VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.
Quản lý kinh tế là một phạm trù liên quan trực tiếp đến sự ra đời của quá
trình hợp tác và phân công lao động xã hội. Quản lý là kết quả tất yếu của quá trình
kết hợp nhiều lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình lao
động xã hội được phối kết hợp lại. C.Mác cho rằng: "Bất cứ lao động xã hội hay
lao động chung nào mà tiến hành trên một qui mô khá lớn, đều yêu cầu phải có một
sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng
chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung
của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp
thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự mình điều khiển lấy mình,
nhưng một giàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng"[9,9]. Như vậy chức năng
quản lý là sự kết hợp một cách hợp lý các yếu tố cơ bản của sản xuất, là việc tạo
lập một quá trình ăn khớp giữa những cá thể lao động riêng biệt. Rõ ràng hoạt
động quản lý không thực hiện thì quá trình sản xuất, quá trình hợp tác không thể
diễn ra được.
Những nhân tố sau đây làm tăng vai trò của quản lý kinh tế:
Nhân tố thứ nhất: Tính chất và qui mô của sản xuất.
Chừng nào qui mô của hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh chưa lớn lắm
thì quản lý chưa cần phải có những yêu cầu đặc biệt. Qui mô sản xuất kinh doanh
càng mở rộng và phát triển thì chức năng quản lý càng trở nên phức tạp và vai trò
của nó càng trở nên rõ nét trong hoạt động của doanh nghiệp. Điều này đặc biệt
đúng trong nền kinh tế hiện đại ngày nay.
Nhân tố thứ hai: Vai trò của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã bảo đảm cho sự phát triển của nhân loại
những nguồn lợi to lớn về vật chất. Từ đổi mới kỹ thuật đến đổi mới công nghệ và
việc áp dụng những thành tựu mới của kỹ thuật cho phép đạt được hiệu quả kinh tế
cao hơn.Nhưng điều đó có được trước hết nhờ đổi mới công nghệ quản lý, chính công
nghệ quản lý tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nếu không có tầm nhìn, tính khoa học sáng tạo trong quản lý thì
kỹ thuật mới, công nghệ mới chỉ là sự phát triển trên giấy mà thôi. Công nghệ quản lý
kinh tế thực sự là điều kiện mở đường cho khoa học kỹ thuật phát triển, trở thành
hiện thực trong các quyết định về kinh tế và là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát
triển của các doanh nghiệp.
Nhân tố thứ ba: Nhân tố về chính trị, xã hội.
Quản lý làm cho sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho đời sống của nhân
dân được cải thiện và nâng cao. Mà "dân giầu, nước mạnh" đó là qui luật tất yếu,
những tiêu cực trong cuộc sống được giảm thấp, xã hội ngày một văn minh hơn.
Chính quản lý là tiền đề cho việc thúc đẩy xã hội tiến lên.
Quản lý có vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế, nhưng vai trò của
nó trong các doanh nghiệp còn quan trọng hơn nhiều. Người ta không thể xác định
chính xác được mức độ tác động cụ thể của quản lý đối với thành công hay thất bại
của doanh nghiệp. Nhiều người cho rằng không cần xác định mức độ cụ thể vì
không có quản lý hoặc quản lý yếu kém thì sự tồn tại của doanh nghiệp đó xét theo
giác độ thời gian chỉ còn là tạm thời mà thôi. Vậy quản lý có vai trò như thế nào
trong sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp ?
Thứ nhất: Quản lý vạch ra định hướng kinh doanh.
Lĩnh vực kinh doanh cũng giống như người đi đường, nếu không đi đúng
hướng thì không tới đích. Quản lý có vai trò to lớn đối với các doanh nghiệp trước
hết ở chỗ xác định hướng đi cho doanh nghiệp. Việc xác định hướng kinh doanh
đúng giúp cho doanh nghiệp gặp thuận lợi ngay từ bước khởi đầu.Hơn thế, làm cho
doanh nghiệp tự tin hơn trong bước đường kinh doanh của mình.
Thứ hai: Quản lý tạo ra sự tiết kiện chi phí, tăng lợi nhuận.
Là nhà kinh doanh ai cũng muốn tiết kiệm để tạo ra nhiều lợi nhuận cho
đơn vị. Nhưng để làm điều đó bằng cách nào ? Quản lý tốt chính là công cụ để
thực hiện mục tiêu đó. Vì quản lý tốt cho phép giảm bớt những thất thoát vật chất
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra quản lý tốt còn có khả năng làm
giảm bớt những lãng phí vô hình, không cần thiết trong quá trình kinh doanh. Đó là
sự kết hợp một cách khoa học các bộ phận trong dây chuyền sản xuất kinh doanh
sao cho chúng ăn khớp với nhau tránh lãng phí thời gian cũng như những lãng phí
vô hình khác của doanh nghiệp.
Thứ ba: Quản lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển ổn định và
vững chắc.
Ngày nay cách mạng khoa học kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc đưa khoa học kỹ thuật vào thực tế luôn
đòi hỏi một sự sàng lọc, tính toán chặt chẽ nhằm đảm bảo không để xảy ra sự hao
mòn vô hình quá nhanh,mặt khác cũng không được vượt quá mức khả năng tài
chính cho phép của doanh nghiệp. Những yêu cầu này được giải quyết thông qua
công tác quản lý.
Không thể kể hết lợi ích mà quản lý đem lại cho doanh nghiệp. Chính vì
quản lý có vai trò quan trọng như vậy, nên thông qua việc nghiên cứu về quản lý
để từ đó xác định được cách thức quản lý tối ưu là điều kiện tiên quyết cho sự tồn
tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại
nói riêng hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng là một ngành kinh tế,cho nên hoạt động quản lý của ngân hàng
cũng không thoát ly được các vấn đề cơ bản của quản lý kinh tế nêu trên. Việc
nghiên cứu công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại dưới đây cũng phải dựa vào
những vấn đề cơ bản đó để luận giải các vấn đề liên quan.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ.[47, 7-43]
1.2.1. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
QUẢN LÝ.
Trước thế kỷ 16, việc sản xuất kinh doanh chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung
tự cấp là phổ biến nên vấn đề quản lý chưa được quan tâm nghiên cứu và áp dụng.
Phải đến cuối thế kỷ 16, khi các hoạt động thương mại, đặc biệt ở khu vực Địa
Trung Hải được mở rộng thì sản xuất kinh doanh mới bắt đầu phát triển,cùng với
nó là sự đòi hỏi phải nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và việc nghiên
cứu về quản lý mới được đặt ra.
Nhưng phải tới thế kỷ 18 với nhiều phát minh và sáng chế mới được con
người tạo ra trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là việc phát minh ra động cơ hơi
nước đưa đến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất ở Châu Âu. Nền sản
xuất kinh doanh được phát triển cả về phạm vi và qui mô hoạt động thì vấn đề về
quản lý mới thực sự là một đòi hỏi của thực tiễn.
Tuy nhiên phải tới những năm cuối của thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19,các tư
tưởng về quản lý mới được sắp xếp thành hệ thống và được nghiên cứu một cách
khoa học. Và phải tới cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới bắt đầu xuất hiện các
trường phái nghiên cứu về khoa học quản lý.
Trong thế kỷ 20 là giai đoạn bùng nổ các trường phái nghiên cứu về quản
lý. Có rất nhiều trường phái khác nhau nhưng tựu trung có một số các trường phái
chủ yếu sau:
- Trường phái cổ điển.
- Trường phái tác phong.
- Trường phái hệ thống.
- Trường phái định lượng.
- Các trường phái quản lý hiện đại.
Từ cuối thế kỷ 18 đến nay khoa học quản lý đã trải qua 3 giai đoạn chủ yếu
sau:
Giai đoạn 1: Cuối thế kỷ 18 đến những năm 30 thế kỷ XX.
Phương pháp: đơn lẻ, bất kể miễn đạt lợi nhuận.
Chủ yếu nghiên cứu có tính kinh nghiệm
chưa thực sự khoa học.
Cơ sở kinh tế: xuất phát là nền tảng cá nhân về sở hữu
kinh tế.
Giai đoạn 2: Từ năm 1930 - 1960.
Phương pháp: nghiên cứu có hệ thống, khoa học.
Mỗi hệ thống chỉ trọng tâm vào một vấn đề
=> tạo ra trường phái riêng => có nhiều
trường phái.
Cơ sở kinh tế : là các công ty tư bản (có tính tập thể).
Giai đoạn 3: Từ năm 1960 đến nay.
Xu hướng nghiên cứu: phương pháp kết hợp.
Lấy thị trường là tiêu điểm của nghiên cứu và ứng dụng
khoa học quản lý.
SƠ ĐỒ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ
Giai đoạn 3:
Từ 1960
đến nay
Nền tảng xã hội
Giai đoạn 2:
Từ 1930 - 1960
Thị trường chấp nhận đó
là sản phẩm tốt
Nền tảng tập thể
Giai đoạn 1:
Cuối TK 18-1930
Cái gì tốt cho công ty tôi
thì sẽ tốt cho xã hội
Nền tảng cá nhân
Quan điểm: Cái gì tốt
cho tôi thì sẽ tốt cho XH
1.2.2. MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI KHOA HỌC QUẢN LÝ CHỦ YẾU:
1.2.2.1. Một số trường phái khoa học quản lý tiền hiện đại
Trường phái cổ điển : Từ cuối thế kỷ XIX đến 1930
Trường phái này bao gồm 2 nhánh chính :
Nhánh thứ nhất : Học thuyết quản lý theo khoa học do Frederick
Winslow Taylor (Mỹ) chủ xướng
Nhánh thứ hai : Học thuyết quản lý tổng quát hay học thuyết tổ chức
cổ điển do Henri Fayol (châu Âu) đề xướng
Với Học thuyết quản lý theo khoa học, họ đưa ra 4 nguyên tắc cơ bản để
quản lý theo khoa học đó là:
Thứ nhất: Khám phá những nhân tố cơ bản tạo ra tác dụng trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Điều này khác với trước đó chủ
yếu dùng chủ nghĩa kinh nghiệm.
Thứ hai: Xác định chức năng định hướng kinh doanh là của chủ thể
quản lý. Việc này khác với trước là hoạt động của đơn vị kinh
tế hoàn toàn tự phát.
Thứ ba: Đào tạo và chọn lựa lao động một cách tỷ mỷ, khuyến khích
hợp tác trong lao động thay vì mặc ai lấy làm.
Thứ tư: Phân chia rõ chức năng quản lý và chức năng thừa hành trong
sản xuất.
Học thuyết này đã đóng góp đáng kể cho khoa học quản lý, nó đưa việc
nghiên cứu quản lý trở thành một đối tượng của nghiên cứu khoa học. Đồng thời
vạch ra được những vấn đề cơ bản trong quản lý như phân chia được chủ thể quản
lý và đối tượng quản lý, chỉ rõ quản lý là sự phối kết hợp một cách tốt nhất các
nhân tố trong sản xuất.
Tuy nhiên học thuyết này cũng có những nhược điểm sau:
Thứ nhất: Thiếu tính nhân bản, coi lao động (người lao động) chỉ là
một bộ phận trong guồng máy sản xuất và tìm mọi cách tận
dụng nó (tăng cường bóc lột người thợ).
Thứ hai: Việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ cụ thể.
Thứ ba: Nghiên cứu ở tầm chi tiết, cơ sở.
Cùng trong học thuyết này còn có Hersry L Gantt (1861 - 1919) đóng góp
được 2 điều:
- Bổ sung hệ thống trả lương theo sản phẩm bằng hệ thống tiền thưởng.
- Biểu đồ Gantt dễ hiểu và có nhiều tác dụng đối với các ngành kỹ thuật.
Học thuyết hành chính tổng quát.
Henri Fayol (1841 - 1925) là tác giả chính của học thuyết này, ông đưa ra 5
chức năng của quản lý bao gồm: hoạch định, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm
soát. Ngoài ra ông cũng đưa ra 14 nguyên tắc quản lý sau:
- Chuyên môn hóa lao động.
- Quan hệ quyền hành trong hệ thống quản lý.
- Kỷ luật lao động.
- Thống nhất chỉ huy (thống nhất mệnh lệnh).
- Thống nhất lãnh đạo.
- Lợi ích cá nhân được đảm bảo dựa trên lợi ích chung.
- Thù lao tương ứng giữa các cấp.
- Tập trung thẩm quyền.
- Nguyên tắc trật tự.
- Nguyên tắc phối hợp.
- Nguyên tắc công bằng.
- Ổn định công việc.
- Khuyến khích sáng kiến.
- Tinh thần đồng đội tạo sự thống nhất trong quản lý.
Trong học thuyết này có Max Weber (1861 - 1920) và Cliester Barnard
(1886 - 1961).Đưa tổ chức theo hình chóp nón, tạo sự thống nhất trong điều khiển
hoạt động.
Tuy nhiên học thuyết này cũng có nhược điểm sau:
- Không chú trọng đến yếu tố con người và xã hội, mang sắc thái quan liêu
mệnh lệnh.
Nói chung trường phái cổ điển đã phác thảo những vấn đề cơ bản ban đầu
cho việc nghiên cứu khoa học quản lý dù mới chỉ dừng lại ở bước khởi đầu tựa như
hệ thống các kinh nghiệm được đúng kết ra từ cuộc sống, nhưng nó lại là nhưng
tiền đề cần thiết để chúng ta tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng trong thực tiễn sau
này.
Trường phái tác phong:
Trường phái này cho rằng quản lý là công việc tiến hành thông qua con
người. Ngoài ra trường phái này cũng nhấn mạnh: Năng suất lao động không chỉ
do yếu tố vật chất quyết định mà còn do nhu cầu tâm lý xã hội quyết định.
Các đại diện chủ yếu của trường phái này là: Lislian Gilbrreth, Hugo
Munsterberg, Mary Parker Follef.
Trường phái tác phong cho rằng doanh nghiệp cũng là một hệ thống xã
hội.Việc động viên, khuyến khích trong sản xuất cho người lao động không chỉ
bằng yếu tố vật chất mà còn phải hài hòa với yếu tố tinh thần của người lao động.
Họ cũng chỉ ra rằng tập thể có ảnh hưởng lớn đến cá nhân cả về tác phong, kỷ luật,
tâm lý... Người lãnh đạo ngoài nhiệm vụ tổ chức sản xuất phải quan tâm cả đến
vấn đề tâm lý của người lao động.
Tuy nhiên trường phái tác phong chỉ như một trường phái bổ xung cho
trường phái cổ điển và vai trò của con người được trường phái nêu ra mới dừng lại
ở sự khép kín trong quan hệ nội bộ chưa tính đến sự tác động của môi trường xã
hội.
Trường phái hệ thống:
Phương pháp hệ thống đã được nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin sử
dụng từ lâu. Chính C. Mác đã sử dụng phương pháp này để nghiên cứu hệ thống
các quan hệ kinh tế tư bản trong bộ Tư bản nổi tiếng của ông. Từ giữa thập kỷ 30 ÷
40 của thế kỷ XX,các nhà nghiên cứu khoa học phương Tây đánh giá rất cao giá trị
của phương pháp này. Trong lĩnh vực khoa học quản lý, trường phái hệ thống tìm
cách phân tích tổ chức quản lý thông qua phương pháp tiếp cận hệ thống. Hệ thống
được hiểu là tập hợp các thành phần trực thuộc và tương tác với nhau để tạo thành
một chỉnh thể thống nhất. Thay vì việc nghiên cứu riêng lẻ các thành phần khác
nhau của tổ chức, người quản lý cần xem xét toàn bộ tổ chức như một chỉnh thể