Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LV Thạc sỹ_Mở rộng cho vay thể nhân tại sở giao dịch ngân hàng Agribank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 104 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày 07/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Với việc gia nhập WTO, chúng ta phải chấp
nhận mở cửa hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội
trong đó có việc mở cửa các dịch vụ ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài,
các tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ có cơ hội hơn trong
việc xâm nhập thị trường Việt Nam. Như vậy sức ép cạnh tranh đối với các
ngân hàng nội địa cũng tăng lên. Tuy nhiên, đây sẽ là động lực để ngành Ngân
hàng Việt Nam phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn.
Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam mặc dù đang có những thuận
lợi như mạng lưới hoạt động ngày càng được nhân rộng, lượng khách hàng tiềm
năng và thị phần đầu tư ngày càng gia tăng nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, đặc biệt
là về mặt tín dụng như tiềm lực về vốn còn yếu, công nghệ và tổ chức ngân hàng
lạc hậu, năng lực quản trị rủi ro yếu, tỷ lệ nợ quá hạn còn ở mức cao, thiếu đội ngũ
những cán bộ ngân hàng có khả năng phân tích tài chính chuyên nghiệp. Thực tế
đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của các
ngân hàng thương mại Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập tài chính quốc tế.
Trong đó, mở rộng hoạt động cho vay thể nhân là một tất yếu khách quan.
Như chúng ta đã biết, trong điều kiện hiện nay với mức sống cao hơn
trước dẫn đến nhu cầu sinh hoạt cũng tăng. Do vậy, rất nhiều thể nhân muốn:
mở rộng sản xuất kinh doanh, mua nhà, ô tô, mua sắm các đồ dùng sinh hoạt
v.v… để tiện cho việc đi lại, kinh doanh. Nhưng do điều kiện kinh tế có hạn
nên họ không thể mua, họ rất mong muốn được vay ngân hàng và trả dần.
Thiết nghĩ, đây là một bộ phận khách hàng lớn của ngân hàng, góp phần làm
tăng thu nhập cho ngân hàng và hoạt động cho vay thể nhân cũng là một xu
thế phù hợp với các nước tiên tiến trên thế giới

1



Xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch Ng©n hàng
N«ng nghiệp và ph¸t triển n«ng th«n Việt Nam trong thời gian qua,
đặc biệt là từ yêu cầu mở cửa thị trường tài chính - dịch vụ theo các cam kết
quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới, đề tài: “Mở rộng cho vay thể nhân
tại Sở giao dịch ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam”
đã được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
II. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tín dụng và hoạt động cho vay thể nhân
tại Sở giao dịch ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
- Phân tích thực trạng hoạt động cho vay thể nhân tại Sở giao dịch ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
- Đề xuất những giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay thể nhân
tại Sở giao dịch ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
III.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hoạt động cho vay thể nhân tại Sở giao dịch
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển Nông thôn Việt Nam.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy
vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
hợp và thống kê để nghiên cứu.
V. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương:

2


Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về mở rộng cho vay thể nhân của

ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay thể nhân tại Sở giao dịch
NHNo & PTNTVN
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay thể nhân tại Sở
giao dịch NHNo&PTNTVN

3


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG CHO VAY
THỂ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay thể nhân của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm cho vay thể nhân của ngân hàng thương
mại
1.1.1.1. Khái niệm
Trước khi đưa ra khái niệm cho vay thể nhân, luận văn đề cập đến khái
niệm thể nhân. Trong luật học, thể nhân hay tự nhiên nhân là một con người
có thể cảm nhận được thông qua các giác quan và bị các quy luật tự nhiên chi
phối, ngược lại với pháp nhân, là một tổ chức nào đó, mà vì một số mục đích
nhất định thì luật pháp xem như là một cá nhân tách biệt với các thành viên
và/hoặc chủ sở hữu của nó. Tại Việt Nam, trong các văn bản pháp quy hiện
nay, như bộ Luật Dân sự 2005, lại không sử dụng khái niệm thể nhân, mà thay
vào đó là khái niệm cá nhân. Vậy ta có thể hiểu khái niệm về thể nhân như là
cá nhân.
Vậy cho vay thể nhân được định nghĩa như sau: “ Cho vay thể nhân là
nghiệp vụ trong đó ngân hàng là người cho vay, người đi vay là các cá nhân,
hộ gia đình, trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời
gian xác định nhằm giúp cá nhân và các hộ gia đình mở rộng sản xuất kinh
doanh, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều

kiện cho họ được hưởng mức sống cao hơn.”
Trong lịch sử, NHTM thường từ chối cho vay với cá nhân và hộ gia đình
vì họ thấy rằng các món vay thường nhỏ lẻ, chứa dựng nhiều rủi ro do họ
không có cơ sở đảm bảo. Nhưng cho đến đầu thế kỷ này, dưới sức ép cạnh
tranh ngày càng khốc liệt trong hệ thống ngân hàng buộc các ngân hàng phải

4


thay đổi và mở rộng các dịch vụ cung ứng, đổi mới công nghệ ngân hàng từ
đó dẫn đến sự thay đổi cơ cấu của các ngân hàng.
Điều trước tiên phải kể đến là việc sử dụng hệ thống máy vi tính tại nhà,
việc xuất hiện các dịch vụ mới xuất phát từ ngân hàng, công ty tài chính, việc
máy rút tiền tự động( ATM) trở nên phổ biến, tất cả các yếu tố đó đã tạo nên
giá trị cạnh tranh. Và chính vì sự cạnh tranh này đã đòi hỏi các ngân hàng
phải đa dạng hơn nữa các sản phẩm của mình, không chỉ dừng lại ở các sản
phẩm truyền thống là nhận tiền gửi, trao đổi ngoại tệ... mà còn phải phát triển
những sản phẩm khác như: tư vấn tài chính, cho vay thể nhõn, quản lý tiền
mặt, dịch vụ thuê mua... (chuyển sang thị trường ngân hàng bán lẻ).
Mặt khác, các ngân hàng ngày càng dựa nhiều vào lượng tiền gửi của
khách hàng thể nhõn để tài trợ cho các món vay thương mại lớn và coi đây là
nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất của mình. Rất nhiều cỏ nhõn và hộ gia
đình sẽ không muốn gửi tiền của mình vào một ngân hàng nếu họ không thấy
được rằng họ sẽ có triển vọng vay lại từ chính ngân hàng khi có nhu cầu.
Chính vì những lý do đó cộng với sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật
tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới đối tượng khách
hàng là thể nhân.
Một yếu tố khách quan nữa để phát triển hoạt động cho vay thể nhõn là
xuất phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng - nhà sản xuất - người tiêu dùng.
Thông qua các mối quan hệ này, ngân hàng đã thấy được nhu cầu từ phía nhà

sản xuất, họ rất cần có sự hỗ trợ để gia tăng việc tiêu thụ hàng hoá ngoài sự hỗ
trợ trực tiếp đối với quá trình sản xuất, đồng thời người tiêu dùng cũng cần sự
tài trợ thêm cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế thị trường cộng với sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt trong hệ thống ngân hàng mà việc hình thành cho vay thể nhõn
là tất yếu khách quan. Sự ra đời của cho vay thể nhõn không những phù hợp
với xu hướng phát triển của nền kinh tế mà còn làm nâng cao khả năng cạnh

5


tranh của ngân hàng và đặc biệt làm tăng mối quan hệ bền vững giữa ngân
hàng và khách hàng.
Đối tượng của tín dụng thể nhõn rất nhiều dạng, nhiều trường hợp nhưng
có thể khái quát thông qua các trường hợp phổ biến sau:
- Các đối tượng có thu nhập thấp: có nhu cầu tín dụng không cao, việc
vay vốn nhằm tạo ra cân đối giữa thu nhập và chi tiêu.
- Các đối tượng có thu nhập trung bình: nhu cầu tín dụng có xu hướng
tăng mạnh, đối tượng này muốn vay tiêu dùng hơn là dùng chính tiền tích luỹ,
dự phòng của mình để tiêu pha
- Các đối tượng có thu nhập cao: việc cho vay nhằm tăng khả năng thanh
toán và coi nó như một khoản linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích luỹ
của mình chưa cao hay lợi nhuận do đầu tư mang lại chưa thu được. Trường
hợp này tương đối phổ biến và phát triển. Các đối tượng trên có thể đại diện
cho các đối tượng khác như cán bộ công nhân viên thuộc khu vực nhà nước,
liên doanh, tiểu thương và các cỏn bộ ngân hàng.
1.1.1.2. Đặc điểm cho vay thể nhân
- Khách hàng của cho vay thể nhân là các cá nhân và hộ gia đình mà
trong đó tính chất, qui mô, đặc điểm là rất khác nhau. Khách hàng có thu nhập
cao trong xã hội thì nhu cầu mua sắm của họ khác với những thể nhân có thu

nhập thấp và trung bình vì thế nhu cầu vay mượn của họ cũng khác nhau.
Ngay cả trình độ, địa vị xã hội cũng ảnh hưởng tới thói quen tiêu dùng của
mỗi người. Có thể khẳng định rằng mức thu nhập và trình độ học vấn là hai
biến số có quan hệ mật thiết tới nhu cầu vay của khách hàng.
- Nhu cầu vay của thể nhân rất phong phú và mục đích sử dụng vốn rất
linh hoạt, ví dụ như : khách hàng vay nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh
doanh, các dự án đầu tư, tiêu dùng, đầu tư kinh doanh bất động sản, phục vụ đời
sống, xuất nhập khẩu, xuất khẩu lao động,… trừ các đối tượng mà pháp luật
cấm.

6


- Về lãi suất, do quy mô của từng hợp đồng vay ( món vay ) thường
nhỏ ( trừ những khoản vay để mua bất động sản, mở rộng sản xuất ), dẫn đến
chi phí của ngân hàng khi tổ chức cho vay cao. Vì vậy, lãi suất tín dụng cho
vay thể nhân thường cao hơn so với lãi suất của các khoản tín dụng trong lĩnh
vực thương mại và công thương.
- Giá trị món vay thường nhỏ lẻ, phân tán nhưng số lượng các món vay
thì lại rất lớn.
Các khách hàng thể nhõn thường đến ngân hàng vay vốn với nhu cầu
vay vốn không lớn, thậm chí còn khá nhỏ. Điều này là do giá của hàng hoá
dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ, hoặc khách hàng vay vốn đẵ có được sự
tích luỹ từ trước đối với các tài sản có trị lớn. Chính điều này đã dẫn đến giá
trị món vay thể nhõn thường rất nhỏ, phân tán nên chi phí quản lý cao. Tuy vậy,
trên thực tế tổng quy mô vay thể nhõn của ngân hàng lại rất lớn, đó là vì tuy mỗi
món vay thể nhõn có quy mô nhỏ nhưng do đây là nhu cầu vay vốn khá phổ
biến, đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư nên số lượng khách
hàng tìm đến ngân hàng vay vốn là rất đông, khiến cho tổng quy mô vay thể
nhõn lại trở nên khá lớn.

- Các khoản cho vay thể nhõn có độ rủi ro cao
Loại hình cho vay này luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá lớn, cao
hơn loại hình cho vay khỏc dưới cả ba góc độ:
+ Thứ nhất: Luôn tồn tại nhóm khách hàng chây ì, lừa đảo.
+ Thứ hai: Các rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất
nghiệp, bệnh tật, tâm lý tiêu dùng của dân cư, mức độ ổn định xã hội...
+ Thứ ba: Các rủi ro chủ quan như là tình trạng công việc hay sức khoẻ
của khách hàng, diễn biến tâm lý của khách hàng... ảnh hưởng đến tài chính
và khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình. Hoặc là do sự ảnh hưởng của
các tổ chức trung gian (đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn, các

7


đơn vị chủ quản...), đặc biệt là hình thức cho vay tiêu dùng không có tài sản
bảo đảm cũng mang lại rủi ro rất nhiều đối với loại hình cho vay này.
Tóm lại, khả năng trả nợ sẽ thay đổi nhanh chóng khi khách hàng thay
đổi điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ, đồng thời, khả năng bù đắp từ các
nguồn khác trong trường hợp có rủi ro hầu như không có.
- Cho vay thể nhõn thường có tính nhạy cảm theo chu kỳ
Thật vậy, số lượng các khoản cho vay thể nhõn phụ thuộc chủ yếu vào
nhu cầu tiêu dùng và mở rộng sản xuất kinh doanh của dân cư và khả năng
thanh toán của họ, do đó nó có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Cho vay thể nhõn
sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế phát triển - khi mà người dân có mức thu
nhập tương đối cao và ổn định, tình hình kinh tế xã hội đầy lạc quan. Và
ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ
gia đình sẽ cảm thấy không mấy tin tưởng vào tương lai, nhất là khi họ thấy
thu nhập của họ giảm xuống và xu hướng thất nghiệp ngày càng tăng thì việc
vay mượn ngân hàng sẽ được hạn chế, đặc biệt là việc vay mượn dành cho chi
tiêu.

- Chi phí cho một khoản vay thể nhõn là khá lớn
Cho vay thể nhõn là một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất
trong danh mục tín dụng của ngân hàng. Thực tế là quy mô mỗi món vay thể
nhõn thường nhỏ, thời gian vay không kéo dài lâu, trong khi đó số lượng các
món vay lại rất lớn. Hơn nữa, các thông tin về cá nhân và các hộ gia đỡnh
thường không đầy đủ và chính xác hoàn toàn. Điều này khiến cho ngân hàng
rất vất vả trong quá trình cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách
hàng đến khâu giải ngân thu nợ. Những điều kiện trên khiến cho việc thực
hiện một khoản cho vay thể nhõn của ngân hàng là khá tốn kém, mất rất nhiều
chi phí cho các khoản vay này.
- Lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay thể nhõn là đáng kể.

8


Tương ứng với mức rủi ro cao như vậy thì các khoản tín dụng thể nhõn
có được một mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của ngân hàng. Bên
cạnh đó, số lượng các khoản vay thể nhõn khá nhiều khiến cho tổng quy mô
cho vay thể nhõn rất lớn, và cùng với mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay thể
nhõn sẽ khiến cho lợi nhuận thu về từ hoạt động cho vay là rất đáng kể trong
tổng lợi nhuận của ngân hàng.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi về đối tượng khách
hàng trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, cho
vay thể nhõn đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các ngân
hàng thương mại, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng như
quản lý ngân hàng và vẫn còn tiếp tục hứa hẹn nhiều triển vọng trong việc
phát triển loại hình tín dụng này trong tương lai. Tại các nước đang phát triển,
loại hình cho vay này cũng đang dần khẳng định được vai trò của mình, đem
lại những lợi nhuận không nhỏ trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
- Nguồn trả nợ chủ yếu của khách hàng được trích từ nguồn thu nhập và

kết quả sản xuất kinh doanh. Do đó, nguồn trả nợ của người đi vay có thể có
những biến động lớn, nó phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh
nghiệm đối với công việc của khách hàng.
1.1.2. Các hình thức cho vay thể nhân của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
- Cho vay thể nhân trả góp:
Đây là hình thức cho vay thể nhõn trong đó người đi vay trả nợ( gồm cả
số tiền gốc lẫn lãi) cho ngân hàng theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định
trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho các khoản vay có
giá trị lớn hoặc thu nhập từng định kì của người đi vay không đủ khả năng
thanh toán hết một lần số nợ vay.
Đối với loại cho vay này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề
cơ bản sau:

9


Loại tài sản được tài trợ: Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường
chú ý đến những tài sản được hỡnh thành từ vốn vay có thời hạn sử dụng lâu bền
hoặc có giá trị lớn vỡ như thế thiện chí trả nợ từ khách hàng sẽ cao hơn và
khỏch hàng sẽ được hưởng những tiện ích do tài sản đem lại trong một khoản
thời gian dài.
Số tiền phải trả trước: Thông thường, các ngân hàng thường yêu cầu
người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm - số
tiền này được gọi là số tiền trả trước. Phần còn lại, ngân hàng sẽ cho vay. Số
tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng
chính họ là chủ sở hữu tài sản, mặt khác lại có tác dụng hạn chế rủi ro cho
ngân hàng. Số tiền trả trước thường phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền
trả trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì

số tiền trả trước ít.
+ Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng.
+ Môi trường kinh tế
+ Năng lực tài chính của những người đi vay
Chi phí tài trợ: là chi phớ mà người đi vay phải trả cho ngân hàng về
việc sử dụng vốn. Chi phí này chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có
liên quan. Chi phí khoản vay này phải trang trải được chi phí huy động vốn,
chi phí hoạt động, rủi ro, đồng thời phải mang lại một phần lợi nhuận thoả
đáng cho ngân hàng.
Điều kiện thanh toán: ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:Số
tiền thanh toán mỗi kỳ hạn phải phù hợp với khả năng về thu nhập trong mối
quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng; giá trị của tài
sản tài trợ không được thấp hơn số tiền cho vay chưa được thu hồi; kỳ hạn trả
nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng; thời hạn cho vay không nên
quá dài. Thời hạn tài trợ bị giới hạn bởi thời gian hoạt động của tài sản tài trợ.

10


- Cho vay thể nhân phi trả góp: Theo như phương pháp này số tiền
cấp tín dụng được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến
hạn. Thường thì các khoản tín dụng thể nhân phi trả góp chỉ được cấp cho các
khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài
- Cho vay thể nhân tuần hoàn:): là các khoản tín dụng thể nhận trong
đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại
séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương pháp này,
thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu
nhập kiếm được từng kỳ của khách hàng sẽ được ngân hàng cho phép thực hiện
việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ được tính theo ba cách:

 Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: với
phương pháp này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của
mỗi kỳ sau khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng.
 Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều
chỉnh:với phương pháp này số dư nợ dùg để tính lãi là số dư nợ cuối mỗi kỳ
có trước khi khoản nợ được thanh toán
 Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân.
1.1.2.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng:
- Cho vay thể nhân cư trú: đây là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho
nhu cầu mở rộng sản xuất, mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách
hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
- Cho vay thể nhõn phi cư trú: là khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc
trang trải các chi phí mua sắm phương tiện, đồ dùng gia đình, chi phí học
hành, giải trí du lịch, chữa bệnh hay thanh toán tiền viện phí...
1.1.2.3. Căn cứ vào nguồn gốc cho vay:

11


- Cho vay thể nhõn gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng
mua những khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá
hay dịch vụ cho người khỏch hàng.
- Cho vay thể nhõn trực tiếp: Cho vay thể nhõn trực tiếp là các khoản
cho vay thể nhõn trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay
cũng như trực tiếp thu nợ từ họ.
1.1.2.4. Căn cứ vào loại tài sản được tài trợ:
- Tài trợ bất động sản: Cho vay tài trợ đối với bất động sản là các
khoản cho vay nhằm mục đích mua mới hoặc sửa chữa, xây dựng nhà ở, căn
hộ và trong một số trường hợp bao gồm cả đất đai. Cho vay tài trợ đối với bất
động sản khác với phần lớn các hình thức cho vay khác trên một số khía cạnh

chủ yếu sau:
Thứ nhất, quy mô của một món vay tài trợ đối với bất động sản thường
lớn hơn nhiều so với quy mô trung bình của các món vay tiêu dùng thông
thường.
Thứ hai, các khoản cho vay tài trợ đối với bất động sản thường có kỳ
hạn dài nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng từ 15 đến 25 hoặc 30
năm. Do đó, loại cho vay này thường chứa đựng những nguy cơ rủi ro tín
dụng đáng kể bởi nhiều vấn đề có thể xảy ra bao gồm cả những thay đổi tiêu
cực trong điều kiện kinh tế, lãi suất, sức khỏe của người vay trong suốt kỳ hạn
của khoản vay
Thứ ba, việc định giá tài sản đảm bảo bao gồm đánh giá giá trị và tình
trạng của tài sản là trọng tâm của món vay, chúng có tầm quan trọng tương
đương với thu nhập của người đi vay. Việc đánh giá giá trị tài sản đảm bảo
phải tuân theo tiêu chuẩn của Ngành và của Chính phủ. Ngoài ra, tính khả mại
của tài sản cũng là một yếu tố rất quan trọng khi đánh giá tài sản. Các khoản
vay có tài sản đảm bảo sẽ giúp các ngân hàng có thể hạn chế những tổn thất
về tài chính khi khoản vay không được trả đúng hạn và phải phát mại tài sản.
- Tài trợ hàng tiêu dùng lâu bền

12


Việc tài trợ này là nhằm cho vay mau sắm các tài sản có thời gian sử
dụng lâu dài như: ôtô, xe máy. Tính khả dụng của các tài sản này khá cao, giá
trị ở mức trung bình nên nhiều người có nhu cầu mua sắm. Quy mô của các
khoản vay này thường không lớn, số lượng món vay phát sinh nhiều. Tài sản
đảm bảo có thể là chính các tài sản hình thành từ vốn vay. Với những khoản
vay này nguồn trả nợ có thể là nguồn thu hàng tháng được trả lãi theo định kỳ.
- Tài trợ nhu cầu sản xuất kinh doanh
Việc cho vay này được thiết kế và cung cấp cho khách hàng có nhu cầu

bổ sung vốn lưu động, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và cho vay nông
nghiệp…Cho vay sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có thể là để bổ sung
vốn lưu động thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh, để thanh toán tiền
vật tư, nguyên liệu, hàng hóa và các chi phí cần thiết, hoặc để thanh toán tiền
mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, nâng cấp hoặc mở rộng
cơ sở sản xuất kinh doanh. Ngân hàng xem xét đáp ứng nhu cầu vay vốn
nhanh chóng với mức cho vay và thời hạn hợp lý tùy theo yêu cầu sản xuất
kinh doanh. Đối với khoản cho vay này, tài sản đảm bảo là các tài sản có giá
trị như nhà xưởng, đất đai, máy móc thiết bị…Đối với cho vay nông nghiệp,
đây cũng là loại cho vay sản xuất kinh doanh nhưng tập trung vào các hộ sản
xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Cho vay
nông nghiệp ngoài đáp ứng nhu cầu vốn cho bà con nông dân còn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng là góp phần thay đổi tập quán làm ăn, chuyển từ sản xuất
nhỏ phục vụ cho thị trường địa phương sang sản xuất quy mô lớn hơn hướng
đến thị trường xuất khẩu rộng lớn.
- Tài trợ nhu cầu tiêu dùng khác
Cho vay các nhu cầu tiêu dùng khác nhằm mục đích tài trợ cho những
nhu cầu như: du học, chữa bệnh, du lịch, ma chay, cưới hỏi…Đối với khoản
cho vay này, yếu tố quyết định cho vay hay không là do thu nhập để trả nợ
của người vay, sau đó mới xem xét đến giá trị của tài sản đảm bảo.
1.1.2.5. Căn cứ vào thời hạn vay vốn:

13


Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống
và các dự án đầu tư phát triển, các ngân hàng trên thế giới xem xét cho
khách hàng vay theo các thể loại:
- Cho vay thể nhân ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn từ 12
tháng trở xuống

- Cho vay thể nhân trung hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay
từ trên 1 năm đến 5 năm
- Cho vay thể nhân dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 5
năm trở lên.
1.1.3. Chính sách cho vay thể nhân của ngân hàng thương mại.
Chính sách cho vay thể nhân là hệ thống các chủ trương, định hướng qui
định chi phối hoạt động tín dụng do các ngân hàng thương mại đưa ra nhằm
sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các c về quyêá nhân và các hộ gia
đình trong phạm vi cho phép của những qui định của NHNN.
Các ngân hàng thương mại tự chịu trách nhiệm về quyết định trong cho
vay của mình, không một tổ chức hay cá nhân nào được can thiệp trái pháp
luật vào quyền tự chủ trong cho vay và thu hồi nợ của ngân hàng.
Đối tượng khách hàng vay thể nhân là: các cá nhân và hộ gia đình.
Nguyên tắc vay vốn: Khách hàng là thể nhân vay vốn của ngân hàng
thương mại phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng.
- Phải hoàn trả cả gốc và lãi vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng.
- Tiền vay được phát bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản theo mục đích sử
dụng tiền vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

14


Điều kiện được vay thể nhân: Khách hàng thể nhân phải có năng lực
pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui
định của pháp luật.
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: Có khả năng tài chính đảm bảo
trả nợ trong thời hạn cam kết: có vốn tự có tham gia vào dự án, phương thức

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống; kinh doanh có hiệu quả; không có
nợ khó đòi quá 6 tháng tại ngân hàng.
Phương thức cho vay: Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho
vay trả góp...
Giới hạn tổng dư nợ đối với 1 khách hàng: Tổng dư nợ đối với 1 khách
hàng vay vốn không quá 15% vốn tự có của ngân hàng tại thời điểm vay vốn.

1.2. Mở rộng hoạt động cho vay thể nhân của NHTM
1.2.1. Quan niệm mở rộng cho vay thể nhân của NHTM
Để hiểu rõ khái niệm về “ mở rộng cho vay thể nhân ” của ngân
hàng thương mại, cần xuất phát từ những phân tích và khẳng định về hoạt
động cho vay thể nhân của ngân hàng hay còn gọi là tín dụng cá nhân, kết hợp
với nhận thức về thuật ngữ “ mở rộng ”.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, thuật ngữ “ mở rộng ” thường hay
được sử dụng. Chẳng hạn như: mở rộng cơ cấu sản xuất kinh doanh, mở rộng
trường lớp hoặc mở rộng phạm vi hoạt động… Khi nói đến “ mở rộng ”,
người ta nghĩ ngay đến việc làm thế nào để tăng qui mô, số lượng, tức là nói
đến sự tăng trưởng theo chiều rộng. “ Mở rộng ” khi được gắn với những cụm
từ khác nhau sẽ cho những khái niệm riêng với nội dung cụ thể. Vậy “ mở
rộng cho vay thể nhân” là sự thay đổi làm tăng lên về số lượng khách hàng,
doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ, và hình thức cho vay đối với thể
nhân. Quá trình thay đổi này phải được xem xét thường xuyên, liên tục theo
thời gian và không gian cụ thể. Đồng thời, quá trình đó phải gắn với khả năng
hoản trả vô điều kiện của khách hàng cả gốc và lãi cho ngân hàng. Nói một
15


cách tổng quát hơn: “ mở rộng cho vay thể nhân ” là quá trình tăng trưởng
theo chiều rộng gắn liền với đảm bảo qui trình tín dụng.
Điều kiện để mở rộng cho vay thể nhân là: ngân hàng có thể đáp ứng được

những yêu cầu của khách hàng thể nhân và đảm bảo các nguyên tắc tín dụng.
Mở rộng cho vay thể nhân được thể hiện thông qua các mặt chủ yếu
sau:
- Mở rộng qui mô cho vay thể nhân: thông qua việc tăng doanh số cho
vay và dư nợ của ngân hàng qua các giai đoạn hay thời kỳ kinh doanh khác
nhau.
- Mở rộng các hình thức cho vay thể nhân: thông qua việc làm phong
phú, đa dạng hơn các hình thức cho vay của ngân hàng để đáp ứng mọi nhu
cầu của khách hàng thể nhân.
- Mở rộng phương thức cho vay thể nhân: thông qua việc nghiên cứu, áp
dụng phương thức cho vay mới bên cạnh các phương thức cho vay truyền
thống tạo thuận lợi cho khách hàng.
- Mở rộng sự tiếp cận với khách hàng: thông qua việc giảm bớt các thủ tục
cho vay, tăng cường sự hiểu biết và tiếp xúc giữa ngân hàng và khách hàng để
tăng số lượt vay của khách hàng, tăng thêm số lượng khách hàng vay thể nhân tại
ngân hàng.
1.2.2. Sự cần thiết mở rộng cho vay thể nhân của NHTM.
Luận văn cho rằng, về cơ bản để khẳng định sự cần thiết phải mở
rộng cho vay thể nhân tại NHTM được xuất phát từ vai trò của hoạt động cho
vay thể nhân, đồng thời có tính đến lợi ích đem lại cho chính bản thân ngân
hàng nhờ mở rộng cho vay.
Vai trò của cho vay thể nhân tại NHTM được thể hiện qua những
khía cạnh sau:
Một là, đối với khách hàng.

16


Cho vay thể nhõn là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng. Do vậy, khách hàng của cho vay thể nhõn cũng chính là

người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình. Nhờ những
khoản cho vay tiêu dùng, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá
trị cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả
năng tài chính hiện tại của họ chưa cho phép.
Trên thực tế, ta thấy rằng có nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, thiết
yếu, có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống đối với các cá nhân và hộ gia
đình. Những nhu cầu này không sớm thì muộn người tiêu dùng cũng phải thoả
mãn. Ví dụ như nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện
nghi sinh hoạt, mua sắm các phương tiện như xe máy, ô tô, du lịch, học
hành...
Tuy rằng những nhu cầu thiết yếu nhưng của cải thì được tích luỹ theo
thời gian, do vậy khả năng tài chính thường bị giới hạn. Vì vậy, mà làm nảy
sinh sự thật là người ta thường mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt khi lớn
tuổi. Khi lợi ích cảm thụ được từ sự hưởng thụ đều có xu hướng giảm xuống.
Do đó, người tiêu dùng sẽ tìm cách để phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn
các nhu cầu là yếu tố thời gian và khả năng thanh toán của hiện tại và tương
lai. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng sẽ tìm cách để hưởng thụ trước số
tiền sẽ có trong tương lai. Nếu phân tích theo khía cạnh tài chính, việc mượn
tiền trước của ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải trả lãi thực chất
cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong
tương lai về thời điểm hiện tại.
Chính những nguyên nhân trên, việc ngân hàng thực hiện và mở rộng
hoạt động cho vay thể nhõn sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích tốt
nhất. Ta có thể khẳng định rằng người tiêu dùng là những người được hưởng
trực tiếp và đều nhất những lợi ích do hình thức cho vay thể nhõn mang lại.
Hai là, đối với ngân hàng

17



- Tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu
nhập, phân tán rủi ro.
Vai trò của các NHTM đối với xã hội ngày càng được khẳng định hơn
qua sự phát triển ngày càng hoàn thiện của hệ thống ngân hàng nói chung và
của NHTM nói riêng. Nhưng không vì thế mà các ngân hàng có thể thoát khỏi
sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tiền
tệ khác . Ngày càng có nhiều tổ chức muốn cung cấp các dịch vụ mà ngân
hàng đã và đang cung cấp .Và ngay cả giữa các NHTM với nhau sự cạnh
tranh giành giật thị trường và khách hàng ngày càng khốc liệt hơn. Chính vì
vậy, muốn tồn tại và phát triển các ngân hàng phải không ngừng đổi mới, tìm
tòi và đưa ra những dịch vụ mới ngày càng có nhiều tiện ích cho khách hàng,
từ đó nâng cao thu nhập cho ngân hàng .Thực tế đã chứng minh, có những
NHTM lớn trên thế giới đã thu về những khoản lợi nhuận kếch xù từ việc
cung cấp các khoản cho vay thể nhõn. Ngoài ra, nếu xét riêng từng khoản tớn
dụng cỏ nhõn thì ta thấy cho vay thể nhõn có rủi ro lớn. Nhưng vì mỗi khoản
tín dụng cỏ nhõn có giá trị tương đối nhỏ , đặc biệt lại có nhiều sản phẩm tín
dụng cỏ nhõn nên xét trên toàn cục của các khoản cho vay thể nhõn thì rủi ro
cũng không còn là một vấn đề lớn. Trên thực tế, các khoản cho vay thể nhõn
thường có lợi nhuận cao do mức lãi suất tính trên các khoản cho vay thể nhõn
cao. Vì vậy, các NHTM cũng có thể kỳ vọng tăng lợi nhuận thu được từ các
khoản cho vay thể nhõn.
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy
động các loại tiền gửi cho ngân hàng.
Thị trường cho vay thể nhõn là một lĩnh vực mới được phát hiện, chỉ đến
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hoạt động cho vay thể nhõn mới được
phát triển và lớn mạnh.
Hoạt động này giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó
giúp ngân hàng có những thuận lợi trong hoạt động huy động vốn, đặc biệt là

18



huy động vốn từ dân cư .Hơn nữa tính lan truyền trong dân cư là rất cao nên
các ngân hàng có thể thông qua các khoản cho vay thể nhõn mà quảng cáo về
mình, từ đó thu hút các khách hàng đến với các dịch vụ khác của ngân hàng.
Trong khi đó các khoản tín dụng cỏ nhõn tuy là những khoản tín dụng nhỏ
nhưng nhu cầu về chúng lại rất lớn nên nếu khai thác được thị trường này thì
các NHTM có thể sử dụng được một số lượng vốn lớn. Hơn nữa, dân cư là
khách hàng tiềm năng lớn của ngân hàng, ngân hàng muốn phát triển bền
vững thì nên dựa vào đối tượng khách hàng này.
Trong khi cấp các khoản tín dụng cỏ nhõn thì các ngân hàng cũng góp
phần đẩy mạnh tiêu dùng, từ đó tạo điều kiện cho sản xuất phát triển và các
ngân hàng có thêm những khoản cho vay mới phục vụ cho các nhà sản xuất.
Sản xuất phát triển lại cung cấp ra thị trường những sản phẩm mới làm nảy nở
nhu cầu tiêu dùng. Quá trình này được lặp đi lặp lại không ngừng làm cho thị
trường tiêu dùng ngày càng phát triển.
Ba là, đối với nền kinh tế
- Cho vay thể nhõn là một trong những nghiệp vụ tín dụng
của các NHTM, ngoài những chức năng vai trũ cơ bản nú cũn
có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, nhu cầu là vô hạn song “
nhu cầu có khả năng thanh toán” mới đáng quan tâm. Cho
vay thể nhõn giúp cá nhân và các hộ gia đỡnh được hưởng
các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền và đặc biệt quan trọng
hơn, nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các
chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho gia đình và
y tế. Chính vì vậy, cho vay thể nhõn là đòn bẩy hữu hiệu để
tránh kích cầu tiêu dùng. Để thoả mãn được nhu cầu đó, các
nhà sản xuất sẽ gia tăng sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất ,


19


mở rộng thị trường, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Đồng thời,
tạo ra sự cạnh tranh giữa các hãng sản xuất, các nhà kinh
doanh về sản phẩm, mẫu mã, chủng loại và các nhà sản xuất
sẽ tìm cách để có thể đáp ứng mọi thị hiếu người tiêu dùng.
Một mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, một mặt người tiêu
dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, qua đó tạo sự năng động cho
nền kinh tế. Các nhà sản xuất muốn tồn tại thì cũng phải
không ngừng cải tiến, tự hoàn thiện mình, làm cho nền sản
xuất ngày càng phát triển và phồn thịnh.
- Cho vay thể nhân có hiệu quả sẽ góp phần đảm bảo cho sự an sinh xã
hội. Đây chính là quan hệ gián tiếp của vai trò kích cầu, kích thích sản xuất,
phát triển nền kinh tế của tín dụng thể nhân. Khi tín dụng thể nhân đã thực
hiện được vai trò trên thì trực tiếp là mỗi lao động sẽ có điều kiện nâng cao
thu nhập của mình, các nhu cầu của cá nhân và hộ gia đình sẽ ngày càng được
thỏa mãn tốt hơn bằng cách sử dụng hàng hóa dịch vụ trước khi có đủ thu
nhập trang trải toàn bộ chi phí cho nó. Một cách gián tiếp là qua tăng trưởng
kinh tế, nguồn thu của Ngân sách Nhà nước được tăng cường, năng lực sản
xuất của quốc gia ngày một cao, Chính phủ sẽ chủ động và thực hiện tốt hơn
việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi xã hội cho người
lao động. Chính nó sẽ góp phần làm giảm tệ nạn xã hội – luôn là nhức nhối
lớn nhất đối với nền kinh tế lạc hậu.
Do đó, cho vay thể nhân khi đóng góp vai trò vào việc kích cầu tiêu dùng
một cách trực tiếp, kích cầu đầu tư một cách gián tiếp cũng chính là góp phần
làm tăng sức sản xuất của nền kinh tế, làm cho xã hội ngày một giàu mạnh
hơn.
1.2.3. Một số chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay thể nhân của NHTM
Thực tế có một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay thể

nhân, ở đây luận văn xin nêu một số chỉ tiêu cơ bản nhất :
20


1.2.3.1. Sự gia tăng của số lượng sản phẩm cho vay thể nhân
Sự tăng trưởng về số lượng sản phẩm hay đa dạng hóa sản phẩm cho
vay thể nhân là quá trình cung cấp nhiều chủng loại sản phẩm cho vay cho
khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng để vừa
giữ khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng mới trên thị trường khác
nhau nhờ đó tăng doanh thu và lợi nhuận.
Việc đa dạng hóa sản phẩm cho vay có ý nghĩa lớn:
- Thứ nhất: Đa dạng hóa sản phẩm cho vay thể nhân sẽ làm tăng tổng dư
nợ và khách hàng vay góp phần tăng lợi nhuận
- Thứ hai: Đa dạng hóa sản phẩm sẽ giúp cho NHTM phân tán rủi ro
- Thứ ba: Thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển
- Thứ tư: Tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế thị
trường.
Nhưng việc đa dạng hóa sản phẩm đòi hỏi quản lý tín dụng phức tạp
hơn, cán bộ tín dụng phải hiểu biết và nắm vững nghiệp vụ cho vay sâu sắc
hơn.
Điều đáng chú ý là sự phong phú về các hình thức, phương thức cho
vay thể nhân còn tạo ra điều kiện rất tốt cho sự tăng trưởng doanh số và dư nợ
cho vay thể nhân.
Chỉ tiêu này được xác định :
Tốc độ gia
tăng số lượng
sản phẩm cho
vay thể nhân

Số lượng sản

phẩm cho vay thể
nhân kỳ thực hiện
=

-

Số lượng sản phẩm
cho vay thể nhân
kỳ trước
X 100%

Số lượng sản phẩm cho vay thể nhân
kỳ trước
Trong điều kiện những yếu tố khác không đổi, số lượng sản phẩm cho

vay thể nhân ngày càng tăng chứng tỏ qui mô được mở rộng và ngược lại.

21


Tuy nhiên, việc đa dạng hóa sản phẩm đòi hỏi quản lý tín dụng phức
tạp hơn, cán bộ tín dụng phải hiểu biết và nắm vững nghiệp vụ cho vay thể
nhân sâu sắc hơn.
1.2.3.2. Sự gia tăng của thu nhập từ sản phẩm cho vay thể nhân
Đây là chỉ tiêu quan trọng , nó phản ánh tốc độ tăng trưởng thu lãi từ
cho vay thể nhân tăng hay giảm qua các năm, từ đó thấy đó thấy được qui mô
và xu hướng mở rộng cho vay thể nhân của NHTM là có hiệu quả và là tín
hiệu tốt để tiếp tục mở rộng cho vay thê nhân.
Chỉ tiêu này được xác định :
Tốc độ tăng

trưởng thu lãi
cho vay thể
nhân

Tổng lãi cho vay
thể nhân kỳ
thực hiện

-

Tổng lãi cho vay
thể nhân kỳ
trước
X 100%

=
Tổng lãi cho vay thể nhân kỳ trước

Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu thu lãi cho vay thể
nhân tăng đồng nghĩa với việc qui mô cho vay thể nhân được mở rộng và
ngược lại.
1.2.3.3. Sự gia tăng của doanh số cho vay và dư nợ cho vay thể nhân
Để đánh giá mở rộng qui mô cho vay thể nhân của NHTM thường sử
dụng chỉ tiêu: sự gia tăng về doanh số cho vay và dư nợ thể nhân.
( i ) Doanh số cho vay là : khối lượng tiền mà NHTM cho khách hàng vay
tính trong một khoảng thời gian nhất định ( tháng, quý, năm ). Nó là chỉ tiêu
phản ánh qui mô tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Đây là chỉ tiêu
phản ánh chính xác về hoạt động cấp tín dụng trong một khoảng thời gian dài.
Căn cứ vào chỉ tiêu này cũng có thể thấy được phần nào xu hướng của hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Sự biến động về doanh số cho vay qua mỗi thời

kỳ được đo lường bằng số tuyệt đối và tương đối thông qua mức tăng giảm, tỷ
trọng và tốc độ tăng giảm doanh số cho vay thể nhân.

22


 Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay thể nhân qua các năm phản ánh
được qui mô, xu hướng của việc mở rộng cho vay thể nhân là tăng trưởng hay
thu hẹp. Chỉ tiêu này được xác định:
Tốc độ tăng
trưởng d.số
cho vay thể
nhân

Doanh số cho
vay thể nhân kỳ
thực hiện

-

Doanh số cho vay
thể nhân kỳ trước
X 100%

=
Doanh số cho vay thể nhân kỳ trước

( ii ) Dư nợ là số tiền ngân hàng đang cho khách hàng vay tại một thời
điểm nhất định ( cuối tháng, cuối quý, cuối năm ). Dư nợ kỳ thực hiện được
xác định trên cơ sở dư nợ kỳ trước và doanh số cho vay, doanh số thu nợ.

Tương tự như chỉ tiêu trên, dư nợ cho vay thể nhân được đo lường bằng số
tuyệt đối và số tương đối thông qua mức tăng giảm, tỷ trọng và tốc độ tăng
giảm dư nợ.
 Những con số và tốc độ tăng giảm dư nợ cho vay thể nhân qua các
năm phản ánh qui mô và xu hướng tăng trưởng hay thu hẹp cho vay thể nhân.
Chỉ tiêu này được xác định:
Tốc độ tăng
trưởng
d.nợ cho
vay thể
nhân

=

Dư nợ cho vay thể
nhân kỳ thực hiện

-

Dư nợ cho vay thể
nhân kỳ trước

X 100%

Dư nợ cho vay thể nhân kỳ trước

1.2.3.4. Giảm nợ xấu và thay đổi cơ câu nợ xấu cho vay thể nhân
Nợ xấu được hiểu một cách đơn giản là các khoản nợ mà ngân hàng cho
khách hàng vay không thể thu hồi khi đến hạn được do khách hàng đó làm ăn
thua lỗ hoặc phá sản,...Nợ xấu có tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển


23


của ngân hàng, gây ảnh hưởng trực tiếp về mặt hiệu quả kinh tế và làm giảm
chất lượng các khoản vay của ngân hàng.
Để đánh giá được chính xác chất lượng các khoản vay cao hay thấp thường
phân loại nợ theo các nhóm sau:
- Nhóm 1 ( nợ đủ tiêu chuẩn ): bao gồm các khoản dư nợ trong hạn đã
được ngân hàng đánh giá có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng
thời hạn.
- Nhóm 2 ( nợ cần chú ý ) bao gồm các khoản dư nợ quá hạn dưới 90 ngày,
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu
lại.
- Nhóm 3 ( nợ dưới tiêu chuẩn ) bao gồm các khoản dư nợ quá hạn từ 90
ngày đến 180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90
ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm 4 ( nợ nghi ngờ ) bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến
360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm 5 ( nợ có khả năng mất vốn ) bao gồm các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày
theo thời hạn đã được cơ cấu lại, các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Và như vậy, nợ xấu là những khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5.
Vậy, trong điều kiện các chỉ tiêu khác không đổi, nợ xấu cho vay thể
nhân năm nay giảm so với năm trước chứng tỏ chất lượng cho vay thể nhân
được nâng cao và ngược lại.
Trong cơ cấu nợ xấu của ngân hàng, tỷ trọng nợ xấu cho vay thể nhân
là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu cho vay thể nhân và tổng dư của NHTM ở một
thời điểm nhất định.

Tỷ trọng nợ
xấu cho

Nợ xấu cho vay thể nhân
= ______________________________________________ x 100%

24


vay thể nhân
Tổng dư nợ
Tỷ trọng nợ xấu cho vay thể nhân cao cho thấy khả năng giảm sút thu
nhập ở hiện tại do các khoản nợ này có nguy cơ không thể thu hồi điều đó có
nghĩa là chất lượng các khoản cho vay thể nhân thấp và ngược lại.
Thay đổi cơ cấu nợ xấu cho vay thể nhân là trong điều kiện tổng nợ xấu
cho vay thể nhân không đổi mà nợ xấu nhóm 4,5 giảm, sẽ nâng cao được chất
lượng của các khoản vay thể nhân và hạn chế việc giảm thu nhập của ngân
hàng.
1.2.3.5. Sự gia tăng của số lượng khách hàng và thị phần cho vay thể
nhân
 Về số lượng khách hàng: đối với bất kì ngân hàng nào khách hàng
luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến qui mô và hiệu quả kinh
doanh. Với ngân hàng, khi danh mục khách hàng vay thể nhân tăng lên ( kì
sau so với kì trước ) tức là đã có sự mở rộng về khách hàng và điều đó thường
dẫn đến sự gia tăng doanh số cho vay, dư nợ cho vay thể nhân. Nói ngắn gọn
đó là sự mở rộng cho vay thể nhân. Nó được xác định bởi công thức:
Tốc độ gia
tăng số lượng
khách hàng
cho vay thể

nhân

Số lượng khách
hàng cho vay thể
nhân kỳ thực hiện

-

Số lượng khách
hàng cho vay thể
nhân kỳ trước

=

X 100%

Số lượng khách hàng cho vay thể nhân
kỳ trước

Chỉ tiêu tỷ trọng gia tăng số lượng khách hàng thể nhân cho biết số lượng
khách hàng là thể nhân của ngân hàng tăng bao nhiêu phần trăm mỗi năm.
Nếu chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ số lượng khách hàng thể nhân càng tăng,
tức là ngân hàng mở rộng cho vay với đối tượng khách hàng là thể nhân. Nếu
chỉ tiêu này nhỏ nhưng vẫn lớn hơn 0 chứng tỏ ngân hàng hạn chế cho vay đối
với khách hàng là thể nhân.

25



×