Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ẩn dụ ý niệm “con người là trang phục” trong ca dao, thành ngữ và tục ngữ Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.89 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE

Tập 17, Số 7 (2020): 1215-1224
ISSN:
1859-3100

Vol. 17, No. 7 (2020): 1215-1224
Website:

Bài báo nghiên cứu *

ẨN DỤ Ý NIỆM “CON NGƯỜI LÀ TRANG PHỤC”
TRONG CA DAO, THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ TIẾNG VIỆT
Nguyễn Đình Việt
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TPHCM, Việt Nam
Tác giả liên hệ: Nguyễn Đình Việt – Email:
Ngày nhận bài: 06-4-2020; ngày nhận bài sửa: 20-5-2020; ngày duyệt đăng: 22-7-2020

TÓM TẮT
Dựa trên việc vận dụng lí thuyết về ẩn dụ ý niệm của Ngôn ngữ học tri nhận trong sự nhấn
mạnh đến vai trò của lí thuyết nghiệm thân (nghiệm thân tự nhiên và nghiệm thân xã hội), bài viết
xem “trang phục” là miền nguồn ánh xạ tới miền đích “con người” để xác lập cấu trúc ẩn dụ ý niệm
bậc trên CON NGƯỜI LÀ TRANG PHỤC trong ca dao, thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt; từ đó mô
tả và phân tích các ẩn dụ cấu trúc bậc dưới, như: con người/bộ phận của con người là “trang phục”,
địa vị của con người là “trang phục”, hoàn cảnh của con người là “trang phục”, tình cảm của con
người là “trang phục” để cho thấy một phần độc đáo trong ngôn ngữ, tư duy và văn hóa Việt.
Từ khóa: ẩn dụ ý niệm; trang phục; miền đích; miền nguồn



Đặt vấn đề
Trang phục là một phần thiết yếu của cuộc sống, là một trong ba nhu cầu cơ bản ăn – ở –
mặc của con người. Mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều có những bộ trang phục khác nhau
thể hiện văn hóa, phong tục tập quán, quan niệm thẩm mĩ… của mình, chẳng hạn: Nhật Bản có
Kimono; Hàn Quốc với Hanbok; Trung Quốc có Sườn xám (dành riêng cho nữ giới); Việt Nam
với Áo dài (dành riêng cho nữ giới)… Thậm chí, trang phục còn đặc trưng cho giới tính (ví dụ:
váy chỉ dành riêng cho nữ giới, ngoại trừ đàn ông ở Scotland), lứa tuổi (ví dụ: áo dài mừng thọ
của người Việt chỉ mặc cho người từ 60 tuổi trở lên trong lễ mừng thọ của họ), nghề nghiệp (ví
dụ: áo Blouse chuyên dành cho đội ngũ y tá, y sĩ, bác sĩ), địa vị xã hội (ví dụ: thời phong kiến
thì Vua mặc hoàng bào hay long bào; dân thường có thể đóng khố, áo cánh ngắn tứ thân, quần
lá tọa… với đàn ông và áo cánh ngắn, váy đụp, áo dài tứ thân… với đàn bà, phụ nữ)… Qua tìm
hiểu trang phục, chúng ta có thể thấy được một phần đặc trưng văn hóa, tư duy của một tộc
người hoặc một nhóm người cụ thể.
1.

Cite this article as: Nguyen Dinh Viet (2020). Conceptual metaphors “HUMAN BEINGS ARE COSTUMES”
in Vietnamese folk songs, idioms, and proverbs. Ho Chi Minh City University of Education Journal of Science,
17(7), 1215-1224.

1215


Tập 17, Số 7 (2020): 1215-1224

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

Với người Việt, mặc trang phục như thế nào cũng là một vấn đề quan trọng luôn luôn
được chú ý, bởi người Việt cũng thường quan niệm Y phục xứng kì đức; Áo rách vẫn giữ lấy
tràng; Tốt danh hơn lành áo; Cơm ba bát, áo ba manh, đói chẳng xanh, rét chẳng chết; Áo

rách vẫn giữ lấy lề…; hay thậm chí là kinh nghiệm về cách ứng xử Đi với bụt mặc áo cà sa,
đi với ma mặc áo giấy; Áo năng may năng mới, người năng tới năng thường; Trăm năm ai
chớ bỏ ai – Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim…
Trong phạm vi tìm hiểu của chúng tôi, đã có rất nhiều bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về
trang phục hoặc một bộ phận trang phục của người Việt dưới các góc nhìn khác nhau như văn
hóa, văn học, thời trang, kinh doanh… nhưng chưa có bài viết nào tập trung tìm hiểu trang phục
dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận. Chính vì vậy, ở bài viết này, chúng tôi sẽ vận dụng lí
thuyết về ẩn dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận để đi sâu khám phá ẩn dụ ý niệm CON
NGƯỜI LÀ TRANG PHỤC trong ca dao, thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt.
2.
Miền ý niệm “trang phục”
2.1. Quan niệm về “trang phục”
Chúng tôi xem trang phục (áo, quần, mũ, nón...) là một nhóm vật dụng cơ bản, thiết
yếu của cuộc sống con người, chẳng hạn: đồ dùng nhà bếp (nồi, niêu, xoong, chảo, dao,
thớt…), đồ dùng ăn uống (chén, bát, đũa, thìa…) hay như nhiều vật dụng sinh hoạt quen
thuộc khác là bàn, ghế, chăn, chiếu, kim, chỉ… Trần Ngọc Thêm (2011) khi nghiên cứu về
trang phục cũng đã khẳng định: “Quan trọng đối với con người, sau ăn là mặc. Nó giúp cho
con người ứng phó được cái nóng, rét, mưa, gió.”, và “Mỗi dân tộc có cách ăn mặc và trang
sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành biểu tượng của văn hóa dân tộc.” (Tran, 2011, p.200).
Vũ Ngọc Khánh (2018) cũng nhấn mạnh thêm rằng: “Rất ít những đồ dùng trong sinh
hoạt của con người mà gắn bó tha thiết và dồi dào tình nghĩa như tấm khăn, chiếc áo Việt
Nam. Bản chất của ứng xử văn hóa trong trang phục Việt Nam là cái tình, cái nghĩa.”
(Vu, 2018, p.19).
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoang, 2016), Trang phục là “Quần áo dùng riêng cho một
ngành, một nghề nào đó. Trang phục của ngành y tế. Sửa lại trang phục. Trang phục đồng
bộ”, và Quần áo là “Đồ mặc, như quần, áo (nói khái quát). Quần áo may sẵn”.
Từ những cơ sở trên, chúng tôi cụ thể hóa quan niệm về trang phục, đó là những “đồ
dùng thường ngày” để phục vụ cho nhu cầu mặc, làm đẹp của con người như áo, quần,
giày, dép, khăn, khố… và quan tâm cả những chất liệu tạo nên trang phục như gấm, lụa,
vải, vóc.

Trải qua hàng nghìn năm phát triển, trang phục của người Việt vô cùng phong phú, đa
dạng với những kiểu loại, màu sắc, cách phối hợp… khác nhau, tạo nên một bản sắc riêng
trong văn hóa dân tộc, để lại nhiều dấu ấn trong văn học, âm nhạc, hội họa... Tuy nhiên,
trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi chỉ quan tâm đến các trang phục và các chất liệu

1216


Nguyễn Đình Việt

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

làm nên trang phục của người Việt được nhắc đến trong ca dao, thành ngữ và tục ngữ tiếng
Việt. Từ khối ngữ liệu khảo sát, chúng tôi sẽ vận dụng lí thuyết ẩn dụ ý niệm để tiến hành
phân tích, mô tả, đồng thời chỉ ra những điểm độc trong tư duy, ngôn ngữ, văn hóa Việt.
2.2. Hệ thống ý niệm “trang phục”
Qua khảo sát, đối chiếu trên các cuốn từ điển: Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam
trong hành chức (Do, 2015), Thành ngữ tiếng Việt (Nguyen, & Luong, 1993), Tục ngữ, ca
dao, dân ca Việt Nam (Vu, 2004), Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt (Nguyen, 1995), chúng
tôi đã thống kê được 14 sản phẩm trang phục xuất hiện 315 lần và 5 loại chất liệu tạo ra
trang phục xuất hiện 33 lần, trong tổng số 214 câu ca dao, thành ngữ và tục ngữ có chứa
những từ ngữ chỉ sản phẩm và chất liệu trang phục này, thể hiện rõ trong hai bảng thống
kê dưới đây (xem Bảng 1 và Bảng 2):
Bảng 1. Thống kê sản phẩm trang phục
Sản phẩm

STT

Tần số xuất hiện


Tỉ lệ %

1
2
3

Áo
Dép
Đai

163
1
3

51,75%
0,32%
0,95%

4
5
6

Giày
Guốc
Hài

2
1
3


0,63%
0,32%
0,95%

7
8
9

Hán
Khăn
Khố

3
25
2

0,95%
7,94%
0,63%

10
11


Nón

9
32

2,86%

10,16%

12
13

Quần
Váy (từ cổ: xống)

28
13

8,89%
4,13%

14

Yếm

30

9,52%

315

100%

Tổng

Sáu trang phục có tần số xuất hiện nhiều nhất lần lượt là: Áo 163 lần, chiếm 51,75%;
và sau đó là nón với 32 lần xuất hiện, chiếm 10,16%; yếm 30 lần xuất hiện chiếm 9,52%;

quần với 28 lần xuất hiện, chiếm 8,89%; khăn với 25 lần xuất hiện, chiếm 7,94%; váy xuất
hiện 13 lần, chiếm 4,13% trong miền sản phẩm trang phục. Trong đó áo và quần chiếm
60,73% là hoàn toàn phù hợp với thói quen mặc hàng ngày của con người nói chung cũng
như với người Việt nói riêng. Đây là những trang phục cơ bản, thiết yếu nhất mà con người
luôn cần sử dụng và thường nghĩ đến khi nói về trang phục. Những sản phẩm trang phục

1217


Tập 17, Số 7 (2020): 1215-1224

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

này đã trở nên thân quen và đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt như: Áo rách
quần manh; Chồng ta áo rách ta thương – Chồng người áo gấm xông hương mặc người;
Cơm ba bát, áo ba manh, đói chẳng xanh, rét chẳng chết; Người thì mớ bảy mớ ba, người
thì áo rách như là áo tơi; Quần dài thì ăn mắm thối – Quần đến đầu gối thì ăn mắm thơm…
Bảng 2. Thống kê chất liệu trang phục
Chất liệu

STT

Tần số xuất hiện

Tỉ lệ %

1

Gấm


5

15,15%

2

Lụa

14

42,42%

3

The

5

15,15%

4

Vải

8

24,24%

5


Vóc

1

3,03%

33

100%

Tổng

Ngoài số lượng từ vựng liên quan đến sản phẩm trang phục, các biểu thức ca dao,
thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt còn chứa đựng những yếu tố miêu tả chất liệu tạo nên
trang phục khá đa dạng với nhiều loại như: gấm, lụa, the, vải, vóc. Chẳng hạn: Chồng ta
áo rách ta thương - Chồng người áo gấm xông hương mặc người; Áo gấm đi đêm; Áo
gấm về làng; Lòng gấm, miệng vóc; Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết
vào tay ai; Lụa quấn cột cầu trông lâu cũng đẹp; Nhời nói quan tiền tấm lụa; Có đèn
thì lại phụ trăng – Có the quên lụa, có vàng quên thau; Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân;
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm… Trong đó, gấm và lụa là những chất liệu đẹp, quý, sang
trọng có giá trị cao, vậy nên người Việt thường có những câu như: Lòng gấm, miệng vóc; Áo
gấm về làng; Lụa quấn cột cầu trông lâu cũng đẹp; Nhời nói quan tiền tấm lụa; Trăm năm ai
chớ bỏ ai – Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim… để biểu hiện cho những nét đẹp về ngoại
hình bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong, cái đẹp đáng trân trọng ở lời nói và hành động…
Vận dụng những tổng kết của Trịnh Sâm (2019) lí thuyết nghiệm thân của Ngôn ngữ
học tri nhận, chúng tôi nhấn mạnh thêm rằng: Trang phục của người Việt mang tính nghiệm
thân rõ nét, dễ thấy nhất là nghiệm thân tự nhiên và nghiệm thân xã hội. Điều này có thể
minh họa bằng nhiều ví dụ như: váy – “Đồ mặc PHÍA DƯỚI tiêu biểu và ổn định hơn cả của
phụ nữ qua các thời đại là cái váy”, “Là thứ đồ mặc phía dưới đặc thù của phương Nam nóng
bức, chiếc váy khác hẳn với chiếc quần có nguồn gốc từ Trung Á (Chesnov, 1976) là nơi có

khí hậu giá lạnh và công việc chủ yếu là chăn nuôi, cưỡi ngựa.” (Tran, p.203); yếm – “Đồ
mặc PHÍA TRÊN của phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm. Yếm là đồ mặc đặc
thù của người Việt, thường do phụ nữ tự cắt-may-nhuộm lấy” và “Để ứng phó với khí hậu
nóng bức, phụ nữ khi làm lụng, nhất là trong bóng râm, dù là vào thời Hùng Vương hay là
đầu thế kỉ XX, vẫn thường mặc váy-yếm với hai tay và lưng để trần.” (Tran, p.205); Những
chất liệu tạo nên trang phục như gấm, lụa, the, vải, vóc phần lớn được tạo ra từ tơ tằm,
1218


Nguyễn Đình Việt

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

một số khác là từ tơ chuối, tơ đay, gai, sợi bông… đều có nguồn gốc từ thực vật, sản
phẩm của nghề trồng trọt. Chúng có đặc tính chung là mỏng, nhẹ, thoáng mát… phù hợp
với điều kiện khí hậu nóng, ẩm ở phương Nam (Trong khi đó, ở phương Bắc có khí hậu
lạnh, khô, trang phục lại chuộng da và lông thú, là sản phẩm của nghề chăn nuôi, săn
bắn). Như vậy, chỉ qua hai sản phẩm trang phục là váy, yếm và chất liệu tạo nên trang phục
là gấm, lụa, the, vải, vóc đã cho thấy sự tương tác - ứng phó với chính môi trường tự nhiên
khí hậu nóng bức và sự tương tác với môi trường xã hội – canh tác nông nghiệp cấy lúa trồng
dâu của người Việt (chưa kể đến các quan niệm xã hội về trang phục như Quen sợ dạ, lạ sợ
áo; Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân; Cơm là gạo, áo là tiền; Tốt danh hơn lành áo…)
Tất cả 14 trang phục và 5 chất liệu làm nên trang phục đã thống kê ở trên đều trở thành
các ý niệm thuộc miền trang phục, tồn tại sâu đậm bên trong tâm trí của người Việt và thể hiện
rõ qua 214 biểu thức ngôn ngữ mang tính ẩn dụ sẽ được chúng tôi tiếp tục mô tả và phân tích
dưới sự soi rọi của lí thuyết ẩn dụ ý niệm.
3.
Phân tích ẩn dụ ý niệm: CON NGƯỜI LÀ TRANG PHỤC
Ẩn dụ ý niệm là lí thuyết trung tâm của Ngữ nghĩa học tri nhận. Khác với quan niệm
truyền thống coi ẩn dụ là phương thức tu từ, là cách diễn đạt bóng bẩy, mới lạ, thường sử dụng

trong ngôn ngữ thi ca; Ngôn ngữ học tri nhận lại xác định ẩn dụ là công cụ của tư duy, “ẩn dụ
thâm nhập khắp trong cuộc sống hàng ngày, không chỉ trong ngôn ngữ mà còn cả trong tư duy
và hành động. Hệ thống ý niệm thông thường của chúng ta, thông qua đó chúng ta tư duy và
hành động, về cơ bản là có tính ẩn dụ” (Lakoff, & Johnson, 1980, p.4).
Ẩn dụ ý niệm được hiểu là sự ý niệm hóa một miền tinh thần qua một miền tinh thần
khác, gọi là sự ánh xạ có hệ thống từ một miền nguồn sang một miền đích nhằm tạo nên một
mô hình tri nhận (mô hình ẩn dụ) giúp lĩnh hội miền đích cụ thể, hiệu quả hơn. Với tư cách
là một công cụ tri nhận, ẩn dụ được tạo ra một cách vô thức trong giao tiếp, tư duy. Miền
nguồn thường cụ thể, hữu hình, mang tính vật chất, với nhiều trải nghiệm sẽ ánh xạ đến miền
đích thường khái quát, trừu tượng, mang tính phi vật chất, với ít trải nghiệm.
Trịnh Sâm (2013) cũng nhấn mạnh “thông qua những trải nghiệm có tính tương tác,
con người thường dùng những hiểu biết, những kinh nghiệm từ môi trường xung quanh,
thông qua miền ý niệm này để hiểu miền ý niệm khác”. Miền ý niệm trang phục với những ý
niệm quen thuộc, gần gũi như áo, quần, giày, dép, mũ, nón, khăn… có đặc điểm là trực quan,
sinh động, dễ nắm bắt về kiểu dáng, màu sắc, chất liệu… Chính vì vậy, nó xuất hiện với tư cách
miền nguồn để ánh xạ tới miền đích con người và tạo ra cấu trúc ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ
TRANG PHỤC. Sự ánh xạ này liên quan chặt chẽ đến các kinh nghiệm hàng ngày. Chúng tôi
cũng nhấn mạnh thêm “những tương ứng trong kinh nghiệm” là những tương ứng trong nhận
thức của con người, là sản phẩm của kinh nghiệm, tri thức, văn hóa chứ không phải bất kì sự
tương ứng nào trong hiện thực khách quan. Dễ thấy, người Việt sẽ có những sản phẩm trang
phục đặc trưng hoặc sẽ có những quan niệm khác nhau về trang phục. Các thuộc tính nổi trội
1219


Tập 17, Số 7 (2020): 1215-1224

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

của miền nguồn trang phục như đặc điểm, kiểu loại, màu sắc, chất liệu… sẽ được huy động
một cách tối đa để phóng chiếu tới miền đích con người, có thể minh họa khái quát bằng Lược

đồ sau đây:
Lược đồ. Ánh xạ từ miền nguồn “trang phục” đến miền đích “con người”

Trang phục không chỉ mang dấu ấn cá nhân mà còn mang dấu ấn dân tộc rõ nét. Đối
với người Việt, những áo, quần, mũ, nón, khăn, khố… được làm từ các chất liệu đặc trưng
như gấm, lụa, vải, vóc… đã đi sâu vào tâm thức một cách rất tự nhiên, biểu hiện qua rất nhiều
biểu thức ẩn dụ và hình thành nên hệ thống ẩn dụ ý niệm với ẩn dụ bậc trên CON NGƯỜI
LÀ TRANG PHỤC, cùng với đó là các ẩn dụ bậc dưới như: Con người/bộ phận của con
người là “trang phục”; Địa vị của con người là “trang phục”; Hoàn cảnh của con người là
“trang phục”; Tình cảm của con người là “trang phục”…
3.1. Con người/ bộ phận của con người là “trang phục”
Ấn tượng về hình thức luôn là cái đầu tiên xuất hiện khi tri giác về bất cứ đối tượng
nào trong thực tại. Các loại trang phục với những kiểu dáng, màu sắc, chất liệu… sẽ dễ dàng
được cảm nhận, nắm bắt bằng hầu hết giác quan, mà trước nhất là thị giác. Từ đó, một số
thuộc tính sẽ được lựa chọn (với tư cách là công cụ để nhận hiểu, liên tưởng) và ánh xạ đến
con người (có thể là hình ảnh về con người nói chung hoặc các bộ phận của con người). Đây
là cơ sở để hình thành nên ẩn dụ Ngoại hình của con người là “trang phục”, như: Thân em
như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai; Chồng ta áo rách ta thương – Chồng
người áo gấm xông hương mặc người; Râu quai nón; Cao mũ dài áo; Khố rách áo ôm;
Quần chùng, áo dài; Xanh áo, đỏ mũ; Áo bào gặp ngày hội; Áo gấm đi đêm; Áo gấm về
làng; Có đèn thì lại phụ trăng – Có the quên lụa, có vàng quên thau; Thân em như cái nón
cời – Như cái áo rách vá thời chưa may; Thân em như chiếc nón cời – Bung vành đứt đoác,
chịu đời nắng mưa… Cấu trúc ẩn dụ này cũng tương đồng với nhiều cấu trúc ẩn dụ quen
thuộc như CÔNG CỤ/ PHƯƠNG TIỆN LÀ CON NGƯỜI; GIÁ TRỊ CỦA CÔNG CỤ/
PHƯƠNG TIỆN LÀ GIÁ TRỊ CỦA CHỦ SỞ HỮU; VẬT THỂ LÀ CON NGƯỜI… Trong
phạm vi của cấu trúc ẩn dụ này, thì tấm lụa đào, the, lụa, áo gấm, áo bào… đều chỉ con

1220



Nguyễn Đình Việt

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

người nói chung, ngoài ra, những hình ảnh này còn ẩn dụ cho hoàn cảnh, địa vị, phẩm chất…
của con người, tuy nhiên, vấn đề này sẽ được chúng tôi tiếp tục phân tích sâu hơn trong
những cấu trúc ẩn dụ tiếp theo.
3.2. Địa vị của con người là “trang phục”
Dưới nhiều góc nhìn khác nhau, trang phục đều thể hiện những giá trị nhất định, cả
vật chất lẫn tinh thần. Ví như, với tính chất thực dụng, trang phục là một sản phẩm hoặc là
một vật dụng cơ bản của con người; dưới góc độ thẩm mĩ, trang phục có thể xem là một tác
phẩm sáng tạo nghệ thuật của con người với những kiểu dáng, hoa văn, đường nét… khác
nhau; dưới góc độ chức năng trong sử dụng, trang phục thể hiện sự phân hóa trong sinh hoạt,
lao động, chiến đấu, hội hè…; dưới góc nhìn xã hội, trang phục là một thước đo đánh giá địa
vị của con người. Những người có địa vị cao trong xã hội là vua quan với những áo quần
sang trọng, màu sắc, chất liệu tốt và nhiều phụ kiện: Xanh áo, đỏ mũ; Cao mũ dài áo; Mũ
áo cân đai; Mũ dài đai rộng; Mũ cánh chuồn; Rạng vẻ cân đai; Áo gấm về làng… còn
những người có địa vị thấp kém, hay những người dân nghèo thì là những Khố rách áo ôm;
Quần manh, áo vải; Áo rách quần manh; Người thì mớ bảy mớ ba – Người thì áo rách như
là áo tơi… Những biểu thức ẩn dụ vừa nêu đã minh họa đầy đủ cho ẩn dụ Địa vị của con
người là “trang phục” trong quan niệm của người Việt.
3.3. Hoàn cảnh của con người là “trang phục”
Từ những ẩn dụ quen thuộc như GIÁ TRỊ CỦA CÔNG CỤ/ PHƯƠNG TIỆN LÀ GIÁ
TRỊ CỦA CHỦ SỞ HỮU; GIÁ TRỊ CỦA VẬT DỤNG LÀ GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI,
đến lượt mình, trang phục cũng thể hiện những giá trị khác nhau của cuộc sống, biểu hiện
qua từng hoàn cảnh cụ thể. Đây là cơ sở để hình thành nên ẩn dụ Hoàn cảnh của con người
là “trang phục”. Lẽ thường trong xã hội thì những người có địa vị cao, giàu sang phú quý
sẽ có điều kiện để mua sắm những vật dụng đắt tiền, giá trị, luôn được trau chuốt cẩn thận.
Đó là những áo gấm, áo bào, mớ bảy mớ ba, quần là áo lượt… thể hiện trong các biểu thức
Áo gấm đi đêm; Áo gấm về làng; Áo bào gặp ngày hội; Người thì mớ bảy mớ ba – Người

thì áo rách như là áo tơi; Quần là áo lượt; Chồng ta áo rách ta thương – Chồng người áo
gấm xông hương mặc người… với một cuộc sống sung sướng, đủ đầy nên lúc nào cũng Ra
hán vào hài; Quần chùng, áo dài; Quần là áo lượt; Áo ấm cơm no; Áo đơn lồng áo kép…
Ngược lại, những người có hoàn cảnh nghèo khổ, khó khăn, luôn sống trong sự thiếu thốn,
cực nhọc với áo rách, áo tơi, khố rách, áo vá… xuất hiện nhiều trong lời ăn tiếng nói của
người dân như Khố rách áo ôm; Áo rách quần manh; Chồng ta áo rách ta thương – Chồng
người áo gấm xông hương mặc người; Người thì mớ bảy mớ ba – Người thì áo rách như là
áo tơi; Nghèo thì áo rách phải mang – Nước sông gạo chợ, thiếp chàng nuôi nhau; Quần
manh, áo vải… Tuy nghèo khổ nhưng những người dân luôn tự dặn mình phải giữ gìn đạo
đức, nhân phẩm nên Áo rách vẫn giữ lấy tràng; Tốt danh hơn lành áo; Áo rách khéo vá hơn
lành vụng may; Áo rách phải giữ lấy lề. Thậm chí, trang phục còn thể hiện hoàn cảnh thiếu
1221


Tập 17, Số 7 (2020): 1215-1224

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

thốn, éo le về mặt tinh thần như Nón không quai, thuyền không bến; Áo anh sứt chỉ đường
tà – Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu; Tròng trành như nón không quai – Như thuyền
không lái như ai không chồng…
3.4. Tình cảm của con người là “trang phục”
Tình cảm, cảm xúc thuộc yếu tố tinh thần thường trừu tượng, khó nắm bắt, nhận diện
rõ ràng. Chính vì vậy, nó thường có xu hướng mượn các tính chất vật thể của sự vật, hiện
tượng như hình ảnh, màu sắc, chất liệu để cụ thể hóa, giúp cho việc nắm bắt được dễ dàng
hơn. Trang phục với tính chất vật thể của mình cũng dễ dàng được huy động để khám phá
tình cảm, cảm xúc của con người. Tấm khăn, cái áo trở thành vật biểu thị tình cảm yêu
thương, gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa người với người Phải duyên phải lứa cùng nhau –
Dầu mà áo vải, cơm rau cũng về; Thương em thuở áo mới may – Bây giờ áo đã thay tay vá
quàng; Tơ lụa gấm nhiễu không màng – Thương cô áo chẹt vá quàng nửa vai… Trang phục

còn thể hiện lòng biết ơn, sự yêu thương, chăm sóc của con người dành cho nhau: Nàng Bân
may áo cho chồng; Nhường cơm nhường áo; Ngày nào em bé cỏn con - Bây giờ em đã lớn
khôn thế này – Cơm cha, áo mẹ, công thầy – Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao; Cơm
nặng, áo dày; Miếng cơm, tấm áo; Nâng khăn, sửa túi…
Ngoài 4 ẩn dụ ý niệm tiêu biểu về trang phục đã mô tả và phân tích ở trên, chúng tôi
còn nhận thấy rằng người Việt cũng thường sử dụng những hoạt động, đặc tính riêng của
trang phục để liên tưởng đến những hoạt động, thuộc tính riêng của con người như Hoạt
động của con người là hoạt động của “trang phục”: Cởi áo cho người xem lưng; Vén tay
áo sô, đốt nhà táng giấy; Bóc áo tháo cày; Nhời nói quan tiền tấm lụa; Đi guốc trong bụng…
Phẩm chất của con người là chất liệu/ bộ phận của “trang phục”: Lụa quấn cột cầu
trông lâu cũng đẹp; Áo rách vẫn giữ lấy tràng; Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa
chợ biết vào tay ai; Thân em như tấm lụa đào – Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai…
Như đã đề cập ở trên, Mặc là một trong ba nhu cầu cơ bản của đời sống vật chất (ăn, ở,
mặc), xuất phát từ chính cơ sở môi trường tự nhiên, điều kiện thời tiết nóng, ẩm, mưa nhiều.
Điều kiện khí hậu địa lí này góp phần tạo nên quan điểm riêng của người Việt trong cách
ăn mặc mà theo Trần Ngọc Thêm thì đó chính là cách con người “ứng phó” được với cái
nóng, rét, mưa, gió. Bên cạnh việc ứng phó với môi trường tự nhiên, trang phục còn có
nhiều ý nghĩa xã hội khác: Mặc để làm đẹp, trang điểm nên Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì
phân; Chân tốt về hài, tai tốt về hoa… Sự quan tâm của người Việt đối với trang phục đã thể
hiện rõ nét trong nhiều quan niệm sống: Y phục xứng kì đức; Ăn lấy chắc, mặc lấy bền; Cơm là
gạo, áo là tiền; Được bụng no, còn lo ấm cật… Trang phục trở thành một trong những tiêu chí
quan trọng để đánh giá con người trên nhiều khía cạnh như phẩm chất, địa vị, hoàn cảnh, nhân
cách… thông qua những biểu hiện trực quan của nó. Rõ ràng, kinh nghiệm văn hóa của người
Việt đã được thể hiện rất tinh tế qua các ẩn dụ ý niệm về trang phục.

1222


Nguyễn Đình Việt


Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

Kết luận
Hệ thống ẩn dụ ý niệm CON NGƯỜI LÀ TRANG PHỤC như đã trình bày góp phần
minh họa thêm cho lí thuyết về ẩn dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận; từ cấu trúc ẩn dụ ý
niệm bậc trên CON NGƯỜI LÀ TRANG PHỤC, bài viết đã xác lập, mô tả và phân tích các
cấu trúc ẩn dụ ý niệm bậc dưới như: Con người/Bộ phận của con người là “trang phục”, Địa
vị của con người là “trang phục”, Hoàn cảnh của con người là “trang phục”, Tình cảm của
con người là “trang phục”. Việc mô tả và phân tích ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ TRANG PHỤC
trong ca dao, thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt đã cho thấy miền ý niệm “trang phục” thực sự
tồn tại sâu đậm trong tư duy, tâm thức của người Việt; nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa và tư
duy dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận là hướng đi đầy triển vọng và đem lại nhiều
kết quả thú vị, độc đáo.
4.

 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Do, T. K. L. (2015). Tu dien thanh ngu, tuc ngu Viet Nam trong hanh chuc [Vietnamese idioms and
proverbs dictionary in use]. Hanoi: Social Sciences Publishing House.
Vu, N. K. (2018). Vietnam customs full editorial. Hanoi: Ethnic Culture Publishing House.
Hoang, P. (2016). Tu dien tieng Viet [Vietnamese Dictionary]. Hanoi: Hong Duc Publishing House.
Lakoff, J., & Johnson, M. (1980). Metaphors we Live by. Chicago: University of Chicago Press.
Nguyen, L., & Luong, V. D. (1993). Thanh ngu tieng Viet [Idioms in Vietnamese]. Hanoi: Social
Sciences Publishing House.
Nguyen, N. Y. (1995). Tu dien giai thich thanh ngu tieng Viet [Dictionary of Vietnamese idioms].
Hanoi: Education Publishing House.
Tran, N. T. (2009). Co so van hoa Viet Nam [Vietnamese cultural establishment]. Hanoi: Education
Publishing House.
Trinh, S. (2013). Mien y niem song nuoc trong tri nhan cua nguoi Nam Bo [Domain concept of water

river in the perception of the Southern people]. Ho Chi Minh University of Education Journal
of science, 46(5), 5-12.
Trinh, S. (2019). Embodiment of theory body theory from Vietnamese reality. Language magazine,
356(1), 24-38.
Vu, N. P. (2004). Tuc ngu, ca dao, dan ca Viet Nam [Proverbs, folk songs, folk Vietnam]. Hanoi:
Literature Publishing House.

1223


Tập 17, Số 7 (2020): 1215-1224

Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM

CONCEPTUAL METAPHORS “HUMAN BEINGS ARE COSTUMES”
IN VIETNAMESE FOLK SONGS, IDIOMS, AND PROVERBS
Nguyen Dinh Viet
University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University Ho Chi Minh City, Vietnam
Corresponding author: Nguyen Dinh Viet – Email:
Received: April 06, 2020; Revised: May 20, 2020; Accepted: July 22, 2020

ABSTRACT
Based on the application of the theory of conceptual metaphor of cognitive linguistics in
emphasizing the role of the embodiment theory (natural embodiment and social embodiment), the
article considers “costumes” to be the source domain maps to the “human” target domain to
establish the conceptual metaphorical structure on the HUMAN BEINGS ARE COSTUMES in
Vietnamese folk songs, idioms, and proverbs. From there, the paper describes and analyzes
subordinate structural metaphors such as: Human/Parts of Humans are “costumes”, Human
positions are “costumes”, Human circumstances are “costumes”, Human Emotions
are “costumes”, shows a unique part of the Vietnamese language, thinking, and culture.

Keywords: conceptual metaphor; costumes; source domain; target domain

1224



×