Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LV Thạc sỹ_Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Vietcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.49 MB, 110 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa và khu vực hóa là một xu thế tất yếu trong tiến trình phát
triển kinh tế thế giới. Đối với ngành tài chính ngân hàng, hội nhập kinh tế
quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân
hàng Việt Nam; mở rộng cơ hội trao đổi hợp tác quốc tế giữa các ngân hàng
thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ; đồng thời các ngân hàng Việt
Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và phát huy
lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng
thị trường ra nước ngoài. Tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam cũng gặp phải
thách thức to lớn trong cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và với ngân
hàng nước ngoài.
Qua 45 năm hình thành và phát triển, ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam hiện nay đã xây dựng cho mình một vị trí quan trọng
và một thương hiệu nổi tiếng trong hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam.
Nhưng trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt với các ngân hàng trong
nước và ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế về năng lực cạnh tranh, hiệu quả
hoạt động vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế.
Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu đánh giá năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và ngân hàng thương
mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam nói riêng là một đòi hỏi cấp thiết. Vì vậy
đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam” được chọn để nghiên cứu nhằm đưa ra những
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương, góp phần phát triển và khẳng định vị thế
của ngân hàng này trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài tập trung vào:




2

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu cơ bản:
năng lực tài chính, khả năng ứng dụng công nghệ, nguồn nhân lực, trình độ
quản lý và cơ cấu tổ chức, năng lực hoạt động.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là NHTMCP Ngoại thương Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp:
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp đối
chiếu so sánh, phương pháp logic, phương pháp mô tả và khái quát hóa đối
tượng nghiên cứu.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của hệ
thống ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam



3

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là quy luật tất yếu, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh
tranh như là lựa chọn duy nhất. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị
trường, nơi có sự cung ứng hàng hóa, dịch vụ của ít nhất hai doanh nghiệp
(người kinh doanh) trong cùng một điều kiện giống nhau. Trong bối cảnh đó,
các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp khách nhau để sử dụng tối đa các
nguồn lực (khả năng) mà mình có để vượt lên trên đối thủ cạnh tranh cùng
loại để khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế.
Ở cấp độ vi mô, có quan điểm cho rằng “những doanh nghiệp có khả
năng cạnh tranh là những doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức
trung bình về chất lượng hàng hóa và dịch vụ và/hoặc có khả năng cắt giảm
các chi phí tương đối cho phép họ tăng được lợi nhuận và/hoặc thị phần…”.
Định nghĩa như trên đã phần nào phản ánh được tương đối toàn diện về năng
lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Nó chỉ rõ được mục tiêu của chỉ tiêu và
những đặc điểm cơ bản của việc cạnh tranh thành công. Nhưng nhược điểm
của định nghĩa trên là không chỉ ra được khả năng đó do đâu mà có. Định
nghĩa trên khiến cho năng lực cạnh tranh mang tính tĩnh. Nhưng thực tế, năng
lực cạnh tranh là một khái niệm động. Một doanh nghiệp lúc này có lợi thế
cạnh tranh nhờ những ưu thế như nguồn lao động rẻ hay gần nguồn nguyên
liệu nhưng lúc khác có thể sẽ mất lợi thế cạnh tranh khi doanh nghiệp khác có
lợi thế trên cơ sở những tiến bộ khoa học kỹ thuật hay nhờ ưu thế về quy mô.
Vì thế, một doanh nghiệp được gọi là có khả năng cạnh tranh còn phải là

doanh nghiệp có khả năng duy trì và liên tục tăng cường khả năng cạnh tranh
của mình.


4

Michael Porter, một giáo sư của trường kinh doanh Harvard, trong các
tác phẩm của mình, ông cho rằng để có thể cạnh tranh thành công, các doanh
nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí
sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hóa sản phẩm để đạt được
những mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh
nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó
có thể cung cấp hàng hóa hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có
hiệu suất cao hơn. Quan niệm của Porter đã đề cập đến vấn đề năng lực cạnh
tranh còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh
tranh của mình. Năng lực cạnh tranh ở đây cần phải được gắn liền với khái
niệm phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Ở giác độ vĩ mô, khái niệm năng lực cạnh tranh của một quốc gia cũng
chưa có được một đáp án thống nhất. Báo cáo về đánh giá năng lực cạnh tranh
toàn cầu định nghĩa năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng của
nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là
đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi của
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian.
Báo cáo đầu tiên về Năng lực cạnh tranh của Công nghiệp Châu Âu
(CEC 1996a) cũng chỉ ra rằng “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả
năng quốc gia đó tạo ra mức tăng trưởng phúc lợi cao và gia tăng mức sống
cho người dân của nước mình.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực hay lợi thế cạnh

tranh song cho đến nay, khó có thể đưa ra một định nghĩa chuẩn về khái niệm
năng lực cạnh tranh đúng cho mọi trường hợp. Tuy nhiên, đối với từng đối
tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu vẫn cần phải
đưa ra được một định nghĩa về năng lực cạnh tranh (bao gồm cả vị thế cạnh
tranh hiện tại lẫn khả năng duy trì và phát triển vị thế đó trong tương lai) của
một quốc gia, một ngành hay một doanh nghiệp một cách chính xác làm căn


5

cứ khoa học cho việc đưa ra những chính sách, những giải pháp hợp lý và
hiệu quả. Đối với lĩnh vực ngân hàng, tài chính, năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng thương mại có thể được tóm lại như sau: “Năng lực cạnh tranh của
một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những
lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn
mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an
toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất
lợi của môi trường kinh doanh”.
Nhìn chung năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại đều được
xem xét thông qua khả năng tạo và duy trì lợi nhuận thị phần nhất định trên
thị trường. Mỗi ngân hàng thương mại phải duy trì được các lợi thế so sánh
của mình với các đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng nhằm thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu của khách hàng và giành thắng
lợi trong quá trình cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
thể hiện thành các lợi thế so sánh với đối thủ cạnh tranh khác nhưng các lợi
thế đó không phải là bất biến. Điều đó phụ thuộc vào mỗi ngân hàng trong
việc thường xuyên duy trì và tăng cường năng lực cạnh tranh. Có những ngân
hàng thương mại gần như không có lợi thế hoặc lợi thế chỉ ở dạng tiềm năng
tuy nhiên do biết cách khai thác và sử dụng một cách hợp lý hiệu quả các lợi
thế tiềm năng đó đã nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình trên thương

trường.
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại
Cạnh tranh là động lực cho phát triển của ngân hàng và toàn bộ nền
kinh tế. Cạnh tranh thúc đẩy các ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân
hàng phục vụ nhu cầu khách hàng, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
sử dụng nguồn lực. Theo ông Michael Fairbanks1 - một chuyên gia nghiên
cứu và tư vấn về năng lực cạnh tranh, thì cạnh tranh tạo động lực tối đa hoá
hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế. Ngoài ra, cạnh tranh của
ngân hàng mang lại lợi ích cho khách hàng vì được sử dụng dịch vụ rẻ hơn,


6

chất lượng cao hơn, hậu mãi tốt hơn. Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát
triển và khẳng định vị trí, thu hút khách hàng. Nếu sức cạnh tranh thấp, ngân
hàng sẽ bị thôn tính, sát nhập hoặc phá sản.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của sự phát triển. Việc
nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một
nhu cầu tất yếu của các ngân hàng thương mại trong suốt quá trình hình thành
và phát triển. Tuy nhiên, việc hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực
đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cao hơn đối với năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng thương mại. Theo đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh có ý nghĩa
sống còn, giúp các ngân hàng thương mại có thể tồn tại và phát triển ngay trên
"sân nhà" và từng bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Tài chính – ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh
nhất ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Theo cam kết giữa Việt Nam và các nước thành viên, từ nay đến năm 2010,
các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân
hàng như một ngân hàng trong nước (trừ dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin

ngân hàng). Đây là thách thức, nhưng cũng là cơ hội để mỗi ngân hàng không
ngừng tự hoàn thiện mình, trong đó có việc nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin, mở rộng dịch vụ ngân hàng theo hướng tiện ích, tăng cường khả
năng phòng chống rủi ro nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.2. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại
1.2.1. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một ngân hàng tại một
thời điểm nhất định. Năng lực tài chính thể hiện qua các chỉ tiêu:
1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu và mức độ an toàn vốn:
* Tiềm lực vốn của ngân hàng thương mại được đánh giá cao hay thấp
là phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu và hệ số an toàn vốn. Chỉ tiêu này
phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi ro.


7

Đây là một trong những nguồn lực quan trọng quyết định khả năng của một
ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa
dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu
và sự phát triển của thị trường.
- Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn
ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà
nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng
góp thông qua mua cổ phần thoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên
liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện có thể.

Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không,
chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một
phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc
của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu
nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận cao so với vốn của chủ hình
thành ban đầu.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…: để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng
yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định…
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho
ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
- Các quỹ
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ
dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại
nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn
của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản


8

của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành
cổ phiếu mới. Tùy theo qui định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có
thể có quỹ phúc lợi, khen thưởng, quỹ giám đốc…
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình
thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng
các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
- Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả
năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở
hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử

dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả
khi đến hạn.
* Vai trò của vốn chủ sở hữu
- Vốn chủ sở hữu tuy chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (khoảng 8%) trong
tổng nguồn vốn huy động kinh doanh của một ngân hàng nhưng đóng vai trò
rất quan trọng. Vốn là điều kiện tiên quyết để thành lập ngân hàng, đây là
nguồn vốn khởi đầu tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng như mở rộng quy mô,
mua sắm trang thiết bị, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, là cơ sở để huy
động các nguồn vốn khác, tạo lập uy tín của ngân hàng thương mại với khách
hàng và nhà đầu tư, tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu dùng để chống đỡ, bù đắp rủi ro: vốn chủ sở hữu có
chức năng bảo vệ ngân hàng thương mại, giúp ngân hàng thương mại chống
lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về mặt tài chính và nghiệp vụ. Vốn
chủ sở hữu càng lớn thì ngân hàng thương mại càng có điều kiện để đa dạng
hóa các nghiệp vụ ngân hàng tăng lợi nhuận đồng thời tăng sức chịu đựng của
ngân hàng khi tình hình kinh tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng trải qua
giai đoạn khó khăn.


9

- Vốn chủ sở hữu lớn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, tăng giới hạn
tín dụng đối với khách hàng: Khách hàng cảm thấy yên tâm khi gửi tiền vào
ngân hàng nào có khả năng tài chính mạnh mà vốn chủ sở hữu là một yếu tố
nói lên điều đó. Bên cạnh đó vốn chủ sở hữu cũng ảnh hưởng tới giới hạn tín
dụng đối với khách hàng. Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với
mỗi khách hàng không vượt quá 15% vốn chủ sở hữu. Tổng mức cho vay và
bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá
25% vốn chủ sở hữu. Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một

nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn chủ sở hữu.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách
hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn chủ sở hữu. Nếu quy mô
vốn chủ sở hữu nhỏ, ngân hàng không thể đáp ứng những khoản vay lớn của
khách hàng, làm mất cơ hội tăng lợi nhuận và làm giảm sức cạnh tranh của
ngân hàng.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN
thì tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu 8% giữa vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản có rủi ro.
1.2.1.2. Khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Một ngân hàng thương mại làm ăn kinh doanh tốt, khả năng sinh lời cao
sẽ có điều kiện trích lập các quỹ dự trữ, đầu tư mở rộng mạng lưới giao dịch,
đầu tư công nghệ, khách hàng cảm thấy yên tâm tin tưởng và gửi tiền, do đó
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Đánh giá mức sinh lợi của một
ngân hàng thông qua chỉ tiêu như giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế; tỷ
suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ROE (return on equity), tỷ suất sinh lời trên
tổng tài sản có ROA (return on assets)…
ROA = (Lợi nhuận ròng sau thuế / Vốn chủ sở hữu và các quỹ) x 100
Chỉ tiêu này được coi là thước đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng hay
hiệu quả khai thác tài sản có. ROA giúp các nhà quản trị ngân hàng thấy được
khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có, là


10

thước đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng vì mọi tài sản có đều là những khoản
đầu tư. Nói cách khác, ROA giúp ta xác định hiệu quả kinh doanh tốt, ngân
hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, có sự điều động linh hoạt giữa các mục tiêu trên
tài sản có trước những biến động của nền kinh tế.

ROE = (Lợi nhuận ròng sau thuế / Tổng tài sản có bình quân) x 100
Chỉ tiêu này được coi là một thước đo hiệu quả của một đồng vốn ngân
hàng bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE đo lường hiệu quả sử
dụng một đồng vốn chủ sở hữu. Mức sinh lời trên vốn chủ sở hữu là mục tiêu
tìm kiếm của bất cứ chủ ngân hàng nào, song nếu ROE quá lớn so với ROA
chứng tỏ vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng hay ngân hàng đã huy động quá nhiều vốn từ các đối tượng khác để cho
vay, làm tăng rủi ro kinh doanh.
Trong cạnh tranh, nếu ngân hàng có năng lực cạnh tranh tốt thì hoạt
động và thu được lợi nhuận cao hơn các đối thủ khác. Chỉ tiêu ROA, ROE
cũng được các tổ chức tài chính quốc tế sử dụng đánh giá điều kiện hội nhập
quốc tế của ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, mức ROA tối thiểu phải đạt
trên 1% và tỷ lệ ROE tối thiểu phải đạt 15% mới bảo đảm mực hiệu quả hoạt
động kinh doanh ngân hàng.
1.2.1.3. Khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro:
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn đi kèm với rủi
ro. Rủi ro của ngân hàng thương mại gồm nhiều loại khác nhau như rủi ro
thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất… Nếu khả năng phòng ngừa và
chống đỡ rủi ro thấp thì khi rủi ro xảy ra, huy động kinh doanh ngân hàng sẽ
gặp nhiều khó khăn đình trệ, làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Do đó, việc xây dựng các biện pháp và công cụ để phòng ngừa và chống đỡ
rủi ro là hết sức cần thiết và đây cũng được xem là một tiêu chí đánh giá năng
lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, đối với các nhà đầu tư mua cổ phần ngân hàng và khách hàng
đến gửi tiền tại ngân hàng, ngoài mục tiêu sinh lời cho các khoản đầu tư và


11

tiền gửi của mình thì họ cũng mong muốn chọn được các ngân hàng có độ an

toàn cao để bảo đảm an toàn cho tiền vốn của mình.
Việc thực thi có hiệu quả công tác phòng ngừa, chống đỡ rủi ro thể hiện
ở các mặt sau:
- Thiết lập đầy đủ bộ máy quản lý, kiểm soát rủi ro và có cơ chế quản
lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng: Hội đồng quản trị: thông qua chính sách
quản lý, kiểm soát rủi ro trong khả năng ngân hàng có thể chấp nhận được nói
chung và đối với từng lĩnh vực nghiệp vụ nói riêng trên cơ sở đánh giá phân
tích tính khả thi của chiến lược hoạt động kinh doanh, kế hoạch kinh doanh
từng thời ký và thực trạng hoạt động của ngân hàng cùng những yếu tố tác
động từ ngoài, căn cư chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro để chỉ đạo triển
khai thực hiện, định kỳ đánh giá và điều chỉnh phù hợp tình hình thực tế. Ban
kiểm soát: thông qua công tác giám sát và kiểm toán độc lập để kiểm tra, đánh
giá việc triển khai thực hiện và việc tuân thủ về định hướng chung và quy
trình quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Đề xuất việc ngăn
ngừa xử lý những sai hạm nhằm hoàn thiện công tác quản lý, kiểm soát rủi ro.
Ban điều hành: căn cứ chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro để triển khai thực
hiện thông qua việc thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ dưới hình
thức các chốt kiểm soát và các quy trình xử lý nghiệp vụ có sự giám sát lẫn
nhau giữa các cá nhân và các bộ phận liên quan, hạn mức rủi ro có thể chấp
nhận và các tiêu chi cảnh báo, giám sát nhằm ngăn ngừa, kịp thời xử lý khi có
dấu hiệu rủi ro. Định kỳ đánh giá, đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý,
kiểm soát rủi ro. Mô hình quản lý, kiểm soát rủi ro được thiết lập theo hướng
quản lý tập trung tại trụ sở chính trên cơ sở hệ thống thông tin báo cáo trực
tuyến được thiết lập giữa trụ sở chính với các sở giao dịch, chi nhánh nhằm
bảo đảm số liệu báo cáo cập nhật, kịp thời, chính xác để phục vụ công tác
quản lý, điều hành và kiểm soát rủi ro.
- Chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro đánh giá toàn diện về các loại
hình rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các rủi ro có ảnh hưởng
trọng yếu tới an toàn hoạt động ngân hàng (rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản,



12

rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường, rủi ro hối đoái, rủi ro hoạt động…); đồng thời
đảm bảo các nguyên tắc quản lý rủi ro:
Nguyên tắc chấp nhận rủi ro: nhà quản lý ngân hàng cần phải chấp
nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như mong muốn có được thu nhập phù hợp
từ những hoạt động nghiệp vụ của mình. Việc chấp nhận mức độ, loại rủi ro
ngân hàng nào chính là điều kiện quan trọng điều tiết những tác động tiêu cực
chính trong quá trình quản lý rủi ro.
Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép: đòi hỏi phần lớn rủi ro trong
“gói rủi ro cho phép” phải có khả năng điều tiết trong quá trình quản lý,
không phụ thuộc vào hoàn cảnh khách quan hoặc chủ quan của nó. Chỉ đối
với những loại rủi ro này, các nhà quản lý mới có thể sử dụng những “vũ khí”,
“nghệ thuật” của mình để điều tiết chúng. Những rủi ro không có khả năng
điều chỉnh phải được chuyển sang các công ty bảo hiểm bên ngoài.
Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt: không gộp các nhóm
rủi ro khác nhau vào một nhóm để cùng đưa ra một phương pháp điều chỉnh.
Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập:
chỉ chấp nhận các mức độ rủi ro mà thiệt hải khi chúng xảy ra không được
cao quá mức thu nhập phù hợp.
Nguyên tắc hiệu quả kinh tế: chi phí ngân hàng bỏ ra điều tiết những
tác động tiêu cực của rủi ro khi xảy ra phải thấp hơn giá trị thiệt hại do những
rủi ro ngân hàng có khả năng xảy ra ở mức độ cao nhất.
Nguyên tắc hợp lý về thời gian: thời gian tồn tại của một nghiệp vụ
ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra rủi ro càng lớn, khả năng điều tiết tác
động tiêu cực của nó và tính kinh tế của quản lý rủi ro càng thấp. Vì vậy, ngân
hàng phải đảm bảo có mức thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi nhuận
mà còn vì mục đích bù đắp những chi phí để điều tiết tác động của rủi ro
trong trường hợp chúng xảy ra.

Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng: hệ thống
quản lý rủi ro cần được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến


13

lược phát triển của ngân hàng và chính sách đìu hành hoạt động riêng biệt
của ngân hàng.
Nguyên tắc chuyển đẩy các rủi ro không cho phép: các rủi ro không
tương thích khả năng của ngân hàng trong điều tiếu hậu quả tiêu cực khi
chúng xảy ra hay không phù hợp với yêu cầu cụ thể của chiến lược và
chính sách điều hành hoạt động ngân hàng cần được loại bỏ khỏi “gói rủi
ro cho phép”.
1.2.2. Khả năng ứng dụng công nghệ
Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như
là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của
mỗi ngân hàng. Vai trò của công nghệ đối với các hoạt động ngân hàng được
thể hiện:
- Cho phép lưu trữ và đẩy nhanh tốc độ xử lý các dữ liệu tạo điều kiện
cho công tác hạch toán kế toán, lưu trữ và báo cáo. Nhờ đó, ngân hàng giảm
thời gian của quy trình xử lý nghiệp vụ, cập nhật số liệu báo cáo phục vụ hữu
hiệu cho công tác điều hành, quản lý, kiểm soát đối với hoạt động ngân hàng.
- Cho phép đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và liên kết với các doanh
nghiệp khác trong việc bán chéo sản phẩm dịch vụ.
- Cho phép thiết lập hệ thống giao dịch trực tuyến, xóa bỏ giới hạn
trong hoạt động ngân hàng về địa giới hành chính, thời gian giao dịch và yêu
cầu phải đến địa điểm ngân hàng để thực hiện giao dịch, góp phần quan trọng
vào hoạt động thương mại điện tử.
- Cho phép thiết lập hệ thống thông tin quản lý trực tiếp phục vụ hữu
hiệu cho công tác quản lý điều hành theo mô hình tập trung, nâng cao khả

năng quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính
tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy
rút tiền tự động ATM… mà còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý, hệ thống
báo cáo rủi ro…trong nội bộ ngân hàng. Đặc biệt trong điều kiện ngành công


14

nghệ thông tin nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng phát triển nhanh
chóng như hiện nay, khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ cũng là chỉ tiêu
quan trọng phản ánh năng lực công nghệ của một ngân hàng. Với tốc độ phát
triển rất nhanh của ngành công nghệ thông tin nói chung và công nghệ lĩnh
vực ngân hàng nói riêng, nếu chỉ tập trung phân tích vào khả năng công nghệ
hiện tại mà không chú ý tới khả năng nâng cấp và thay đổi trong tương lai thì
sẽ rất dễ có những nhận thức sai lầm về năng lực công nghệ của các ngân
hàng. Vì thế năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng
công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả năng mở (khả năng đổi mới) của
các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Đổi mới công nghệ
ngân hàng là tin học hóa hoạt động ngân hàng, tin học hóa các nghiệp vụ ngân
hàng, mở rộng dịch vụ ngân hàng hiện đại trên nền công nghệ mới gắn liền
với việc thay đổi cơ chế pháp lý phù hợp.
1.2.3. Nguồn nhân lực
Con người luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã
hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, con người là một nguồn lực đặc biệt quan
trọng, là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng và là nền tảng
cho mọi cải tiến và phát triển.
- Trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng
của những người tham gia công tác quản trị, kiểm soát, điều hành ngân hàng
quyết định tới chất lượng và tính khả thi của việc xây dựng và thực hiện chiến

lược hoạt động kinh doanh cũng như chính sách quản lý, kiểm soát rủi ro của
ngân hàng. Nhiều kinh nghiệm của thế giới cho thấy một đội ngũ lãnh đạo
giỏi luôn là yếu tố đưa hoạt động ngân hàng phát triển.
- Trình độ chuyên môn cao, thao tác nghiệp vụ thành thạo, kinh nghiệm
của đội ngũ các nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, có thể phục vụ khách hàng chu đáo, chính xác,
nhanh chóng, chất lượng công tác quản lý tốt và kiểm soát được rủi ro.
- Chính sách nhân sự, đào tạo và sử dụng, đãi ngộ hợp lý sẽ giữ được
cán bộ có trình độ, năng lực tận tâm phục vụ cho sự nghiệp ngân hàng đồng


15

thời xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, thu hút những người có
trình độ cao đến với ngân hàng. Nguồn nhân lực có trình độ cao, có năng lực
và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng chính là nguồn tài sản có giá trị
của ngân hàng.
Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm
và trình độ cao được tích lũy theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có
tốc độ lưu chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về
nguồn nhân lực. Hiệu quả của các chính sách nhân sự, đặc biệt chính sách
tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng
duy trì một đội ngũ nhana sự chất lượng cao của một ngân hàng.
1.2.4. Trình độ quản lý và cơ cấu tổ chức
Trình độ quản lý có vai trò quan trọng trong việc quyết định năng lực
cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Nếu trình độ quản lý không tốt sẽ làm giảm
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, bộ máy quản lý cồng kềnh gây lãng phí,
chất lượng nguồn nhân lực không cao… làm giảm năng lực cạnh tranh của
ngân hàng. Đối với các nâng cao đang phát triển như Việt Nam, khi hội nhập
quốc tế về ngân hàng, sự tham gia của các ngân hàng thương mại nâng cao

ngoài có tiềm lực tài chính hùng mạnh, trình độ quản lý cao, có bề dày kinh
nghiệm trên thị trường quốc tế sẽ là một thách thực không nhỏ đối với các
ngân hàng thương mại trong nâng cao. Do đó các ngân hàng thương mại trong
nâng cao phải nâng cao trình độ quản lý trong đó đặc biệt quan tâm đến chất
lượng nguồn nhân lực.
Trình độ quản lý phản ánh năng lực điều hành của hội đồng quản trị
cũng như ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức
độ chi phối và khả năng giám sát của hội đồng quản trị đối với ban giám đốc;
mục tiêu, động cơ, mức độ cam kết của ban giám đốc cũng như hội đồng quản
trị đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng; chính
sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc; số lượng, chất lượng và
hiệu lực thực hiện cảu các chiến lược, chính sahcs và quy trình kinh doanh
cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực quản


16

lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một ban giám
đốc hay hội đồng quản trị yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính
sách, chiến lược hợp lý, thích ứng với thay đổi của thị trường… sẽ làm lãng
phí nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó.
Năng lực quản lý của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc cũng bị
chi phối bởi cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức là một
chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân
hàng có phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng; phù hợp với
đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Cơ cấu
tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban chức năng,
các bộ phận tác nghiệp, cac đơn vị trực thuộc… Hiệu quả của cơ chế quản lý
không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng ban, sự phân công, phân cấp giữa
các phòng ban mà còn phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng ban,

các đơn vị trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp
vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến
động của ngành hay biến động môi trường vĩ mô.
1.2.5. Năng lực hoạt động
1.2.5.1 Khả năng huy động vốn
Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại,
quyết định quy mô kinh doanh. Ngân hàng nào có khả năng huy động vốn lớn
thì có triển vọng mở rộng thị phần tín dụng, đầu tư và dịch vụ khác nhằm tăng
lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Khả năng huy động
vốn của ngân hàng được đánh giá thông qua một số tiêu chí như: thị phần huy
động vốn, mức tăng trưởng huy động vốn, lãi suất huy động cạnh tranh, sự đa
dạng hóa về kỳ hạn gửi, sự thuận tiện khi giao dịch, các chương trình
marketing hiệu quả…
Thị phần huy động vốn của NH A = (Nguồn vốn huy động của NH A / Tổng nguồn
vốn huy động của toàn bộ các NH) x 100


17

Tốc độ tăng trưởng vốn huy động của NH A = (Nguồn vốn huy động năm nay Nguồn vốn huy động năm trước) / Nguồn vốn huy động năm trước x 100

1.2.5.2 Hoạt động tín dụng, đầu tư
Hoạt động tín dụng và đầu tư là hoạt động kinh doanh chủ chốt của
Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, nhất là ở các nước đang phát triển
như Việt Nam. Hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng thương mại tốt sẽ
đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, phát triển khả năng huy động vốn,
nâng cao hiệu quả kinh doanh và từ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh của
ngân hàng. Một số chỉ tiêu thường dùng đánh giá hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại:
- Thị phần tín dụng của ngân hàng: là mức so sánh gữa dư nợ tín dụng

của ngân hàng này với tổng dư nợ của thị trường tín dụng ngân hàng.
- Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và đầu tư của ngân hàng là mức so
sánh gữa mức tăng dư nợ tín dụng và đầu tư ở các thời kỳ kế tiếp nhau. Cũng
có thể so sánh tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng khác nhau để thấy rõ
năng lực hoạt động giữa chúng.
- Khả năng cho vay, bảo lãnh tối đa đối với một khách hàng hoặc một
nhóm khách hàng có liên quan, phụ thuộc vào tỷ lệ giới hạn tối đa cho vay,
bảo lãnh so với mức vốn tự có của ngân hàng. Theo quy định tại Quyết định
457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc NHNN thì giới hạn cho
vay, bảo lãnh như sau:
+ Tổng mức cho vay của TCTD đối với một khách hàng không quá
15% vốn tự có của TCTD, đối với một nhóm khách hàng có liên quan không
quá 40% vốn tự có của TCTD.
+ Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với một khách hàng
không quá 25% vốn tự có của TCTD, đối với một nhóm khách hàng có liên
quan không quá 60%.


18

- Khả năng đầu tư góp vốn, liên doanh tối đa của ngân hàng. Theo quy
định tại Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc
NHNN xác định như sau:
+ Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại dưới hình thức góp
vốn đầu tư, liên doanh, mua cổ phần của tổ chức tín dụng không được quá
11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư hoặc 11% giá trị dự án đầu tư.
+ Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của tổ
chức tín dụng không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ
chức tín dụng.
+ Tổ chức tín dụng đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại vượt quá

tỷ lệ quy định 11% nêu trên phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp
thuận trước bằng văn bản với điều kiện khoản đầu tư đó là hợp lý và tổ chức
tín dụng đã chấp hành các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng, có tỷ lệ nợ
xấu từ 3% tổng dư nợ trở xuống.
- Khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay và đầu tư thể hiện: khả năng
sinh lời từ kết quả cho vay và đầu tư; tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay,
đầu tư trên tổng thu nhập của ngân hàng; chất lượng hoạt động cho vay thông
qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng doanh nghiệp thấp; khả năng đa dạng hóa hoạt động
kinh doanh thông qua hoạt động đầu tư; góp vốn vào các doanh nghiệp, lĩnh
vực hoạt động khác, đặc biệt là lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm để giúp ngân
hàng tăng khả năng đa dạng hóa sản phẩm, liên kết giữa các sản phẩm và bán
chéo sản phẩm.
1.2.5.3 Phát triển sản phẩm dịch vụ khác
* Khả năng cung cấp các dịch vụ trung gian thanh toán
Nền kinh tế càng phát triển các dịch vụ ngân hàng cũng phát triển theo
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng. Hoạt động này
mang lại thu nhập khá quan trọng cho ngân hàng và chứa đựng ít rủi ro. Ở các
nước phát triển, thu nhập từ nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ chiếm


19

trên 50% thu nhập của ngân hàng. Đây là một tiêu chí đánh giá năng lực hoạt
động của ngân hàng thương mại, thể hiện ở:
- Ngân hàng có thể cung ứng nhiều các phương tiện thanh toán (séc, ủy
nhiệm chi, thu tín dụng, ủy nhiệm thu, thanh toán chuyển tiền, thẻ ngân
hàng…) do đó khách hàng có nhiều sự lựa chọn.
- Ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và
thanh toán quốc tế trên cơ sở tham gia thị trường thanh toán liên ngân hàng và
thiết lập các quan hệ đại lý thanh toán với các ngân hàng khác, đặc biệt là

quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả của khách hàng.
- Ngân hàng đảm bảo việc thanh toán, chi trả nhanh cóng, chính xác
theo nhu cầu của khách hàng.
- Ngân hàng có khả năng cung ứng các dịch vụ thanh toán trực tuyến
thông qua hệ thống công nghệ tin học, viễn thông như internetbanking,
phonebanking, homebanking…
- Ngân hàng có số lượng thẻ ngân hàng được phát hành lớn, doanh số
giao dịch qua thẻ ngân hàng cao, đặc biệt là có hệ thống máy ATM và thiết lập
hệ thống đơn vị đại lý chấp nhận thanh toán thẻ nhiều, có khả năng liên kết
với hệ thống thanh toán thẻ của nhiều ngân hàng trong và ngoài nước.
Sự phát triển đa dạng của đời sống xã hội cùng với sự tiến bộ về khoa
học công nghệ đòi hỏi các ngân hàng thương mại ngoài việc cạnh tranh về giá
còn phải không ngừng tìm tòi, phát triển những hình thức dịch vụ mới, đa
dạng hóa danh mục, chủng loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng để đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, tăng thêm thị phần và lợi nhuận cho
ngân hàng.
* Khả năng đa dạng hóa sản phẩm trong từng dịch vụ ngân hàng và
nhiều loại dịch vụ ngân hàng, thể hiện:
- Có nhiều hình thức huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế như
phát hành trái phiếu, giấy tờ có giá, nhận tiền gửi nội, ngoại tệ, hoặc gửi vàng


20

tiết kiệm với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều kỳ hạn huy động vốn, trả
lại trước hoặc sau, gửi một nơi, rút nhiều nơi, gửi tiền tiết kiệm tích lũy…)
- Có nhiều hình thức cho vay, tài trợ thương mại khác nhau về kỳ hạn
vay, trả, loại đồng tiền, cách giải ngân, cách trả gốc và lãi, chiết khấu giấy tờ
có giá…

- Có nhiều hình thức thanh toán với nhiều loại phương tiện thanh toán
tiện ích, hiện đại như thẻ thanh toán, thanh toán điện tử (internetbanking,
telephonebanking, homebanking…)
- Có nhiều sản phẩm dịch vụ hỗ trợ khách hàng như tư vấn tài chính,
các sản phẩm phái sinh giúp khách hàng phòng rủi ro, môi giới bảo quản hiện
vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ, kinh doanh vàng bạc, ngoại
hối, nhận ủy thác và làm đại lý, kinh doanh dịch vụ bảo hiểm…
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại
1.3.1. Các nhân tố bên ngoài
1.3.1.1. Môi trường kinh tế
Sự phát triển của nên kinh tế trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Sản xuất, kinh doanh,
thương mại và dịch vụ ngày càng tăng sẽ tác động đến khả năng thu hút tiền
gửi, khả năng cho vay đầu tư và phát triển các dịch vụ ngân hàng của ngân
hàng thương mại. Ngân hàng là một ngành chứa đựng nhiều rủi ro. Mỗi một
biến động bất lợi của môi trường kinh tế vĩ mô đều có thể ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của một ngân hàng. Một nước có nền kinh tế phát triển ổn
định, tốc độ tăng trưởng cao, các chỉ số về lạm phát, lãi suất, tỷ giá phát triển
ổn định, năng lực cạnh tranh cao sẽ là một điều kiện hết sức thuận lợi cho sự
phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng, giúp các ngân hàng thương mại
trong nước có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao chất lượng
phục vụ từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của mình. Và ngược
lại, sự bất ổn định về kinh tế có thể tạo ra sự dè dặt, co cụm của những nỗ lực


21

đầu tư của các doanh nghiệp nói chung và của các ngân hàng thương mại nói
riêng.

1.3.1.2. Đối thủ cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các chủ thể nói chung và
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng là một quy luật khách quan.
Trong phạm vi quốc gia, đối thủ cạnh tranh của các ngân hàng chính là các ngân
hàng khác, ngoài ra còn có các định chế tài chính phi ngân hàng như công ty bảo
hiểm, công ty tiết kiệm bưu điện, quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính.
Trong điều kiện hội nhập, có nhiều ngân hàng quốc tế vào đầu tư và ngược lại
các ngân hàng thương mại mở rộng phạm vi kinh doanh ra thị trường quốc tế, do
đó các ngân hàng thương mại chịu sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài,
chịu sự cạnh tranh của các đối thủ ở nước sở tại, nơi mà ngân hàng thương mại
thành lập chi nhánh và tiến hành hoạt động kinh doanh.
Số lượng các đối thủ cạnh tranh càng nhiều thì mức độ cạnh tranh càng
cao. Trong quá trình kinh doanh, nếu một ngân hàng thương mại có năng lực
cạnh tranh thấp hơn các đối thủ cạnh tranh khác thì ngân hàng thương mại đó
sẽ có khả năng bị giảm doanh thu, thị phần bị thu hẹp hoặc nặng hơn có thể bị
phá sản. Do đó, để đứng vững và giàn phần thắng trong cạnh tranh, đòi hỏi
mỗi ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, nâng
cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nghiên cứu điểm mạnh, điểm yếu, lợi thế
cạnh tranh của đối thủ để có chiến lược kinh doanh hợp lý.
1.3.1.3. Hệ thống luật pháp
Hệ thống luật pháp trước hết tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh
doanh và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Hệ thống luật pháp tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của ngân hàng thương
mại. Luật quy định những điều kiện cần thiết về mặt pháp lý để một ngân
hàng thương mại được phép kinh doanh, những lĩnh vực kinh doanh hợp
pháp, giới hạn về quy mô huy động vốn, khả năng cấp tín dụng, tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu, các quy định đảm bảo an toàn. Ngoài ra, những quy định của
luật cũng tác động đến khả năng tham gia cạnh tranh của các chủ thể trên thị



22

trường tài chính, gia tăng hay kìm hãm khả năng cạnh tranh của các ngân
hàng thương mại trên thị trường quốc tế. Khi có sự thay đổi về luật, các quy
định trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của quốc gia sẽ kéo thao sự điều
chỉnh trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý xây dựng môi trường cạnh tranh
lành mạnh và bình đẳng giữa các chủ thể, đề ra các quy định và các nguyên
tắc trong cạnh tranh, chi phối đến việc mở rộng hay giới hạn quy mô cạnh
tranh của thị trường, phát triển môi trường cạnh tranh tạo động lực thúc đẩy
các ngân hàng thương mại tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Hệ
thống luật pháp một mặt tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo quyền
lợi chính đáng và hợp pháp của các ngân hàng thương mại nhưng mặt khác
cũng thực hiện chức năng ngăn ngừa và có chế tài xử phạt thích đáng đối với
hoạt động tiêu cực, cạnh tranh không lành mạnh.
1.3.1.4. Đặc điểm văn hóa xã hội
Năng lực cạnh tranh của một ngành có thể bị tác động bởi một số yếu tố
văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, các đặc điểm đó tác động rất nhiều
đến yếu tố con người thông qua việc tác động đến nhu cầu và nguồn nhân lực.
Trước hết, những đặc điểm xã hội ảnh hưởng đến cầu đối với các dịch
vụ ngân hàng như lòng tin của dân chúng; thói quen tiêu dùng và tiết kiệm
của người dân; trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về các dịch vụ của ngân
hàng; mức thu nhập của người dân. Ngân hàng là người giữ túi tiền cho người
dân và các doanh nghiệp, nếu hệ thống ngân hàng không được người dân tin
tưởng thì chắc chắn ngân hàng không thể phát triển. Thói quen tiêu dùng của
người dân cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là thói
quen sử dụng tiền tệ. Nếu người dân sử dụng tiền mặt nhiều thì người dân mất
đi cơ hội kinh doanh. Mức tiết kiệm của người dân càng cao càng có ảnh
hưởng đến nguồn cung tín dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí cũng là
yếu tố quan trọng ảnh hưởng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Trình độ

dân trí ở một quốc gia càng cao thì khả năng phổ biến dịch vụ ngân hàng hiện
đại càng thuận tiền , cơ hội đổi mới của các ngân hàng cũng cao hơn. Mức thu


23

nhập cũng vậy, người dân có thu nhập càng cao càng có nhu cầu sử dụng dịch
vụ ngân hàng nhiều hơn.
Ngoài ra, đặc điểm văn hóa xã hội ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong
lĩnh vực ngân hàng có thể kể đến như quan điểm về doanh nhân và kinh doanh;
quan điểm về sự giàu có; quan điểm về thăng tiến; về đạo đức nghề nghiệp; quan
điểm về học tập, tự đào tạo; quan điểm về sự gắn bó nghề nghiệp hay quan điểm
về rủi ro thất bại… Phải quan niệm rõ ràng, ngân hàng trước hết là một doanh
nghiệp, do đó được toàn xã hội coi trọng và tạo điều kiện phát triển. Bên cạnh
đó, ngân hàng là một ngành dịch vụ chất xám và cần có những cá nhân xuất sắc,
có tham vọng kinh doanh, làm giàu và thăng tiến sẽ tạo nên thành công của ngân
hàng. Ở một đất nước, những giá trị trên được quan tâm và coi trọng thì sẽ tạo
điều kiện cho những người có phẩm chất đó phát triển, đồng thời các ngân hàng
có nhiều cơ hội tuyển chọn nguồn nhân lực tốt và phù hợp. Ngân hàng là một
ngành có nhiều rủi ro, những người làm việc trong lĩnh vực ngân hàng phải là
những người có khả năng phát hiện và đánh giá được rủi ro, dám chấp nhận rủi
ro, đồng thời là người có sự thận trọng cần thiết, tôn trọng các yêu cầu về đạo
đức nghề nghiệp. Việc coi trọng đạo đức là cơ sở để ngân hàng giữ chữ tín đối
với khách hàng, gây dựng niềm tin của công chúng. Một xã hội coi trọng đạo
đức cũng là điều kiện thuận lợi đối với việc nâng cao vị thế cạnh tranh của ngân
hàng. Sự gắn bó với nghề nghiệp cũng có ý nghĩa trong việc giúp người lao động
có thời gian và cơ hội tích lũy kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm, từ đó giúp
ngân hàng duy trì được đội ngũ nhân lực ổn định và có trình độ cao. Ngân hàng
là một ngành có tốc độ đổi mới và cải tiến rất cao, vì thế khả năng tự học, tự đào
tạo của các nhân viên có ý nghĩa lớn đối với việc duy trì và nâng cao lợi thế cạnh

tranh của mỗi ngân hàng. Một xã hội coi trọng việc học tập và rèn luyện cũng
mang lại thuận lợi đối với ngành ngân hàng.
1.3.1.5. Vai trò của nhà nước và NHTW
Vai trò của Nhà nước là một yếu tố mang tính chất xúc tác rất quan
trọng với sự phát triển của bất kỳ ngành nào ở một nước. Đối với lĩnh vực
ngân hàng, Nhà nước lại càng đóng một vai trò quan trọng.


24

Nhà nước tác động đến sự phát triển của các ngân hàng trước hết với vai
trò của người quản lý và giám sát của toàn hệ thống thông qua vai trò của ngân
hàng Nhà nước. Sự hoạt động lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng
thương mại là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ở một quốc gia. Do
những mối liên kết rất chặt chẽ của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại, sự
đồ vỡ của một ngân hàng thường gây ra những hậu quả rất to lớn và cớ khả
năng gây ra hiệu ứng lan truyền lên toàn hệ thống. Vì thế, hoạt động của các
ngân hàng thương mại phải chịu sự quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ của
các cơ quan nhà nước nói chung và của ngân hàng Nhà nước nói riêng.
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất trong lĩnh
vực ngân hàng, có chức năng soạn thảo các dự thảo luật, ban hành các quy
định hướng dẫn về mặt pháp lý trong kinh doanh ngân hàng nhằm đảm bảo
hoạt động của các ngân hàng thương mại, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh và bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại… Với vai trò quan trọng
như vậy đòi hỏi ngân hàng Nhà nước phải có năng lực quản lý điều hành phù
hợp. Nếu năng lực quản lý điều hành của ngân hàng Nhà nước không tốt sẽ
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và hội nhập của các ngân hàng thương
mại. Ví dụ không đưa ra được các quy định pháp lý kịp thời hướng dẫn hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, không có các biện pháp cảnh
cáo, ngăn chặn cần thiết đối với các hành vi tiêu cực, gian lận, vi phạm những

điều bị cấm hoặc không khuyến khích, hạn chế về năng lực điều hành chính
sách tiền tệ.
1.3.2. Các nhân tố bên trong
Ngân hàng là một lĩnh vực dịch vụ đặc thù mà đối tượng kinh doanh là
quyền sử dụng tiền tệ và các nghiệp vụ kinh doanh liên quan đến tiền tệ khác
(như thanh toán, mua bán ngoại hối…). Các nhân tố nội tại của ngành như
nguồn nhân lực, công nghệ, cơ chế điều hành, cơ sở vật chất kỹ thuật… ảnh
hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành. Một ngân hàng thương mại có
đội ngũ cán bộ quản lý nhân viên giỏi sẽ có khả năng quản lý điều hành tốt
mọi hoạt động của ngân hàng, có khả năng hoạch định và thực thi chiến lược


25

một cách hiệu quả, có kỹ năng thao tác nghiệp vụ thành thạo trong quá trình
cung ứng sản phẩm…Ưu thế về nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ làm tăng
khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Chất lượng nguồn nhân lực là
kết quả của sự cạnh tranh trong quá khử đồng thời lại chính là năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại trong tương lai.
Trong thời đại kỹ thuật công nghệ số phát triển với tốc độ nhanh chóng
không ngừng, đã trở thành nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố cấu
thành cơ sở hạ tầng của các ngân hàng thương mại. Công nghệ tự động thực
hiện ngày càng nhiều công việc tác nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng với thời
gian ngày càng ngắn, độ chính xác ngày càng cao đồng thời đem lại tiện ích
cao cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Cơ chế điều hành cũng là yếu tố tác động quan trọng, nếu cơ chế quản
lý điều hành không tốt thì sẽ dẫn đến bộ máy cồng kềnh, hoạt động thiếu hiệu
quả, mất cơ hội kinh doanh, không ứng phó kịp thời trước những diễn biến
của thị trường, lãng phí về nguồn lực con người và vật chất, dẫn tới giảm
năng lực cạnh tranh. Đây cũng là thách thức lớn của các ngân hàng thương

mại Việt Nam khi hội nhập vid năng lực quản trị điều hành của các ngân hàng
hiện nay còn hạn chế.
Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
mỗi ngân hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại có mạng lưới chi
nhánh rộng lớn, nơi giao dịch sạch đẹp, thuận tiện cho khách hàng, có công
nghệ hiện đại, trang thiết bị kỹ thuật đạt chuẩn, đồng bộ sẽ có cơ hội thu hút
được nhiều khách hàng đến giao dịch, tăng khả năng cạnh tranh.


×