CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN, CẢI TIẾN
ĐỀ NGHỊ XÉT CÔNG NHẬN ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
Kính gửi: Sở Y tế Đồng Tháp
I. PHẦN HÀNH CHÍNH
1. Họ tên tác giả: Trần Văn Sung
Năm sinh: 1988
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Thạc sĩ Y tế công cộng.
Chức năng nhiệm vụ được phân công: Thực hiện quan trắc môi
trường lao động.
Đơn vị công tác: Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Đồng Tháp
2. Đồng tác giả (nếu có): Bùi Thị Nhanh
Năm sinh: 1976
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Thạc sĩ môi trường.
Chức năng nhiệm vụ được phân công: Quản lý công tác quan trắc môi
trường lao động.
Đơn vị công tác: Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Đồng Tháp.
3. Tên sáng kiến, cải tiến, giải pháp mới, kỹ thuật mới (gọi tắt là sáng
kiến): Quy trình phối hợp giữa cơ quan cung cấp dịch vụ quan trắc môi
trường lao động và các cơ sở lao động trong lĩnh vực quan trắc môi trường
lao động
II. NỘI DUNG
1.Nêu thực trạng tình hình của tập thể, cá nhân trước khi có sáng kiến;
Thực hiện đo, kiểm tra môi trường lao động cho các cơ sở lao động đã
được Bộ Y tế quy định từ rất lâu. Cụ thể các quy định sau:
Thông tư 13/1996/TTBYT ngày 21/10/1996 của Bộ Y tế.
Thông tư 19/2011/TTBYT ngày 6/6/2011 của Bộ Y tế.
Trong các Thông tư này quy định việc thực hiện đo, kiểm tra môi
trường lao động là trách nhiệm của người sử dụng lao động là định kỳ hằng
năm và cơ sở thực hiện đo kiểm tra môi trường lao động là trung tâm Y tế dự
phòng tuyến Tỉnh. Tuy nhiên các Thông tư không hướng dẫn cụ đơn vị nào
sẽ là đơn vị chủ động để thực hiện đo, kiểm tra môi trường lao động
Đến khi luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 được ban hành và có
hiệu lực từ 01/7/2016 và kèm theo đó Nghị định 44/2016/NĐCP có hiệu lực
từ 1/7/2016, quy định chi tiết hoạt động quan trắc môi trường lao động. Trong
đó quy định các cơ sở lao động định kỳ hằng năm thực hiện quan trắc môi
trường lao động ít nhất 1 lần. Ngoài ra, trong Nghị định còn quy định về việc
các cơ sở lao động sẽ chủ động liên hệ với các cơ sở đủ điều kiện thực hiện
quan trắc môi trường lao động. Do đó từ khi Nghị định 44/2016/NĐCP có
hiệu lực đến hết năm 2017, có nhiều cơ sở lao động đến thời hạn thực hiện
quan trắc môi trường lao động nhưng vẫn không thực hiện. Cụ thể:
Số cơ sở cần thực hiện quan trắc môi trường lao động trong năm
2016 là 142 cơ sở, nhưng chỉ có 121 cơ sở thực hiện, 21 cơ sở không thực
hiện.
Năm 2017 là số cơ sở cần thực hiện quan trắc môi trường lao động là
150 cơ sở lao động, nhưng chỉ có 128 cơ sở thực hiện, 22 cơ sở không thực
hiện.
Nguyên nhân nhiều cơ sở lao động tới thời gian thực hiện quan trắc môi
trường lao động nhưng không thực hiện là do không nhớ thời gian thực hiện
quan trắc môi trường lao động, một số cơ sở lao động không biết liên hệ đơn
vị nào để thực hiện quan trắc môi trường lao động và một số đơn vị còn
nhầm lẫn giữa việc quan trắc môi trường xung quanh và quan trắc môi
trường lao động, do đó cần có sự phối hợp và nhắc nhỡ các cơ sở lao lao
động thực hiện quan trắc môi trường lao động.
2.Lĩnh vực áp dụng: Quan trắc môi trường lao động.
3.Mô tả mục đích, nội dung của sáng kiến;
a) Mục đích của sáng kiến: Nâng cao hiệu quả trong việc quản lý và phối
hợp thực hiện quan trắc môi trường lao động giữa các cơ sở lao động trên địa
bàn Tỉnh và Trung tâm kiểm soát bệnh tật Đồng Tháp.
b) Nội dung của sáng kiến: Quy trình phối hợp giữa Trung tâm kiểm soát
bệnh tật Đồng Tháp và các cơ sở lao động trong việc thực hiện quan trắc môi
trường lao động cho các cơ sở lao động:
Bước 1: Sau khi Trung tâm kiểm soát bệnh tật thực hiện quan trắc
môi trường lao động tại các cơ sở lao động, cán bộ thực hiện quan trắc sẽ
ghi chép lại đầy đủ các thông tin để liên hệ: Tên, địa chỉ, điện thoại cơ sở lao
động; Họ và tên người phụ trách, số điện thoại, email và thời gian cơ sở lao
động đã thực hiện quan trắc môi trường lao động.
Bước 2: Sau khi thực hiện nhập liệu kết quả quan trắc môi trường
lao động, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Đồng Tháp sẽ mail bản kết quả
quan trắc cho cơ sở lao động xem lại và thực hiện phản hồi giữa 2 bên trước
khi in ra trình lãnh đạo ký.
Bước 3: Sau khi đã có đầy đủ thông tin của cơ sở lao động, người liên
hệ và thời gian quan trắc môi trường lao động. Đến thời gian một năm sau,
trước khi bản kết quả quan trắc môi trường lao động hết hiệu lực 30 ngày,
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Đồng Tháp sẽ chủ động liên hệ với người phụ
trách công tác quan trắc môi của các cơ sở lao động để tư vấn và nhắc nhỡ
gần tới hạn quan trắc môi trường lao động để công ty biết ngày quan trắc và
sẽ phối hợp thực hiện quan trắc đúng thời gian quy định, đảm bảo thực hiện
đúng theo quy định của pháp luật.
4.Khả năng, phạm vi áp dụng sáng kiến;
Quy trình này được đã và đang thực hiện tại khoa SKMTYTTHBNN
thuộc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Tỉnh và và có thể áp dụng tại các cơ sở
khác trực thuộc Sở Y tế Đồng Tháp.
Ngoài ra Quy trình phối hợp này còn có thể áp dụng cho một số hoạt
động dịch vụ của các cơ sở y tế khác: khám sức khỏe cho người lao động,
tiêm ngừa và lấy mẫu nước tiệt trùng. Vì khi đã có sự phối hợp để tư vấn và
nhắc nhỡ thì khách sẽ hiểu rõ thêm được các nội dung liên quan đến dịch vụ
cũng như là thời gian để thực hiện.
5.Nêu những lợi ích và hiệu quả mang lại khi nhân rộng sáng kiến;
Kết quả thực hiện Quy trình phối hợp giữa Trung tâm kiểm soát bệnh
tật Đồng Tháp và các cơ sở lao động trong việc thực hiện quan trắc môi
trường lao động cho các cơ sở lao động năm 2018 đã có chuyển biến rõ rệt.
Tổng số cơ sở lao động thực hiện quan trắc môi trường lao động trong năm
2018 là 148 cơ sở lao động, tăng 20 cơ sở lao động (15,6%) so với năm 2017.
Và số cơ sở lao động tới thời gian thực hiện quan trắc nhưng không thực
hiện đã giảm từ 22 cơ sở (năm 2017) xuống còn 5 cơ sở (năm 2018).
Ngoài ra trong quy trình thực hiện phối hợp, Trung tâm Kiểm soát bệnh
tật Đồng Tháp đã thực hiện mail kết quả quan trắc cho cơ sở lao động đã
được quan trắc để kiểm tra, đối chứng lại kết quả thực hiện quan trắc môi
trường lao động, từ đó sẽ giúp hạn chế tối đa sai xót quá trình nhập kết quả
cũng như là việc đề xuất các giải pháp cải thiện sẽ phù hợp hơn với tình
hình thực tế của cơ sở lao động. Do đó cần tiếp tục thực hiện và nhân rộng
Quy trình phối hợp giữa Trung tâm kiểm soát bệnh tật Đồng Tháp và các cơ
sở lao động trong việc thực hiện quan trắc môi trường lao động cho các cơ sở
lao động sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích cho cơ quan cung cấp dịch vụ và cơ
sở lao động:
Lợi ích cho cơ sở cung cấp dịch vụ:
Chủ động liên hệ với các cơ sở lao động sẽ nắm và quản lý được
tình hình quản lý vệ sinh lao động và điều kiện môi trường lao động của các
sơ sở lao động.
Hạn chế được tối đa sai xót trong khâu nhập liệu và trả lời kết quả
quan trắc môi trường lao động cho các cơ sở lao động.
động.
Chủ động được thời gian để thực hiện dịch vụ tại các cơ sở lao
Lợi ích cho cơ sở lao động:
Biết được thời gian thực hiện quan trắc môi trường lao động và nắm
được các thông tin về quy định của pháp luật trong việc thực hiện quan trắc
môi trường lao động từ đó lập kế hoạch thực hiện phù hợp với thực tế tại
đơn vị.
Lợi ích chung cho 2 bên:
Cơ sở cung cấp dịch vụ sẽ biết được những thuận lợi và khó khăn
của các cơ sở lao động trong việc quan trắc môi trường lao động để đưa tìm
ra các giải pháp phù hợp với tình thực tế của các cơ sở lao động từ đó tạo ra
được sự phối hợp nhịp nhàng trong việc thực hiện chuyên môn của cơ sở
cung cấp dịch vụ và cơ sở lao động.
Trong quá trình tư vấn các nội dung liên quan đến việc quan trắc môi
trường lao động, chúng tôi còn có thể tư vấn thêm các nội dung khác về sức
khỏe người lao động để các cơ sở lao động hiểu và thực hiện tốt các nội
dung về chăm sóc sức khỏe người lao động, góp phần mang lại lợi ích tốt
hơn cho người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan y tế.
III. DANH SÁCH NGƯỜI THỰC HIỆN
ST Học
T
vị
1
2
Thạ
c sĩ
Thạ
c sĩ
Họ và tên
Năm Đơn vị công tác
sinh
Trần Văn Sung
1988
Bùi Thị Nhanh
1976
%
Chức vụ Ký tên
đóng
góp
Trung tâm Kiểm 60
Viên chức
soát bệnh tật
Trung tâm Kiểm 40
P. Trưởng
soát bệnh tật
khoa
Trên đây là những sáng kiến, cải tiến, giải pháp mới, kỹ thuật mới của
bản thân tôi trong năm …
Kính đề nghị Hội đồng xét duyệt sáng kiến xem xét, công nhận sáng
kiến cấp cơ sở./.
………, ngày … tháng … năm 201…
Thủ trưởng đơn vị
Người báo cáo