Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LV Thạc sỹ_Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đưa người lao động việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.59 KB, 103 trang )

1

MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN đã trở thành một chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước. Chủ trương này đã được thể hiện cụ thể ở Báo cáo về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm ( 2006 - 2010 ) tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng:“ Tiếp tục thực hiện chương trình XKLĐ,
tăng tỷ lệ LĐ xuất khẩu đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của NLĐ”.
Hiện nay có khoảng 500 nghìn LĐ Việt Nam đang làm việc ở 40 nước,
vùng lãnh thổ, với hơn 30 nhóm ngành nghề khác nhau. Trong đó, thị trường Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia luôn được đánh giá là những thị trường
trọng điểm, tiếp nhận số lượng lớn LĐ của Việt Nam sang làm việc, nhu cầu tiếp
nhận LĐ ở các nước khác cũng tăng nhanh, thu nhập của NLĐ được nâng lên,
hàng năm số LĐ này chuyển về gia đình khoảng 1,6 tỷ USD, góp phần nâng cao
thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội.
Để đạt được những kết quả nêu trên, phải kể đến sự đóng góp quan trọng vai
trò QLNN đối với hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN. Nhà nước đã quan tâm
đến đầu tư nghiên cứu phát triển thị trường tiếp nhận LĐ, đổi mới và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tổ chức các hoạt động đối ngoại, hỗ trợ các DN khai thác thị
trường, khuyến khích mô hình liên kết giữa địa phương và các DN nhằm đẩy
mạnh hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN chung của cả nước và từng địa
phương.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN đang là một
thách thức đối với Việt Nam, do số LĐ đưa sang các nước ngày càng lớn, đội ngũ
DN XKLĐ nhiều hơn, thị trường LĐ NN mở rộng và sự phân công LĐ có nhiều
thay đổi. Trong khi chất lượng nguồn LĐ còn yếu kém, đội ngũ DN XKLĐ hoạt
động chưa chuyên nghiệp và hiệu quả chưa cao, do đó khả năng cạnh tranh của ta



2

trên thị trường LĐ thế giới bị hạn chế, kế hoạch đẩy mạnh hoạt động đưa NLĐ đi
làm việc ở NN khó có thể đạt được mục tiêu đề ra.
Nhiều vụ việc lừa đảo, tranh chấp, vi phạm về hoạt động này đã diễn ra
nhiều nơi, nhiều cấp độ. Thời gian gần đây đã phát hiện và xử lý nhiều cá nhân,
tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN,
như hiện tượng “cò mồi”, tổ chức tuyển chọn thu tiền bất hợp pháp, bỏ dơi NLĐ
ở NN gây hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù các cơ quan thuộc Bộ, Ngành và địa
phương đã có nhiều biện pháp ngăn chặn, hạn chế tiêu cực nhằm đẩy mạnh hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở NN hiệu quả hơn, năng động và minh bạch hơn.
Nhưng tình trạng này không những giảm mà còn có nguy cơ xảy ra nhiều, tinh vi
và phức tạp hơn.
Văn bản pháp luật về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN vẫn đang trong
quá trình hoàn thiện, chưa theo kịp với những biến động của tình hình thực tế, sự
phối hợp của các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ, thiếu những chiến lược về
hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN ở tầm quốc gia, hiệu quả KT-XH chưa cao,
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn hạn chế, dẫn đến nhận thức của
một bộ phận NLĐ chưa đúng; thủ tục hành chính, công tác khai thác, định hướng
phát triển thị trường LĐ ngoài nước còn nhiều bất cập.
Mặt khác, do cơ chế chính sách của ta chưa tương đồng với nhiều nước tiếp
nhận LĐ nên sự thay đổi về chính sách, biến động thị trường LĐ ngoài nước thì
thường xuất hiện những bất lợi cho LĐ của ta, dẫn đến cạnh tranh bị hạn chế so
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Do đó việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp quản lý của nhà nước phù hợp
với điều kiện thực tế và hội nhập KTQT, để hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
NN được hiệu quả hơn là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các ngành các cấp. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” làm đề tài
nghiên cứu.



3

2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những nội dung cơ bản của hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
NN và QLNN về lĩnh vực này;
- Đánh giá thực trạng QLNN về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN của
nước ta thời gian vừa qua.
- Trên cơ sở định hướng và xu thế phát triển, từ đó đưa ra quan điểm đổi mới
trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Những nội dung QLNN về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN, hệ thống
văn bản pháp luật, trách nhiệm của các cơ quan quản lý, kinh nghiệm một số
nước trong việc quản lý hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN.
- Về không gian: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu QLNN đối với hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở NN trong phạm vi cả nước, không đề cập tới đối
tượng là chuyên gia. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước để tham khảo.
- Về thời gian: Từ năm 2000 đến nay.
- Thời gian định hướng đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp luận chung; sử dụng các số liệu của hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN;
vận dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp thông qua các số
liệu và biểu đồ minh họa.
5. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, ở trong nước đã có một số công trình nghiên cứu khoa học
liên quan đến hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN như: Các giải pháp đổi mới
nhà nước về XKLĐ ở Việt Nam trong giai đoạn 1995-2010 ( Trần Văn Hằng, luận
án Tiến sĩ kinh tế,1996); Một số giải pháp đổi mới quản lý tài chính về XKLĐ

Việt Nam theo cơ chế thị trường ( Nguyễn Thị Phương Linh, luận án tiến sĩ kinh
tế, 2004); Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác QLNN về XKLĐ của nước
ta trong giai đoạn hiện nay (Bùi Sỹ Tuấn, luận văn Thạc sỹ, 2006).


4

Ngoài ra còn một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp cơ sở, luận văn,
các bài viết đăng trên báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành cũng đã đề cập đến
hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN theo hợp đồng trong những năm qua.
Nhìn chung dưới góc độ nghiên cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu
trên mới tập trung nghiên cứu, phân tích đánh giá tình hình, tác động của hoạt
động XKLĐ, giải pháp chính sách, cơ chế quản lý trong nền kinh tế chuyển đổi.
Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, đề xuất giải pháp QLNN trong điều
kiện hội nhập KTQT.
Từ tình hình nêu trên, nghiên cứu đề tài nêu trên nhằm phân tích, đánh giá
thực trạng QLNN thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp đổi
mới QLNN trong điều kiện hội nhập KTQT, tạo điều kiện cho hoạt động XKLĐ
của Việt Nam phát triển đúng hướng theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
6. Những đóng góp của Luận văn
Luận văn đã tổng hợp và hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN về
hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN theo hợp đồng. Khẳng định hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở NN là hoạt động kinh tế, là một tất yếu khách quan, vì vậy cần
phải nâng cao nhận thức, chấp nhận cạnh tranh trên thị trường LĐ thế giới.
Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
NN trong các giai đoạn.
Nghiên cứu xu hướng phát triển thị trường LĐ ngoài nước và xác định chiến
lược đưa LĐ đi làm việc ở NN gắn với phát triển nhân lực quốc gia để đến năm
2020 Việt Nam có đủ cơ sở trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới QLNN đối với hoạt động đưa

NLĐ đi làm việc ở NN theo hợp đồng trong điều kiện hội nhập KTQT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được chia thành 3 Chương như
sau:
Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.


5

Chương II. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài của nước ta.
Chương III. Phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước
đối với hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian
tới.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở
NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG.
1.1. HOẠT ĐỘNG ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI.

1.1.1. Lý luận chung về hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng.
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài.
NLĐ đi làm việc ở NN - thường được gọi bằng thuật ngữ "Di cư LĐ quốc

tế" là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ lâu và gắn liền với lịch sử phát triển
của loài người. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư LĐ quốc tế, nhưng
lý do kinh tế vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Di cư LĐ quốc tế thường được thể hiện
ở hai hình thức là di cư tự do và di cư có tổ chức. Điểm mới trong di cư LĐ quốc
tế thời kỳ hiện đại là hình thức di cư có tổ chức, NLĐ đi làm việc ở NN, có sự
can thiệp và quản lý của Chính phủ các quốc gia.
Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN là một hình thức đặc thù của xuất
khẩu nói chung và là một bộ phận của kinh tế đối ngoại, mà hàng hoá đem xuất
khẩu “bán” là sức LĐ sống của con người, còn khách “mua” là chủ sử dụng LĐ
NN.
Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN là một hoạt động tất yếu khách quan
của quá trình chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế giữa các nước trong sản xuất,
nhằm bổ sung nhân lực giữa các quốc gia, khắc phục các mặt khó khăn và phát
huy sức mạnh vốn có của mỗi quốc gia.
Di cư LĐ quốc tế ở Việt Nam thời gian qua có quá trình phát triển riêng,
xuất phát từ điều kiện phát triển KT-XH trong nước, phụ thuộc vào quy mô hợp
tác quốc tế, mức độ mở cửa trong quan hệ quốc tế của nước ta trong từng thời kỳ.
Với chủ trương đổi mới được xác định và phát triển từ Đại hội VI của Đảng, thị


7

trường LĐ trong nước được hình thành và phát triển. Với tư duy mới khẳng định
sức LĐ là một loại hàng hoá được đánh giá là một bước ngoặt quan trọng quyết
định sự phát triển của thị trường LĐ trong nước, mở ra khả năng phát triển hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở NN với quy mô, nội dung, hình thức tổ chức, hiệu
quả hoàn toàn khác với giai đoạn trước đổi mới ( 1980-1990).
Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở NN theo hợp đồng là văn bản pháp lý cao
nhất về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN khẳng định: NLĐ đi làm việc ở NN
theo hợp đồng là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo

qui định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận LĐ, đi làm việc
ở NN theo qui định ( tức là trong thời gian làm việc phải tuân thủ qui định pháp
luật nước tiếp nhận LĐ).
Như vậy, NLĐ có nhu cầu đi làm việc ở NN là hoàn toàn tự nguyện, tuy
nhiên họ phải được cơ quan hoặc tổ chức đảm nhận và tổ chức quản lý dưới nhiều
hình thức khác nhau.
1.1.1.2. Hình thức hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài.
* Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN bao gồm đưa NLĐ đi làm việc ở NN
và trong nước( tại chỗ) hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN được thể hiện theo
các loại hình sau:
. Đi theo hiệp định Chính phủ giữa hai nhà nước như ta đã thực hiện phổ
biến ở giai đoạn 1980-1990, LĐ của ta ở các nước được sống, sinh hoạt theo đoàn
đội, có sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới, LĐ của ta được làm việc xen
ghép với LĐ các nước.
. DN được cấp giấy phép hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN, tức là DN
hoạt động dịch vụ, về cơ bản tuân thủ pháp luật theo Luật DN.
. Tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN: (đơn
vị hành chính sự nghiệp đại diện cơ quan Chính phủ làm đầu mối thực hiện các
hoạt động trung gian đưa NLĐ đi làm việc ở NN theo điều kiện 2 nước ký kết).


8

. DN trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài cử
người LĐ ra nước ngoài làm việc cho chính DN theo thời hạn nhất định.
. DN đưa người LĐ đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề,
vừa học vừa làm;
. Cá nhân tự tìm việc làm ngoài nước.
* Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN tại chỗ là hình thức các tổ chức

kinh tế của ta cung ứng LĐ cho các tổ chức kinh tế NN ở Việt Nam bao gồm: Các
xí nghiệp có vốn đầu tư của NN; các khu chế xuất; các tổ chức cơ quan ngoại
giao của NN ở Việt Nam.
1.1.1.3. Lợi ích chủ yếu từ hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài.
Hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia chương trình hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở NN. Đối với các nước phát triển, họ xuất LĐ “chất xám” có
kỹ thuật cao. Còn đối với các nước kém phát triển, họ đưa những LĐ “dư thừa”,
trình độ tay nghề kỹ thuật thấp nhằm giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện sống
cho gia đình họ. Tuy nhiên, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN mang lại nhiều
kết quả bổ ích cho cả hai bên.
* Đối với nước đưa LĐ ra NN sẽ thu được:
Tăng thêm ngoại tệ, giảm sức ép về việc làm trong nước, tăng thêm của cải
vật chất cho xã hội, giảm chi tiêu trong nước, tăng thêm tri thức kinh nghiệm làm
ăn kinh tế, giảm tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra, tạo một lượng LĐ tích cực,
học tập được phong cách LĐ mới do tổ chức ở NN trang bị. Mở rộng quan hệ
hiểu biết lẫn nhau, giới thiệu con người và đất nước mình cho các nước…
Bên cạnh tác động tốt, việc đưa NLĐ đi làm việc ở NN cũng dễ dàng gánh
phải các hậu quả xấu ( không mong muốn) như: Giảm bớt bộ phận LĐ trẻ khoẻ,
có trình độ văn hoá chuyên môn tương đối cao; gây biến động về sức mua trong
nước, có thể mất bí mật kinh tế do NLĐ mang đi bán, dễ để lại tính xấu ở nước
nhận LĐ nếu LĐ sang đó có hành động sai trái như vi phạm luật pháp, phong tục


9

tập quán… NLĐ còn dễ dàng mang theo những nếp sống không phù hợp, các
bệnh xã hội từ NN về sau thời gian đi làm việc ở NN.
* Đối với nước tiếp nhận LĐ:
Sẽ thu được những lợi ích đáng kể, bù đắp LĐ thiếu hụt, khai thác có hiệu

quả tiềm năng của đất nước, mở rộng quan hệ và uy tín với nước có LĐ; khai thác
kinh nghiệm, kiến thức, tác phong LĐ và cung cách quản lý của nước khác, mở
rộng nhu cầu thị trường trong nước…
Tất nhiên nước tiếp nhận LĐ có thể đồng thời phải chịu những ảnh hưởng và
tác động xấu của NLĐ đến làm việc ở nước mình như: du nhập lối sống và bệnh
tật xã hội bên ngoài vào; có nguy cơ mất một số bí mật quốc gia; phải lo cung
ứng thêm một khối lượng lương thực, thực phẩm và hàng hoá tiêu dùng….
Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN đã
chứng minh vai trò của hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN là một hoạt động
kinh tế quan trọng, không thể tách rời khỏi sự phát triển đất nước đối với nhiều
quốc gia. Sự phát triển không đều về kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như sự
phân bố không đều về tài nguyên giữa các quốc gia, dẫn đến hậu quả là sự phát
triển không đều giữa các quốc gia, không quốc gia nào lại có đủ, đồng bộ các yếu
tố sản xuất. Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc giải quyết tình trạng mất cân
đối trên là tất yếu dẫn đến hình thành thị trường quốc tế, trong đó có thị trường
LĐ. Khi đó, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN đã trở thành hoạt động kinh tế
quan trọng và phổ biến nhưng có tính xã hội cao của nhiều nước trên thế giới
trong nhiều thập kỷ qua. Trước hết, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN góp
phần giải quyết việc làm, tiết kiệm được chi phí đầu tư tạo việc làm trong nước,
điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam trong
tình trạng dư thừa LĐ; góp phần thu ngoại tệ về cho đất nước, được đào tạo và
chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang cho các nước đang phát triển
và cuối cùng là phát triển quan hệ hợp tác, giao lưu văn hoá và hội nhập quốc tế.


10

1.1.1.4. Vai trò, đặc điểm của các bên tham gia hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài.
* Nhà nước với vai trò chủ thể quản lý:

Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN là một lĩnh vực hoạt động kinh tế đối
ngoại đặc thù, có tầm chiến lược, được tạo điều kiện thuận lợi để phát huy thế
mạnh nguồn lực trong nước và có phạm vi hoạt động rộng lớn trên thị trường LĐ
quốc tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN là một lĩnh vực KT-XH hết
sức phức tạp và nhạy cảm đối với toàn xã hội và quan hệ quốc tế. Hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở NN trong thời gian qua, hiện nay và tương lai được thực hiện
trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia cung cấp LĐ, quan hệ cung cầu LĐ
mất cân đối nghiêm trọng do nhu cầu tìm việc làm ngoài nước quá lớn, nhưng
khả năng thị trường còn quá hạn chế. Hệ thống pháp luật và chính sách hỗ trợ cho
hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN chưa được đầy đủ và hoàn chỉnh, NLĐ
phải tìm việc ở ngoài nước xa chủ thể quản lý, trong khi nhận thức về quan hệ
chủ thợ, về pháp luật LĐ nước sở tại còn hạn chế. Các tranh chấp về LĐ, dân sự
thường dễ mang tính quốc tế, nếu không có phương pháp xử lý, dễ đưa đến tranh
chấp của hai quốc gia và quốc tế. Về mặt xã hội của vấn đề cũng có những phức
tạp, đó là tâm lý gia đình, môi trường và thói quen.
Với tầm quan trọng của hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN trong chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế nước ta, thời gian qua hoạt động đưa NLĐ đi
làm việc ở NN được thực hiện trong điều kiện hệ thống pháp luật, chính sách
chưa hoàn chỉnh, đội ngũ DN XKLĐ tuy đông nhưng về chất lượng, hiệu quả
chưa cao, chưa được trang bị đầy đủ kiến thức kinh tế thị trường, thiếu ngoại ngữ,
thiếu am hiểu hệ thống pháp luật và chính sách của các nước ở khu vực mới.
Trong tình hình đó, sự can thiệp của nhà nước với tư cách là “bà đỡ” và là người
quản lý, giám sát và định hướng cho hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN là hết
sức cần thiết.


11


* DN XKLĐ với vai trò là khách thể quản lý.
Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN ngày càng không còn là một việc làm
của một cá nhân riêng lẻ, vì quy mô của việc ra đi và nhu cầu của nơi sử dụng
không phải là nhỏ. Việc ra đi của NLĐ còn liên quan tới thủ tục xuất nhập cảnh
của cả hai nước. Thêm nữa việc đưa NLĐ đi làm việc ở NN và tiếp nhận LĐ còn
phải tuân thủ các thông lệ và Công ước quốc tế mà Liên hợp quốc đã nêu rõ các
nước phải thực hiện. Ngoài ra bản thân mỗi NLĐ khi ra NN làm việc cũng đòi
hỏi phải có một thế lực nào đó bảo đảm lợi ích và an toàn sinh mạng cho họ.
Nhiều nước tiếp nhận LĐ đều đưa ra những đòi hỏi khá khắt khe đối với NLĐ,
đòi hỏi NLĐ làm thuê phải phù hợp với yêu cầu của họ, các đòi hỏi này mỗi cá
nhân là rất khó, thậm chí không có khả năng tự thực hiện được. Cho nên việc
hình thành đội ngũ DN XKLĐ để bảo vệ lợi ích và an toàn cho NLĐ là một đòi
hỏi mang tính khách quan. Tuy nhiên, đội ngũ DN XKLĐ này cần được tổ chức
tốt với một cơ chế quản lý phù hợp với yêu cầu của thị trường sức LĐ thế giới thì
mới có thể tồn tại được.
Ở nước ta, trong số trên 150 DN XKLĐ thì có tới 90 DN thuộc loại nhỏ,
bình quân hàng năm các DN này chỉ đưa đi được dưới 200 LĐ đi NN làm việc.
Họ không có đủ năng lực để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo tiếp cận thị trường.
Chỉ có chưa đến 20 DN hoạt động có tính chuyên doanh, có chức năng hoạt động
đưa NLĐ đi làm việc ở NN là nhiệm vụ chính và nhờ vậy hoạt động có hiệu quả
cao.
Không ít DN chạy theo lợi ích cục bộ, cạnh tranh với nhau để tranh giành
hợp đồng, dẫn đến tăng chi phí và giảm thu nhập của người LĐ, gây thiệt hại cho
người LĐ; rút ngắn thời gian đào tạo, chất lượng đào tạo thấp, dẫn đến tỡnh trạng
người LĐ đi làm việc ở NN chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn kỹ thuật,
trình độ ngoại ngữ thì yếu, thiếu ý thức tuân thủ pháp luật cũng như sự hiểu biết
về phong tục tập quán ở nước sở tại. Việc quản lý và hỗ trợ người LĐ trong thời
gian họ làm việc ở NN cũng rất yếu, thiếu nhanh nhạy và không hiệu quả, thậm
chớ tỡnh trạng “đem con bỏ chợ” vẫn chưa được khắc phục. Điều này thể hiện



12

đặc biệt rừ khi xảy ra những sự cố, như khi công ty sử dụng LĐ phá sản, hay
người LĐ gặp tai nạn hoặc gặp rủi ro phải về nước trước thời hạn. Trong những
trường hợp này, người LĐ chậm được hỗ trợ, không biết kêu ai, trong khi thủ tục
xử lý phức tạp, gây tốn phí lớn đối với người LĐ và gia đình họ.
Việc siết chặt quản lý đối với các DN XKLĐ đó được đặt ra trong nhiều văn
bản của cơ quan QLNN và đang được thực hiện, song rõ ràng là công việc này
cần phải được triển khai một cách ráo riết hơn nữa.
* Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có các đặc điểm:
- NLĐ ở khu vực nông nghiệp – nông thôn là chủ yếu. Điều này cũng có
nghĩa là tạo việc làm để thu hút LĐ nông thôn đang là vấn đề bức xúc ở nước ta.
Thời gian qua, tỷ lệ lực lượng LĐ nông thôn mặc dù đã có xu hướng giảm
( 77,42% năm 2000 giảm còn 65,8% năm 2006) song tốc độ giảm chậm. LĐ ở
nông thôn lớn gấp ba lần so với LĐ ở khu vực thành thị.
- Những người LĐ đi làm việc ở NN phần lớn xuất thân là nông dân. Họ
được gọi là những LĐ “3 không” - không nghề, không ngoại ngữ, không tác
phong công nghiệp. Hầu hết những người LĐ có nguyện vọng đi làm việc ở NN
đều muốn đi làm việc trong thời gian sớm nhất. Đặc biệt, là những người nghèo.
Họ không đủ kinh phí để theo học khoá dạy nghề chính quy 12 - 24 tháng; thậm
chí ngay cả khóa đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng kéo dài 2-3 tháng
cũng là một khó khăn không nhỏ về tài chính đối với họ. Trong khi đó, nhu cầu
thu nhập để giúp đỡ gia đỡnh lại rất cấp bỏch.
- Số lượng LĐ có xu hướng tăng nhanh. Trong thời kỳ 2000-2005, tốc độ
tăng bình quân khoảng 2,1%/năm, tương ứng với trên 900 ngàn người. LĐ trong
độ tuổi chiếm tỷ lệ cao trong tổng lực lượng LĐ ( trên 95%). Trong đó LĐ trẻ
( 15 đến 34 tuổi) chiếm tỷ lệ cao ( 50%). Đây là một lợi thế của lực lượng LĐ. Vì
LĐ trẻ này có thể lực, thuận lợi cho việc đào tạo, nâng cao trình độ đáp ứng yêu
cầu của thị trường LĐ. Nguồn LĐ đưa đi hiện nay của Việt Nam ước tính khoảng

5-6 triệu người song cũng không đủ đáp ứng yêu cầu của thị trường NN về số
lượng LĐ có tay nghề cao trong các ngành: Điện tử, Công nghệ thông tin, thợ


13

hàn, thủy thủ, chuyên gia nông nghiệp…đối với các thị trường yêu cầu LĐ kỹ
thuật như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc…
- Chất lượng nguồn LĐ đã từng bước được cải thiện nhưng chậm so với yêu
cầu phát triển kinh tế đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và trước
những thay đổi nhanh của khoa học công nghệ. Lực lượng LĐ đã qua đào tạo
theo các loại hình và trình độ khác nhau, năm 2001 tỷ lệ LĐ đã qua đào tạo là
16,8%, năm 2005 là 25%, năm 2006 nâng lên 29% và mục tiêu đến năm 2010 tỷ
lệ LĐ qua đào tạo phấn đấu đạt 50% trên tổng số LĐ cả nước. Mặt khác, NLĐ
Việt Nam lại yếu ngoại ngữ, thiếu hiểu biết về luật pháp, kiến thức công nghệ
thông tin, yếu sức khỏe, điều này làm cho chất lượng nguồn LĐ cung ứng giảm.
Bất lợi này đang dẫn đến xu hướng bị ép giảm giá trị LĐ trên thị trường trong
nước và quốc tế.
- Thể lực của LĐ Việt Nam nhìn chung là kém. Số người không đủ cân nặng
ở Việt Nam chiếm tới 48,7%. Số lượng người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ
thiếu máu là 40%.
- Ngoài ra, NLĐ trong nước tuy không có việc làm hoặc có thu nhập thấp,
nhưng nếu đi làm việc ở NN lại thường lựa chọn những thị trường trả tiền lương
cao hơn. Ở những nước, những ngành nghề trả lương thấp như thị trường
Malaysia, Trung Đông... Vì thế, việc đáp ứng đủ số lượng và chất lượng LĐ hiện
vẫn còn là một vấn đề cần phải quan tâm và phấn đấu của Nhà nước và các DN
XKLĐ Việt Nam.
1.1.2. Các giai đoạn phát triển của hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài.
Hiện tượng quốc tế hoá sản xuất và đầu tư bùng nổ vào những thập kỷ gần

đây đi đôi với việc quốc tế hoá thị trường sức LĐ. Di cư LĐ quốc tế trở thành
một bộ phận không thể tách khỏi của hệ thống kinh tế thế giới hiện nay.
Theo thống kê của Tổ chức di cư thế giới ( IOM), trong những năm đầu của
thập kỷ 80, số người di cư mới đạt đến 25 triệu người thì đến nay có khoảng 192
triệu người đang làm việc ở nhiều nước khác nhau, chiếm 3% tổng dân cư trên


14

toàn thế giới. Ước tính của Tổ chức lao động quốc tế ( ILO), trung bình cứ 25
NLĐ trên thế giới thì có 1 người đang làm việc ở NN. Như vậy số lượng LĐ đi
làm việc ở NN là rất lớn và gia tăng nhanh chóng, số nước tiếp nhận LĐ cũng
ngày càng nhiều.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của trào lưu di cư LĐ quốc tế,
đặc biệt là khu ở vực Châu Á, ta thấy trào lưu này được hình thành qua 3 giai
đoạn rõ rệt kể từ thời kỳ phát triển của ngành hàng hải phương Tây và sự bành
trướng của hệ thống thuộc địa từ thế kỷ trước.
Giai đoạn đầu tiên,
Là trào lưu di cư LĐ từ Ấn độ - thuộc địa của Anh đến các đồn điền ở vùng
Caribe, Châu Phi và Đông á, gồm những LĐ rẻ tiền, một hình thức mới của chế
độ nô lệ khổ sai. NLĐ di cư làm việc tại đồn điền mía ở quần đảo Mauritins và
Fiji, các đồn điền chè tại Cayion, các đồn điền của Pháp ở đảo Reunion,
Martinique, các đồn điền cao su ở Malaysia và các thuộc địa của Anh ở Châu phi.
Dạng di cư LĐ này thậm chí sau này còn bị coi là một dạng mới của chế độ nô lệ,
vì các chủ đồn điền rất ít khi quan tâm đến NLĐ, cả vật chất cũng như tinh thần.
Theo tính toán của các chuyên gia, trong thời kỳ thuộc địa này, từ năm 1934 đến
1937 có khoảng 30 triệu người rời tiểu lục địa sang các vùng khác, nhưng chỉ có
khoảng 24 triệu người về lại quê hương.
Giai đoạn thứ hai,
Bắt đầu vào thời kỳ tân lực của hệ thống thuộc địa sau đại chiến thế giới lần

thứ II, khi có một số lượng người đông đảo từ Châu Á, đặc biệt là từ tiểu lục địa,
di cư đến các vùng Châu âu và Bắc Mỹ. Rất nhiều người đã vào làm việc tại các
cơ sở công nghiệp đã “tàn lụi” trên đất Anh, song cũng có một số đông thuộc
những người di cư là những người thợ có tay nghề, sinh viên học tại Mỹ và
Canada không trở về nước sau khi học xong. Người ta ước tính riêng trong năm
1985 đã có khoảng 750.000 người gốc Ấn độ ở các nước Tây âu có nền công
nghiệp phát triển. Theo số liệu của cơ quan nhập cư Hoa Kỳ, từ năm 1960-1981


15

có khoảng 1,7 triệu người từ các nước Đông á đến Mỹ, số người nhập cư vào
Canada từ năm 1971-1981 khoảng 250.000.
Giai đoạn thứ ba,
Là giai đoạn bùng nổ xây dựng ở các nước Vùng vịnh khi dầu mỏ trở thành
ngành chủ lực của nền kinh tế khu vực này. Thời kỳ này chứng kiến sự phát triển
rất nhanh của lực lượng LĐ các nước tại Vùng Vịnh và đây trở thành một trung
tâm chính thu hút LĐ Châu á, từ 120 nghìn vào năm 1970 đến 1,8 triệu năm 1990
và khoảng 3,5 triệu năm 1985.
Việc sử dụng LĐ NN từ lâu đã trở thành điều kiện tất yếu của quá trình tái
sản xuất thông thường. Ở các nước đang sử dụng công nhân NN, có những ngành
phải phụ thuộc vào nguồn LĐ nhập khẩu. Trong khi đó, đối với phần lớn các
nước đang phát triển có LĐ xuất khẩu, việc ngừng xuất khẩu này sẽ làm mất một
nguồn thu ngoại tệ đáng kể.
Từ phân tích các trào lưu di cư LĐ quốc tế, ta thấy rằng các quá trình di cư
LĐ quốc tế được đặc trưng bởi:
- Đặc trưng thứ nhất là: Di cư LĐ quốc tế sẽ góp phần nâng cao phúc lợi
mọi mặt của NLĐ và góp phần cải thiện sự thiếu hụt ngoại tệ của các nước cung
cấp LĐ và NLĐ ra NN làm việc là tránh sự đói nghèo trong nước.
- Đặc trưng thứ hai là: là nhu cầu tiếp nhận ngày càng nhiều LĐ của các

nước.
- Đặc trưng thứ ba: Trào lưu di cư phụ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế
và đời sống của nhân dân nước nhập cư.
- Đặc trưng thứ tư là: Chất lượng LĐ di cư là yếu tố quyết định.
Nhà nước có ảnh hưởng tích cực đến quá trình di cư. Khi sản xuất tăng
mạnh, việc nhập khẩu LĐ được phép tự do hoá, còn trong trường hợp ngược lại
thì nhập khẩu LĐ bị hạn chế.
1.1.3. Xu hướng phát triển của hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài.


16

Theo thống kê của ILO, hiện có khoảng trên 60 nước đưa LĐ ra nước ngoài
làm việc, với tổng số gần 120 triệu người, trong đó các nước Châu Á chiếm hơn
50%. Hầu hết các nước trên thế giới đều có LĐ nước ngoài làm việc, ILO ước
tính trên 200 nước tiếp nhận LĐ nước ngoài, nhưng chủ yếu tập trung ở các nước
phát triển, khoảng 1/3 ở Châu Âu, 20% ở Bắc Mỹ, 15% ở Châu Phi, 12% ở các
nước Arập, tất cả các khu vực Đông Bắc á, Đông và Nam á, Trung và Nam Mỹ
chiếm chưa đến 10%.
Hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN được thực hiện trong sự cạnh tranh
gay gắt giữa các quốc gia. Ngày càng có nhiều nước tham gia vào lĩnh vực hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở NN, trong hiện tại và lâu dài các nước tiếp nhận LĐ
chỉ muốn tiếp nhận LĐ có kỹ năng cao, thích ứng với công nghệ mới, đặc biệt là
công nghệ thông tin, siết chặt chính sách nhập cư và có xu hướng quản lý LĐ
nhập cư thông qua các hợp đồng LĐ tạm thời ( hợp đồng có thời hạn ngắn) và các
chính sách quản lý LĐ nhập cư; Đồng thời các nước cũng thông qua ILO và IOM
để giải quyết vấn đề di dân và nhập cư LĐ một cách toàn diện, phục vụ lợi ích
của các quốc gia, người LĐ và toàn xã hội.
Mặt khác, trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố của quá trình tái sản

xuất hàng hoá và dịch vụ được dịch chuyển tự do từ nước này sang nước khác
thông qua các cam kết mở cửa thị trường nên sự phân công LĐ ngày càng sâu
sắc. Các DN nước ngoài khi vào Việt Nam sẽ sử dụng chính sách về lương và các
chính sách ưu đãi khác nhằm thu hút LĐ, nhất là LĐ có trình độ, năng lực và tay
nghề cao. Điều này đũi hỏi các DN trong nước cần có chiến lược đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực phù hợp để không bị “thua ngay trên sân nhà”.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở
NƯỚC NGOÀI.

1.2.1. Sự cần thiết đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài.


17

1.2.1.1. Xu thế hội nhập KTQT tác động đến hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài.
Kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu và khu
vực. Mỗi một biến động tích cực hoặc tiêu cực của kinh tế khu vực và thế giới
đều có những tác động nhiều mặt đến kinh tế Việt Nam.
Đảng và nhà nước có chủ trương chủ động hội nhập KTQT, tranh thủ mọi
thời cơ phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN.
Đây là sự đổi mới tư duy rất sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong nhận thức về
thời đại, về cục diện thế giới cũng như trong đường lối, chính sách và phương
châm hành động trong hoạt động đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN, tham gia AFTA và APEC, bình thường
hoá và lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, ký kết được Hiệp định thương mại Việt –
Mỹ, đặc biệt sự kiện gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), hàng loạt các

Hiệp định, Nghị định thư thoả thuận hợp tác trong lĩnh vực LĐ với các nước, mở
đường cho hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN phát triển.
Cùng với công cuộc đổi mới, chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta,
xu hướng toàn cầu hoá hiện nay và quá trình hội nhập về kinh tế đã tạo điều kiện
cho hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN của Việt Nam những cơ hội sau:
- Trước hết, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới, có
cơ quan đại diện ngoại giao tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, nên có nhiều cơ
hội tìm hiểu khả năng đưa LĐ đi làm việc ở NN. Trong quá trình hội nhập, nhiều
cơ hội việc làm ở NN sẽ mở ra đối với LĐ Việt Nam.
- Khi Việt Nam tham gia vào quá trình phân công LĐ quốc tế, thì thị trường
không còn bó hẹp trong biên giới quốc gia. NLĐ có cơ hội học hỏi nhiều hơn,
tiếp cận với những môi trường làm việc mới và sẽ có thu nhập cao hơn.
- Các DN XKLĐ của Việt Nam có thể khai thác và tìm hiểu thông tin về nhu
cầu LĐ của các nước qua nhiều kênh thông tin như tham gia các hoạt động xúc


18

tiến thương mại, hội nghị quốc tế… để thăm dò và khai thác những cơ hội đưa
NLĐ đi làm việc ở NN.
- Nhiều DN NN đầu tư hoạt động tại Việt Nam cũng có nhu cầu nhận LĐ
Việt Nam, kể cả những người đã từng làm việc, tu nghiệp tại nước mình vào làm
việc (DN của Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…).
- Chúng ta sẽ có được sự quan tâm sâu sắc hơn của các tổ chức quốc tế về
các vấn đề mang tính toàn cầu như xoá đói giảm nghèo, phòng chống dịch bệnh,
thiên tai… Vấn đề việc làm ở nước ta cũng sẽ được hưởng lợi từ những dự án
quốc tế.
1.2.1.2. Sự phát triển thị trường lao động thế giới.
Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết thị trường LĐ thế giới đã tăng gấp 4 lần so
với năm 1980 và theo dự kiến đến năm 2050, thị trường này sẽ tăng gấp đôi so

với hiện nay. Theo IMF, sự phát triển của thị trường LĐ quốc tế được thể hiện
trên ba kênh: Xuất nhập khẩu các sản phẩm tinh chế, sản xuất theo hướng phi tập
trung của các DN và hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN. Xu hướng quốc tế
hoá thị trường LĐ đang làm cho nhiều nước được hưởng lợi. Các nước đông dân
và các nước đang phát triển giải quyết được vấn đề việc làm, cải thiện thu nhập
của người dân. Trong khi đó, nhập khẩu LĐ mang lại nguồn lợi lớn cho các nước
phát triển. Vấn đề thiếu nhân công ở các nước Tây Âu, Mỹ và Nhật Bản đang dần
được giải quyết.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá việc làm cũng tác động tiêu cực đến thu nhập LĐ
trong tổng thu nhập của thế giới. Trên thực tế, giá nhân công rẻ, thêm vào đó là sự
phát triển của LĐ bất hợp pháp, đó làm doanh thu từ việc làm giảm 7% so với
năm 1980. Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ thông tin cùng với khả năng
thay thế con người của máy móc cũng là một trong những nguyên nhân làm cho
thu nhập của thị trường LĐ giảm đi.
ILO dự báo, đến năm 2015 ASEAN sẽ có thêm 55 triệu LĐ mới (tăng 19.8%
so với mức năm 2007). Mức tăng mạnh nhất ở các quốc gia như Lào, Campuchia
và Philippin. Lực lượng LĐ của Thái Lan dự đoán tăng 1%/năm, trong khi đó


19

tăng trưởng GDP sẽ đạt khoảng 4,5% tạo nên sức ép cầu LĐ là 243000 người
(2007) và 474000 người (2011). Lực lượng LĐ Malaysia tăng nhanh hơn của
Thái Lan, khoảng 2,3%. Singapore và Thái Lan sẽ phải đối diện với tình trạng
thiếu LĐ và hậu qủa KT-XH của lực lượng LĐ già hóa. Nếu như các quốc gia này
vẫn duy trỡ được mức sống của số dân già hóa, thì họ sẽ buộc phải tiếp tục tăng
năng suất LĐ.
Trong báo cáo của ILO tựa đề “ Triển vọng LĐ thích hợp cho thập niên phát
triển bền vững và LĐ từ nay đến năm 2015” thì năng suất LĐ cao của Châu Á nói
chung cũng như của các nước ASEAN nói riêng đang là động lực thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu không tạo thêm được việc làm, các nước sẽ phải
đổi mặt với nguy cơ dư thừa LĐ trong tương lai. ILO cho rằng, LĐ giá rẻ sẽ là
thế mạnh của Châu Á và từ nay đến năm 2015, Châu lục này sẽ có thêm 200 triệu
LĐ. Với một thị trường LĐ đầy tiềm năng như vậy sẽ đóng góp rất lớn cho tăng
trưởng kinh tế trong khu vực.
Việt Nam là nước kinh tế đang phát triển, có số dân đông, tỷ lệ người trẻ
chiếm phần lớn, tỷ lệ sinh tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao, do đó lực lượng LĐ sẽ
tiếp tục tăng. Tuy nhiên, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng tỷ lệ sinh
giảm nhanh chóng, trong khi thế hệ dân số trẻ hiện nay đã tham gia vào thị trường
LĐ trong giai đoạn 2011-2020, lực lượng LĐ tiềm năng sẽ giảm đi đáng kể. Điều
này cũng cần lưu ý khi chúng ta xây dựng một chiến lược phát triển đưa NLĐ đi
làm việc ở NN, thay vì tăng nhanh về số lượng LĐ đi làm việc ở NN mà cần nâng
cao chất lượng LĐ có tay nghề, trình độ cao và LĐ trong lĩnh vực dịch vụ để đáp
ứng nhu cầu của các nước tiếp nhận LĐ.
1.2.1.3. Hiệu quả kinh tế – xã hội trong hoạt động đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, sức LĐ được coi là hàng hoá - đó là loại
hàng hoá đặc biệt, thì hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN được thực hiện chủ
yếu trên cơ sở quan hệ cung cầu sức LĐ. Nó chịu sự tác động, sự điều tiết của các
quy luật kinh tế thị trường. Bên “cầu LĐ” phải tính toán kỹ hiệu quả kinh tế của


20

việc sử dụng LĐ. Vì vậy, “cầu LĐ” xác định chặt chẽ số lượng, chủng loại LĐ
hợp lý với chất lượng LĐ cao. Do vậy, muốn cho hàng hoá đặc biệt của mình
chiếm được ưu thế trên thị trường LĐ thì bên cung LĐ cũng phải có sự chuẩn bị
và đầu tư để loại hàng hoá đặc biệt này được thị trường chấp nhận, phải đáp ứng
kịp thời về số lượng, chủng loại với chất lượng cao. Chất lượng LĐ càng cao,
càng đem lại hiệu quả kinh tế lớn và càng được thị trường NN chấp nhận. Chất

lượng LĐ cao thể hiện ở trình độ tay nghề phù hợp với công nghệ của nước tiếp
nhận LĐ, thể lực tốt, có ngoại ngữ, được trang bị đầy đủ kiến thức làm việc theo
tác phong công nghiệp, am hiểu luật pháp và phong tục tập quán của nước sử
dụng.
Những năm gần đây, mỗi năm có khoảng 60.000 - 70.000 người đi làm việc
ở NN. Nếu năm 1995, mới có 290 nghìn LĐ làm việc tại 15 nước thì đến nay có
trên 500 nghìn người làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ. Năm 2006 là
năm đạt 78.855 người đi, năm 2007 đạt trên 85.020 người. Số tiền mà những LĐ
này gửi về cho gia đình mỗi năm vào khoảng 1,6 – 1.8 tỉ đô la Mỹ.

( Nguồn: Cục QLLĐNN )
Mặt khác, LĐ Việt Nam có mặt ở 40 quốc gia và vựng lãnh thổ, nhưng thực
tế tập trung chủ yếu tại 4 thị trường chính là Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc và
Nhật Bản. Tại Malaysia hiện có trên 110.000 người làm việc, thu nhập bình quân
2-3 triệu đồng/tháng; tại Đài Loan có khoảng 70.000 người, thu nhập 300-


21

500USD/tháng; tại Hàn Quốc có trên 48.600 người, thu nhập bình quân khoảng
900-1000USD/tháng và tại Nhật Bản có khoảng 19.000 tu nghiệp sinh, thu nhập
bình quân trên 1000 USD/tháng.
Biểu 1.2 : Số LĐ đang làm việc ở một số thị trường LĐ chính năm 2007*
Nơi đến

Số

Loại công việc

Thu nhập một


người
Trên

- Công nhân lắp ráp điện tử

tháng (US$)
US$ 150-200

Malaysia

110.000

- Công nhân xây dựng
- Công nhân dệt may

Đài Loan

Trên

- Dịch vụ
- Công nhân công nghiệp

70.000

- Công nhân xây dựng

US$ 300-500

- Thủy thủ

Trên

- Giúp việc gia đình, Hộ lý
- Công nhân công nghiệp

48.600

- LĐ nông nghiệp

19.000

- Thủy thủ
- Công nhân lắp ráp điện tử

US$

- Thủy thủ
- Công nhân xây dựng

1,500
US$

Vương quốc Ả

- Công nhân lắp ráp điện tử

1,000

Rập thống nhất


- Nhân viên phục vụ khách sạn,

Quatar

nhà hàng
- Công nhân xây dựng

Hàn Quốc

Nhật Bản
Các

Tiểu 3.000

7.000

US$ 450-1,000

1,000400



Chú thích: * Số liệu chưa bao gồm số LĐ đi theo các con đường phi chính
thức (tự tìm việc, di cư theo thân nhân ở nước ngoài bảo lãnh, v.v.).
( Nguồn: Cục QLLĐNN )
Tuy vậy, so sánh với một số nước Châu Á như: Philippine, Trung Quốc,
Indonesia và Ấn độ thì Việt Nam cũng thua kém cả về số lượng LĐ lẫn thu nhập.


22


Philipin là nước nổi bật nhất về XKLĐ. Hiện có khoảng 7-8 triệu người
Philippin đang LĐ ở nước ngoài (tức là khoảng 10% dân số và 20% LĐ của cả
nước), mỗi năm gửi về 12-14 tỷ USD, tương đương gần 10% GDP. LĐ Philipin
làm việc ở trên 190 nước. 70% LĐ xuất khẩu của Philipin là nữ. Có khoảng 650
công ty tư nhân trực tiếp tuyển dụng LĐ, làm việc và ký hợp đồng với các đối tác
bên ngoài, tuy nhiên trong số này chỉ có hơn 20 công ty làm ăn tín nhiệm và hiệu
quả. Trung Quốc chưa đến 1 triệu LĐ, nhưng từ khi cải cách mở cửa cuối những
năm 1970 đến nay đó cú 18 triệu người ra sống và làm việc ở NN. Inđônêsia
trung bình mỗi năm đưa trên 8 vạn LĐ với số ngoại tệ thu về 4,67tỷ USD; Ấn Độ
mỗi năm đưa được 50.000 LĐ và thu về gần 11 tỷ USD.
1.2.1.4. Cơ chế, chính sách chưa phù hợp với xu thế mới.
Trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền KTQT, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ
các cam kết với các nước và các tổ chức quốc tế, phải chấp nhận cạnh tranh trên
một sân chơi không khoan nhượng, cạnh tranh rất gay gắt. Trong khi thể chế kinh
tế chưa hình thành đồng bộ; nhiều cơ chế, chính sách, luật lệ chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Thúc ép trong quá trình hội nhập KTQT buộc chúng ta phải tập trung hoàn
thiện một số lĩnh vực như:
+ Hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường nhất là thị trường sức LĐ, thị
trường tài chính và thị trường công nghệ…
+ Thực hiện các cam kết của Việt Nam trong các mối liên kết KTQT, đặc
biệt là trong WTO, không chỉ là nhiệm vụ mà còn có vai trò vô cùng quan trọng
để Việt Nam có thể cải cách kinh tế trong nước, cải thiện môi trường kinh doanh,
tăng cường năng lực cạnh tranh, tăng năng suất LĐ và lợi ích của người tiêu
dùng.
Đối với hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN, chúng ta thừa nhận rằng cơ
chế, chính sách pháp luật còn thiếu các chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm các vi
phạm của DN và NLĐ, đặc biệt đối với vi phạm bỏ trốn làm việc bất hợp pháp ở
NN, vi phạm pháp luật nước sở tại. Trong lĩnh vực QLNN, chúng ta chưa được



23

đầu tư và tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường LĐ ngoài nước, khả năng dự
báo tình hình thị trường trong nước và ngoài nước vẫn kém, nên trước sự biến
động của thị trường LĐ vẫn còn lúng túng trong cách giải quyết và thường bất lợi
thuộc về ta.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài.
QLNN là sự biểu hiện năng lực của con người trong việc tổ chức và điều
chỉnh các quan hệ xã hội một cách có ý thức dưới một hình thức có tổ chức xã hội
nhất định – Tổ chức nhà nước và QLNN. Vì vậy QLNN biểu hiện trước hết ở
những tác động có ý thức vào các quá trình phát triển của xã hội, vào nhận thức
của con người, buộc con người phải suy nghĩ và hành động theo một hướng và
các mục tiêu nhất định.
QLNN là hoạt động có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy nhà nước để
điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của công dân và mọi tổ chức xã hội,
giữ gìn trật tự xã hội và phát triển xã hội theo mục tiêu đã định. Ở nước ta, đó là
mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt phát triển KT-XH của đất nước theo
định hướng XHCN đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng.
Nhà nước tổ chức thực hiện các nội dung QLNN. Hoạt động của các cơ quan
QLNN ở tầm vĩ mô theo một chu trình liên hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua
lại giữa các khâu như: nhận tin - xử lý tin – nghiên cứu- đề ra giải pháp- kiểm tra.
Nội dung QLNN đối với hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN bao gồm các chức
năng sau:
1.2.2.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược quy hoạch, kế hoạch
hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Nghiên cứu nguồn cung LĐ trong nước và nhu cầu tiếp nhận LĐ của các
nước để xác định chiến lược, định hướng kế hoạch phát triển hoạt động đưa NLĐ

đi làm việc ở NN nói chung và cho từng khu vực, từng nước nói riêng. Chương
trình, kế hoạch về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN là một bộ phận của
chiến lược ổn định và phát triển KT-XH, do đó hệ thống chính sách, chương trình


24

kế hoạch hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN phù hợp với chính sách đầu tư,
chính sách ưu đãi về thuế và chính sách đào tạo.... Hiện nay Bộ LĐ-TBXH đang
nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN
phù hợp với tiến trình hội nhập KTQT, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước
cũng như phù hợp với đặc điểm LĐ Việt Nam. Chiến lược này sẽ được trình
Chính phủ, Quốc hội trong năm tới gắn với chiến lược phát triển KTXH chung.
1.2.2.2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Nghiên cứu và ban hành hệ thống văn bản qui phạm pháp luật để quản lý,
điều hành thống nhất hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN, thực hiện QLNN
bằng pháp luật, như : Bộ Luật LĐ, Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở NN theo
hợp đồng, Nghị định, thông tư, quyết định..., tổ chức chỉ đạo, điều hành hệ thống
pháp luật đó.
Nội dung của công việc này là việc thể chế hóa đường lối kinh tế thành pháp
luật và thể chế của nhà nước, có tác dụng:
- Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN,
tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN.
- Tạo niềm tin cho công dân, làm cho công dân yên chí làm giầu về kinh tế,
toàn tâm, toàn ý lập thân, lập nghiệp khi nhà nước đã có đường lối chính trị - kinh
tế rõ ràng. Tạo ra một trong những tiền đề cho “sân chơi” kinh tế. Kinh tế thị
trường là một cuộc chơi lớn, quyết liệt để giành phần thắng.
Đến nay hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở

NN cơ bản đã được hoàn thiện và cụ thể hoá, bao gồm: Luật NLĐ Việt Nam đi
làm việc ở nước ngòai theo hợp đồng và các văn bản dưới Luật hướng dẫn thi
hành ( 03 Nghị định của Chính phủ, 01 Quyết định của Thủ trướng CP; 03 Thông
tư liên Bộ và nhiều quyết định của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH).
Ngoài ra còn một số văn bản qui phạm pháp luật hướng dẫn các qui định của
Luật và Nghị định nêu trên đang được Bộ LĐ-TBXH hoàn thiện.


25

1.2.2.3. Xây dựng bộ máy quản lý, phân cấp và phối hợp thực hiện hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Chính phủ thống nhất thực hiện QLNN về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
NN và giao nhiệm vụ trực tiếp cho Bộ LĐ-TBXH QLNN về lĩnh vực hoạt động
đưa NLĐ đi làm việc ở NN trong cả nước.
Bộ LĐ-TBXH giao đơn vị trực tiếp là Cục Quản lý LĐ ngoài nước trực tiếp
tham mưu thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực hoạt động đưa NLĐ đi làm
việc ở NN. Các cơ quan nhà nước liên quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ LĐTBXH ban hành xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng
dẫn liên quan đến QLNN về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN, bao gồm:
Bộ Ngoại giao: Phối hợp với Bộ LĐ-TBXH trong việc QLNN ở nước ngòai,
thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế; bảo hộ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp
pháp của NLĐ, DN XKLĐ Việt Nam ở nước ngòai theo quy định của pháp luật
Việt Nam;
Bộ Tài chính: chủ trì quy định chính sách tài chính về hoạt động đưa NLĐ đi
làm việc ở NN, về lệ phí cấp phép, phí dịch vụ, thuế thu nhập, thể thức quản lý
tiền đặt cọc và bảo hiểm xã hội;
Bộ Công an: hướng dẫn việc cấp hộ chiếu phổ thông cho NLĐ theo quy định
của pháp luật, phối hợp với Bộ LĐ-TBXH trong việc phòng ngừa và chống các
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN;
Bộ Công thương và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: nghiên cứu trình Chính

phủ ban hành theo thẩm quyền các chính sách để DN và NLĐ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng LĐ theo quy định;
Bộ Y tế: Quy định kiểm tra sức khỏe tại các bệnh viện đa khoa. Trong một số
trường hợp đơn vị được quyền kiểm tra sức khỏe do phía NN chỉ định;
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành trong phạm vi trách nhiệm của
mình đưa nội dung hợp tác với nước ngòai hàng năm và 5 năm.
Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngòai: Quản lý NLĐ Việt Nam làm việc
ở nước sở tại, thông qua Bộ Ngoại giao cung cấp kịp thời cho Bộ LĐ-TBXH


×