trên các vùng miền khác nhau, dù chỉ qua
các đơn vị trong ca dao, dân ca địa phương.
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học
tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Trọng Canh (2006), Đặc điểm cấu
tạo từ địa phương Nghệ Tĩnh, Kỉ yếu Hội thảo 50
năm thành lập ngành Ngôn ngữ học, ĐHQG Hà
Nội, Trường ĐHKH Xã hội & Nhân văn, Khoa
Ngôn ngữ, tr. 112 - 119.
3. Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895, 1986), Đại
Nam quấc âm tự vị, tập I, II, Sài Gòn.
4. Bảo Định Giang (chủ biên) (1984), Ca dao dân ca Nam Bộ, Nxb TPHCM.
5. Khoa Ngữ văn - Đại học Cần Thơ (1997),
“Ca dao - dân ca”, Văn học dân gian đồng bằng

sông Cửu Long, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ
Nam Bộ, Nxb KHXH.
7. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng.
8. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ
Nam Bộ, Nxb KHXH.
9. Huỳnh Ngọc Trảng (2006), Ca dao dân ca
Nam kì lục tỉnh, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
(Ban Biªn tËp nhËn bµi 08-07-2011)



×