Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Luan van nâng cao chất lượng sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa các xã nông thôn mới ở huyện thọ xuân, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 121 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

********

NGUYỄN THỊ BÍCH PHƢƠNG

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG
TẠI NHÀ VĂN HÓA CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 60310642

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Cần

HÀ NỘI, 2018


0

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn Cần. Những nội dung luận văn là kết
quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa từng được ai công bố
dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của người
khác, tôi đều trích dẫn rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà
trường về sự cam đoan này.


Hà Nội, ngày …. tháng …. năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bích Phương


1

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ........................................................................................................... 1
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT....................................................................... 3
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG TẠI NHÀ VĂN HÓA
VÀ KHÁI QUÁT VỀ NHÀ VĂN HÓA CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN
THỌ XUÂN....................................................................................................... 15

1.1. Cơ sở lý luận về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa ......................... 15
1.1.1. Các khái niệm liên quan đề tài ....................................................... 15
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của nhà văn hóa xã ...................................... 25
1.2. Khái quát về phong trào xây dựng nông thôn mới và hệ thống nhà văn
hóa ở huyện Thọ Xuân ................................................................................ 28
1.2.1. Phong trào xây dựng nông thôn mới ở huyện Thọ Xuân ............... 28
1.2.2. Hệ thống nhà văn hóa ở huyện Thọ Xuân...................................... 31
1.2.3. Đóng góp của nhà văn hóa xã nông thôn mới đối với đời sống văn
hóa - xã hội ở huyện Thọ Xuân ................................................................ 33
Tiểu kết ........................................................................................................ 35
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ TỔ CHỨC SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG
TẠI NHÀ VĂN HÓA XÃ NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN THỌ XUÂN ................. 37


2.1. Công tác quản lý nhà văn hóa xã nông thôn mới huyện Thọ Xuân .... 37
2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân sự ................................... 37
2.1.2. Cơ chế và các nguồn lực hoạt động ............................................... 38
2.1.3. Quản lý hoạt động chuyên môn ..................................................... 41
2.1.4. Kiểm tra, giám sát hoạt động nhà văn hóa ..................................... 42
2.2. Tổ chức các dạng thức sinh hoạt cộng đồng ........................................ 43
2.2.1. Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động .................................... 43
2.2.2. Hoạt động câu lạc bộ, đội - nhóm .................................................. 45
2.3. Đặc điểm của sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa các xã nông
thôn mới ở huyện Thọ Xuân ............................................................... 57
2.3.1. Mở rộng không gian, thời gian hoạt động nhà văn hóa ................. 57


2

2.3.2. Phát huy tính tự nguyện, tự giác của người dân trong tổ chức sinh
hoạt cộng đồng ......................................................................................... 58
2.3.3. Phổ biến kiến thức và hướng dẫn phát triển kinh tế cho người dân .... 59
2.3.4. Tuyên truyền giáo dục và đào tạo nghề ở nông thôn ..................... 61
2.4. Đánh giá sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn mới ....... 63
2.4.1. Ưu điểm .......................................................................................... 63
2.4.2. Hạn chế ........................................................................................... 65
Tiểu kết ........................................................................................................ 68
Chƣơng 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG TẠI NHÀ VĂN HÓA CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI Ở
HUYỆN THỌ XUÂN ......................................................................................... 70

3.1. Những vấn đề đặt ra về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa các xã
nông thôn mới ở huyện Thọ Xuân .............................................................. 70
3.2. Định hƣớng phát triển sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông

thôn mới ....................................................................................................... 73
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã
nông thôn mới huyện Thọ Xuân ................................................................. 76
3.3.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về hoạt động của nhà văn hóa xã
nông thôn mới........................................................................................... 77
3.3.2. Giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện cho nhà văn hóa .... 81
3.3.3. Giải pháp về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ văn hóa cơ sở ................. 82
3.3.4. Giải pháp về sự tham gia cộng đồng vào hoạt động nhà văn hóa...... 84
3.4. Một số khuyến nghị .............................................................................. 86
Tiểu kết ........................................................................................................ 87
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 91
PHỤ LỤC.......................................................................................................... 96


3

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

ATGT

An toàn giao thông

BBPVS

Biên bản phỏng vấn số


BLĐTB&XH

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

BNV

Bộ nội vụ

BTC

Ban tổ chức

BVHTTDL

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CLB

Câu lạc bộ

NTM

Nông thôn mới

NVH

Nhà văn hóa

NVHCĐ


Nhà văn hóa cộng đồng

Nxb

Nhà xuất bản

PL

Phụ lục

TDTT

Thể dục thể thao

Tr

Trang

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT&DL

Văn hóa Thể thao và Du lịch

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và
“Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới” là những chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước đã và đang được chỉ đạo tổ chức thực hiện
trên phạm vi cả nước. Trong đó, nội dung xây dựng hoàn thiện các thiết chế
văn hóa, như nhà văn hóa xã có vị trí vô cùng quan trọng. Hiệu quả tổ chức
hoạt động của nhà văn hóa xã góp phần tuyên truyền cổ vũ nhân dân thực
hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, đồng thời,
giáo dục nâng cao nhận thức, tạo ra môi trường văn hoá lành mạnh, nâng cao
đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ở địa phương.
Trong hệ thống các nhà văn hóa, trung tâm văn hóa từ trung ương đến
cơ sở thì nhà văn hóa xã có vai trò đặc biệt. Chính tại nơi đây vừa tiếp nhận
sự chỉ đạo tổ chức hoạt động chuyên ngành của cơ quan chuyên môn cấp
trên, vừa là nơi, thông qua các hoạt động văn hóa để cụ thể hóa các định
hướng phát triển văn hóa ở cơ sở. Đồng thời, nhà văn hóa còn chịu trách
nhiệm phối hợp, hợp tác, giao lưu với các đơn vị liên quan trong và ngoài xã
để tổ chức các hoạt động trên lĩnh vực văn hoá quần chúng. Nhà văn hóa xã
được xác định là một trong những đơn vị sự nghiệp quan trọng của ngành
Văn hóa Thông tin và Du lịch góp phần phát triển sự nghiệp văn hóa, thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương.
Từ những chức năng và nhiệm vụ của mình cho thấy nhà văn hóa xã có
vai trò quan trọng trong việc tổ chức các sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Nhà văn hóa được thành lập, từ sự kế thừa và phát triển trên những cơ
sở lý luận cơ bản bắt nguồn từ chủ trương xây dựng hệ thống thiết chế câu lạc
bộ - nhà văn hóa phổ biến từ những thập niên 80 của thể kỷ XX.



5

Trong những năm qua cũng đã có những tài liệu nghiên cứu về tổ chức
hoạt động của các thiết chế nhà văn hóa, trung tâm văn hóa với qui mô lớn,
nhất là cấp huyện, quận và tỉnh thành.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở
lý luận khoa học và thực tiễn tổ chức hoạt động của nhà văn hóa xã nông thôn
mới, đặc biệt là nghiên cứu các tổ chức sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã.
Việc nghiên cứu thực tiễn hiệu quả hoạt động của nhà văn hóa xã nông thôn
mới thực sự cần thiết, bởi đây chính là địa điểm thu hút người dân đến tham gia
các hoạt động chính trị, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và vui chơi giải trí.
Trong số đó, các sinh hoạt cộng đồng dưới hình thức câu lạc bộ, hội,
nhóm ... đã hoạt động tích cực và đem lại hiệu quả xã hội cao, như: câu lạc bộ
thơ văn người cao tuổi; câu lạc bộ hát với nhau; câu lạc bộ xây dựng gia đình
hạnh phúc; câu lạc bộ trợ giúp pháp lý….,qua đó, thấy được tầm quan trọng
của sinh hoạt cộng đồng trong nhà văn hóa xã.
1.2. Trong những năm qua nhà văn hóa xã luôn giữ vai trò quan trọng
trong việc tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, phục vụ tốt
các nhiệm vụ chính trị và phát triển sự nghiệp văn hoá ở địa phương.
Thực tế đã cho thấy, nhà văn hóa xã hoạt động có hiệu quả, thu hút
được người dân đến đây sinh hoạt chủ yếu ở những nhà văn hóa xã nông thôn
mới. Vì ở đây được các cấp quan tâm hỗ trợ vật chất lẫn tinh thần, còn các
nhà văn hóa khác đang ngày càng bộc lộ rõ nhiều vấn đề hạn chế và bất cập.
Cho nên, việc nghiên cứu thực tiễn để bổ sung lý luận làm cơ sở đổi mới hoạt
động của nhà văn hóa xã là vấn đề cấp thiết.
Thực hiện đề án “Xây dựng nông thôn mới, nếp sống văn hóa khu dân
cư” ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, đến nay nhiều nhà văn hóa xã hoạt
động có hiệu quả, là nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng, các tổ chức hoạt động văn



6

hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao ngày càng phát triển. Trong đó có các nhà văn
hóa ở xã, thị trấn đạt chuẩn nông thôn mới. Từ những nhà văn hóa lạc hậu, nội
dung hoạt động nghèo nàn, chưa thu hút được người dân đến tham gia sinh hoạt
cộng đồng, nhưng từ khi có chủ trương xây dựng nông thôn mới, được sự quan
tâm và đầu tư trang bị cơ sở vật chất, nhờ đó góp phần phục vụ tốt nhiệm vụ
chính trị, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của người dân địa phương.
Xuất phát từ những lý do trên, Tác giả chọn đề tài “Nâng cao chất
lượng sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa các xã nông thôn mới ở huyện
Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa” để làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên
ngành Quản lý văn hóa.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
2.1. Các tài liệu nghiên cứu chung về quản lý nhà văn hóa
Một trong những tài liệu có giá trị, liên quan đến đề tài này là “Quản
lý hoạt động văn hóa” của nhóm tác giả Nguyễn Văn Hy, Phan Văn Tú,
Hoàng Sơn Cường, Lê Thị Hiền, Trần Thị Diên, do nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin và Trường Đại học Văn hóa Hà Nội xuất bản năm 1998. Trong
công trình này, các tác giả đã đề cập bốn vấn đề chính: Đại cương về quản lý
hoạt động văn hóa, các tác giả nêu ra khái niệm hoạt động văn hóa, quản lý và
quản lý hoạt động văn hóa, trong đó có nội dung quản lý các hoạt động đối
với các thiết chế văn hóa và quản lý các hoạt động giao lưu văn hóa của con
người trong xã hội; Chính sách quản lý hoạt động văn hóa, đó là việc hoạch
định thực hiện các chính sách văn hóa trong tương lai, những thể chế cơ bản
của chính sách văn hóa; Nội dung, các lĩnh vực quản lý hoạt động văn hóa và
cuối cùng là vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc quản lý các hoạt động văn
hóa nói chung, có phạm vi khá rộng bao gồm những hoạt động văn hóa của cá
nhân, những giá trị văn hóa tinh thần và bao gồm cả các cơ sở vật chất cho hoạt



7

động văn hóa, còn việc nghiên cứu sâu các thiết chế văn hóa cơ sở và quản lý
nhà nước đối với các thiết chế văn hóa cơ sở thì chưa được đề cập cụ thể.
Tài liệu thứ hai liên quan đến đề tài này là : “Đại cương công tác
nhà văn hóa”, của nhóm tác giả Trần Văn Ánh, Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn
Văn Hy, do nhà xuất bản Văn hoá Thông tin xuất bản tại Hà Nội, năm 2002.
Công trình này gồm bốn nội dung cơ bản: quản lý hoạt động văn hóa,
đã nêu ra khái niệm hoạt động văn hóa, quản lý và quản lý hoạt động văn hóa,
trong đó có việc quản lý các hoạt động đối với các thiết chế văn hóa và quản
lý các hoạt động giao lưu văn hóa của con người trong xã hội; Chính sách quản
lý hoạt động văn hóa, việc hoạch định thực hiện các chính sách văn hóa trong
tương lai, những thể chế cơ bản của chính sách văn hóa; Quản lý hoạt động văn
hóa hiện nay và Quản lý xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đề cập sâu về các
phương pháp hoạt động của các loại hình hoạt động của nhà văn hóa tại cơ sở.
Tài liệu thứ ba là “Kỷ yếu hội nghị, hội thảo nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở” của Cục Văn
hóa Cơ sở - Bộ VH, TT&DL tháng 10 năm 2011 [15].
Không như những tài liệu trên, chỉ đơn thuần nghiên cứu về các hoạt
động văn hóa, kỷ yếu này đã đề cập trực tiếp đến thiết chế văn hóa cơ sở . Các
bài tham luận đã xác định khái niệm thiết chế văn hóa cơ sở, phân cấp thiết
chế văn hóa gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh thành, quận huyện và cơ sở. Đồng
thời đưa ra giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống
thiết chế văn hóa cơ sở. Trong đó bao gồm 3 giải pháp chính là nâng cao nhân
lực, đảm bảo phát triển cơ sở vật chất và đẩy mạnh công tác phối hợp giữa các
đơn vị trong và ngoài ngành.
Tuy nhiên, các giải pháp đổi mới hoạt động đối với các thiết chế này thì
vẫn chưa sát hợp với từng cấp cụ thể, nhất là các sinh hoạt cộng đồng tại nhà

văn hóa xã trong điều kiện xây dựng nông thôn mới.


8

2.2. Các bài viết của địa phương về quản lý, tổ chức hoạt động nhà
văn hóa
Tại Hội thảo về “Nâng cao hiệu quả tổ chức, hoạt động Nhà văn hóa
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa năm 2017” có nhiều tham luận đề cập
đến vấn đề này.
Trong báo cáo đề dẫn của ban chủ trì Hội thảo nhấn mạnh: Việc xây
dựng Nhà văn hóa cộng đồng là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc tổ chức tốt các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tổ chức hội họp, tuyên truyền phổ
biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đóng góp
tích cực vào việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường khối đoàn kết
dân tộc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.
Tuy nhiên, qua khảo sát gần đây cho thấy, có khoảng 30% Nhà văn hóa
cộng đồng tổ chức tốt các hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, 70%
còn lại hoạt động trung bình yếu và không hoạt động. Nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng này là khi xây dựng Nhà văn hóa cộng đồng tại các thôn, buôn
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chưa tham khảo ý kiến người dân mà chỉ dựa
trên một mô hình có sẵn; nhiều Nhà văn hóa cộng đồng xây dựng trên một
diện tích nhỏ, dưới 120m2, không phù hợp phong tục, tập quán truyền thống
của đồng bào dân tộc thiểu số; hầu hết các Nhà văn hóa cộng đồng chưa chú
trọng việc trang bị cơ sở vật chất bên trong; thiếu sân bãi để tổ chức lễ hội;
một số Nhà văn hóa cộng đồng hiện chưa có người chuyên trách quản lý, bảo
vệ dẫn đến xuống cấp nghiêm trọng.
Tác giả Nguyễn Đạt trong Báo Thanh Hóa có bài viết về thiết chế văn hóa
ở các xã đạt chuẩn NTM, trong đó nhấn mạnh: Các xã đạt chuẩn NTM đều có

đầy đủ các công trình văn hóa theo quy định. Ngoài việc tu sửa, cải tạo, mở rộng
khuôn viên, một số địa phương còn đầu tư xây mới các công trình.


9

Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động lại không cao như kết quả đầu tư. Ví
như theo tìm hiểu của tác giả tại xã Yên Trường (Yên Định), mặc dù trung
tâm văn hóa xã được đầu tư khá hoành tráng và quy mô nhưng hầu như số lần
được sử dụng rất ít, chủ yếu chỉ mở cửa khi tổ chức các sự kiện lớn của xã
như đại hội thể dục thể thao và một vài hoạt động khác... còn hầu như chỉ
đóng cửa cả ngày.
Tác giả Cầm Bá Huyến, Trưởng phòng VHTT huyện Thường Xuân có
bài viết trên báo điện tử Thanh Hóa cho biết: Hầu như các NVH thôn ở các
xã đạt chuẩn NTM cơ bản đã đáp ứng được về diện tích cũng như trang thiết
bị ,nhưng đa số chỉ dùng để hội họp, rất ít khi tổ chức các hoạt động khác.
Mỗi quý NVH trung tâm xã mới tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ được
một lần. Nhiều NVH có tủ sách, báo song cũng không thu hút được người dân
nào đến mượn.
Báo cáo của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa trong phần
giải pháp nâng cao chất lượng quản lý các thiết chế văn hóa ở nhà văn hóa xã
đã đề nghị: Ngoài việc xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, việc
quy hoạch, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ cũng cần được quan tâm.
Nhà nước căn cứ vào nhu cầu thực tế của địa phương, căn cứ vào tiêu
chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ được quy định đối với từng cấp, lập
kế hoạch về nguồn nhân lực. Mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ văn hóa, thể
thao quần chúng cho cán bộ cấp xã, thôn, đào tạo và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động văn hóa, thể thao, sao cho
các hoạt động phải gắn với thực tiễn đời sống xã hội và nhu cầu của người

dân địa phương.
Đối với vùng đồng bào dân tộc, cần tổ chức các hoạt động văn hóa, thể
thao, vui chơi giải trí sao cho phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc, từng


10

vùng, miền, từng nhóm đối tượng người dân để thu hút người dân tham gia
các hoạt động...
Hiện nay, cái khó khăn lớn nhất trong hoạt động của NVH cộng đồng
là nguồn lực tài chính. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm
đi công năng của NVH cộng đồng cũng như kéo theo một loạt hệ lụy, yếu
kém khác. Do vậy cần thiết phải xây dựng và ban hành một nghị quyết
chuyên đề về NVH cộng đồng; trong đó cần bảo đảm các nội dung: quan
điểm sử dụng, kinh phí đầu tư xây dựng, kinh phí hoạt động thường xuyên
được phân bổ hằng năm và kinh phí phụ cấp cho ban chủ nhiệm, công tác tập
huấn chuyên môn nghiệp vụ cho ban chủ nhiệm và các cộng tác viên của
NVH cộng đồng...
Tác giả Đỗ Đình Tám - Trưởng phòng văn hóa - Thông tin huyện Thọ
Xuân có bài viết trên báo Thanh Hóa, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng
cao hoạt động của cả hệ thống thiết chế văn hóa [35]:
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động và phổ biến sâu
rộng chủ trương, chính sách về xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa - thể thao để
các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể nhân dân và mỗi
người dân có nhận thức đúng, đầy đủ về chủ trương xã hội hóa.
Khuyến khích các tổ chức, tập thể, cá nhân và nhân dân tại địa phương
tham gia đóng góp, tài trợ kinh phí để tổ chức hoạt động Nhà văn hóa – khu
thể thao thôn, khối phố phát huy công năng và hiệu quả cao nhất.
Các cấp, các ngành liên quan thường xuyên quan tâm mở các lớp đào
tạo, bồi dưỡng tập huấn nghiệp vụ cho những người trực tiếp tham gia quản lý

và tổ chức các hoạt động văn hóa - thể thao tại nhà văn hóa cộng đồng ở cơ sở
trên địa bàn toàn tỉnh.
Đẩy mạnh, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức các hoạt
động giao lưu, liên hoan, hội thi, hội diễn, các giải thi đấu thể dục thể thao


11

quần chúng các cấp nhằm thúc đẩy phong trào văn hóa, thể thao quần chúng
trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển.
Thực hiện định kỳ công tác kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo việc thực
hiện chính sách đạt hiệu quả. Công tác sơ kết, tổng kết, thi đua khen thưởng
và nhân rộng các điển hình tiên tiến.
Có các chính sách hỗ trợ hoạt động Nhà Văn hóa - Khu thể thao cộng
đồng trên địa bàn toàn tỉnh.
Nhìn chung, Các tài liệu được học viên đề cập ở trên chỉ mới trình bày
theo từng khía cạnh, từng lĩnh vực chuyên môn, liên quan đến quản lý văn
hóa, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống
về lý luận hoặc trường hợp cụ thể mang tính đặc thù địa phương về sinh hoạt
cộng đồng của người dân tại nhà văn hóa xã nông thôn mới.
Tuy vậy, các nguồn tài liệu trên là những tư liệu quý báu, giúp cho
người viết luận văn tham khảo, kế thừa để thực hiện đề tài, giúp cho việc hệ
thống hóa cơ sở lý luận và thực tiển sinh hoạt cộng đồng của người dân tại
nhà văn hóa xã, thông qua nghiên cứu trường hợp cụ thể tại nhà văn hóa các
xã nông thôn mới ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý, tổ chức các sinh hoạt cộng
đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn mới huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa và
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của các hoạt động này trong giai đoạn

hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa và
khái quát địa bàn nghiên cứu.


12

- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các sinh hoạt cộng đồng tại
nhà văn hóa xã nông thôn mới huyện Thọ Xuân hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sinh hoạt cộng đồng tại
nhà văn hóa xã nông thôn mới huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa các
xã đang xây dựng nông thôn mới ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Luận văn nghiên cứu về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn
hóa các xã nông thôn mới huyện Thọ Xuân.
Do điều kiện, Thọ Xuân là huyện trung du của tỉnh Thanh Hóa có địa
bàn khá rộng, tất cả nhà văn hóa đều chịu sự điều chỉnh chung của quy chế
hoạt động do Nhà nước ban hành và chi phối của 19 tiêu chí xây dựng xã
nông thôn mới phổ biến trên phạm vi toàn huyện. Vì vậy, tác giả chọn nhà
văn hóa một số xã đã xây dựng và hoàn thành chương trình nông thôn mới
của huyện làm trường hợp nghiên cứu cụ thể như xã Xuân Trường, xã Xuân
Thành, xã Bắc Lương, xã Xuân Lập,....
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 đến nay (từ khi có chủ trương chỉ
đạo của Nhà nước thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nhà
văn hóa xã nông thôn mới).
- Nội dung vấn đề nghiên cứu:

Nghiên cứu những dạng thức của sinh hoạt cộng đồng gắn với điều
kiện nhà văn hóa xã, các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung và hình thức hoạt
động nhà văn hóa xã và sự tác động của sinh hoạt cộng đồng đến đời sống văn


13

hóa của người dân từ khi xây dựng nông thôn mới đến nay ở huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Đề xuất giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng
hoạt động của nhà văn hóa xã, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sinh hoạt của
cộng đồng trong điều kiện xây dựng nông thôn mới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đây là đề tài thuộc chuyên ngành quản lý văn hóa song nghiêng về
hướng ứng dụng, do vậy học viên vận dụng cách tiếp cận khoa học liên
ngành: sử học, xã hội học, văn hóa học và quản lý văn hóa trong nghiên cứu
đối tượng theo phạm vi của đề tài.
Bên cạnh đó, người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá các tài liệu đã
nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điền dã, khảo sát thực tế, phỏng vấn các cán bộ quản lý
văn hóa của huyện, xã, cán bộ và người dân tại địa bàn xã. Nhất là phỏng vấn
sâu về sinh hoạt cộng đồng thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí, văn
hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ở các nhóm, các câu lạc bộ tại nhà văn hóa xã,
để thấy được hiệu quả của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới đối với đời sống cộng đồng của người dân.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về khoa học
Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa
xã nông thôn mới tại huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu của
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo, cung cấp thông tin cho việc nghiên cứu và trợ

giúp các nhà quản lý văn hóa - xã hội hoạch định các chính sách văn hóa, đề ra
định hướng và chỉ đạo đối với hoạt động nhà văn hóa xã nông thôn mới.


14

Điểm mới của đề tài là góp phần khảng định Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới là hết sức cần thiết vầ quan trọng đối với hoạt
động nhà văn hóa xã, đề ra những phương pháp hoạt động phù hợp để nâng cao
vai trò, vị trí của nhà văn hóa xã trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.
6.2. Về thực tiễn
Luận văn sẽ góp phần ứng dụng vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa xã nông thôn mới ở Thọ Xuân cũng như
các huyện khác của tỉnh Thanh Hóa và có thể ứng dụng vào việc tổ chức hoạt
động của các nhà văn hóa xã trong phạm vi cả nước hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa và
khái quát về nhà văn hóa các xã nông thôn mới ở huyện Thọ Xuân
Chương 2: Thực trạng quản lý và tổ chức sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn
hóa các xã nông thôn mới ở huyện Thọ Xuân
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao hiệu quả sinh
hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa các xã nông thôn mới ở huyện Thọ Xuân.


15

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG TẠI NHÀ VĂN HÓA

VÀ KHÁI QUÁT VỀ NHÀ VĂN HÓA CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN THỌ XUÂN
1.1. Cơ sở lý luận về sinh hoạt cộng đồng tại nhà văn hóa
1.1.1. Các khái niệm liên quan đề tài
1.1.1.1. Quản lý văn hóa
* Quản lý văn hóa là khái niệm được ghép bởi hai thuật ngữ là quản lý
và văn hóa
Quản lý là một khoa học dựa trên những cơ sở vận dụng những quy
luật phát triển của các đối tượng khác nhau nhưng đồng thời quản lý cũng là
một nghệ thuật. Ở các nước phương Tây theo ngôn ngữ Latinh cổ đại, khái
niệm quản lý “Manus” có ý nghĩa là bàn tay, cũng như thực hiện quản lý là
“Nắm trong bàn tay”. Theo nghĩa của chữ Hán thì quản lý là sắp xếp, xử lý và
chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, trông nom...
Vì thế quản lý xã hội là sự tác động đến xã hội nhằm mục đích để duy
trì những đặc điểm về chất để điều chỉnh, hoàn thiện cũng như phát triển các
đặc điểm đó. Các hình thức quản lý luôn có ý thức gắn liền với những hoạt
động có mục tiêu, có kế hoạch của những tập thể lớn hay nhỏ của con người
thực hiện thông qua thể chế xã hội và mục đích, nôi dung, cơ chế quản lý và
phương pháp quản lý các hiện tượng xã hội tùy thuộc vào thể chế và chế độ
chính trị.
Quản lý hoạt động xã hội nhằm tác động có tổ chức của chủ thể vào
một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của
con người nhằm duy trì sự ổn định và phát triễn của đối tượng theo những
mục đích nhất định.


16

Văn hóa là khái niệm đa nghĩa. Tuy nhiên từ góc độ tiếp cận về quản
lý, có thể dễ dàng nhận thấy hai yếu tố quan trọng khi đề cập tới khái niệm

văn hóa, đó là: hoạt động văn hóa và giá trị văn hóa. Trong quản lý văn hóa,
cách tiếp cận này giúp phân loại các vấn đề cần quản lý có tính hệ thống và
hoạt động quản lý sẽ cụ thể, hiệu quả hơn.
Xét về phương diện thao tác thực hành thì trong quản lý hoạt động văn
hóa cũng phân biệt hai hình thức quản lý khác nhau đó là quản lý nhà nước và
quản lý sự nghiệp đối với các hoạt động văn hóa.
Quản lý nhà nước thuộc chức trách của nhà nước (Chính phủ, Bộ,
UBND các cấp, Sở, Phòng) thông qua các thể chế, luật, chính sách và kế
hoạch nhà nước...
Quản lý sự nghiệp văn hóa là quản lý về phương diện chuyên môn theo
từng chuyên ngành của hoạt động văn hóa. Phương diện quản lý này thuộc
trách nhiệm, chức trách của từng hệ thống thiết chế chuyên ngành thông qua
việc xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động, các biện pháp chỉ đạo, hướng
dẫn của hệ thống thiết chế văn hóa ở các cấp. Với tư cách là một mặt của hoạt
động quản lý trên các lĩnh vực, công cụ quản lý nhà nước đối với văn hóa,
trong điều kiện xã hội ở nước ta quản lý nhà nước đối với văn hóa cũng bao
gồm các bộ phận chuyên trách trực thuộc các cơ quan theo sự phân cấp của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Theo tác giả luận văn thì, quản lý văn hóa là việc chủ thể quản lý tiến
hành lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, điều khiển vận hành và thanh kiểm tra
nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con người.
Đó là là sự huy động, tổ chức và điều hành các nguồn lực để đạt được mục tiêu
văn hóa đã xác định trước.
* Quản lý văn hóa cơ sở và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
Cơ sở được quan niệm như một địa điểm, địa chỉ, tụ điểm, trung tâm
diễn ra một loại hình hoạt động nào đó về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội:


17


như cơ sở hoạt động cách mạng, cơ sở dạy nghề, cơ sở văn hóa, cơ sở y tế, cơ
sở đảng, công đoàn, đoàn thanh niên…
Cơ sở là một tổ chức, một địa điểm cụ thể gắn với đơn vị hành chính
cơ bản hoặc một đơn vị, cơ quan cụ thể của một tổ chức nhất định. Do vậy, cơ
sở hành chính hoặc mang tính hành chính và đơn vị cơ sở thể hiện ra 4 loại
như sau:
Các đơn vị hành chính, xã phường, thị trấn.
Các cơ quan, tổ chức hành chính sự nghiệp.
Các đơn vị, tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Các đơn vị lực lượng vũ trang.
Tuy nhiên, trên thực tế khaí niệm cơ sở được áp dụng với các nhóm
nhỏ hơn đơn vị hành chính, cho nên văn hóa cơ sở là khái niệm cũng sẽ được
áp dụng với các đối tượng nhỏ hơn đơn vị hành chính tùy theo tính chất và
thành phần của mỗi nhóm cộng đồng.
Đối với công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở thì phạm vi của đơn
vị cơ sở ở đây được quan niệm là những địa bàn dân cư, đơn vị hành chính, tổ
chức chính trị, xã hội… Lâu nay, ngành văn hóa chúng ta thường tập trung
chú ý nhiều vào việc xây dựng đời sống văn hóa trên các địa bàn dân cư (theo
phân cấp hành chính). Do vậy về mặt lý luận và phương pháp công tác cũng
chủ yếu nói đến việc xây dựng đời sống văn hóa theo địa bàn dân cư.
Quản lý hoạt động văn hóa cơ sở là sự tác động có định hướng của chủ
thể quản lý, đảm bảo cho các hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao ở
cơ sở phát triển lành mạnh, làm cho các chương trình, kế hoạch công tác văn
hóa đặt ra được thực hiện tốt nhất.
Công tác quản lý văn hóa ở cơ sở phải xây dựng, đồng thời ngăn ngừa,
nghiêm cấm theo quy chế và hướng dẫn của Nhà nước và khi cần có thể xử


18


phạt theo pháp luật hiện hành đối với các sản phẩm, hiện tượng phi văn hóa
xẩy ra ở cơ sở như phim, ảnh, sách, báo, băng nhạc có nội dung dâm ô, kích
động bạo lực, chia rẽ đoàn kết, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng,
Chính phủ và gieo rắc mê tín dị đoan…
Theo tác giả luận văn, quản lý văn hóa cở sở thực chất là xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở và được hiểu theo 02 nghĩa: Nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở theo nghĩa rộng là xây dựng toàn bộ
cuộc sống kinh tế - xã hội trên một quê hương, một bản làng, một xóm ấp, một
khu dân cư ở đô thị…Đó là phát triển dân sinh, dân trí và dân chủ mà văn hóa
thực hiện vai trò vừa là nền tảng, vừa là mục tiêu và động lực phát triển xã hội.
Theo nghĩa hẹp là tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin nhằm thỏa
mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa thường xuyên của quần chúng ở cơ sở, góp
phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1.1.2. Sinh hoạt cộng đồng
Sinh hoạt là những hoạt động thuộc về đời sống hằng ngày của một
người hay một cộng đồng người, bao gồm sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh
thần, như sinh hoạt gia đình; sinh hoạt tập thể của một tổ chức; sinh hoạt câu
lạc bộ; sinh hoạt đoàn thanh niên … Từ sinh hoạt còn dùng để chỉ những hoạt
động có tính chất liên kết giữa cá thể (thành viên) và tập thể (cộng đồng)
trong xã hội người.
Trong đời sống con người, nội hàm khái niệm sinh hoạt còn có nghĩa là
sự thiết lập các mối quan hệ để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần.
Những giá trị đó được sàng lọc, tích hợp qua nhiều năm tháng và trở thành tài
sản văn hóa chung của một cộng đồng.
Từ khái niệm “sinh hoạt” đã tạo ra khái niệm “sinh hoạt cộng đồng”
trong các hoạt động sáng tạo, giao lưu và giải trí văn hóa.


19


Như vậy, sinh hoạt cộng đồng là những hoạt động sống của con người
trên cả 2 phương diện vật chất và tinh thần. Những hoạt động này trong khuôn
khổ của nhà văn hóa ở cơ sở là những hoạt động nhằm hướng đến sự liên kết
của một nhóm người có cùng mục đích, nhu cầu; họ hoạt động để thỏa mãn
nhu cầu giáo dục, giao lưu, sáng tạo và thưởng thức những sản phẩm văn hóa
do chính họ làm ra hay những sản phẩm văn hóa từ những cộng đồng khác.
Từ khái niệm “sinh hoạt cộng đồng” dẫn đến một nội dung liên quan ở
góc độ quản lý đó là “công tác tổ chức sinh hoạt cộng đồng”. Đây là loại hoạt
động đòi hỏi rất nhiều thiện chí và sự kiên nhẫn, bởi vì một khi đã gọi là “việc
chùa” thì mọi hoạt động đều được dựa trên sự tình nguyện và tự giác của mỗi
người. Trong những công việc này, những người tham gia thực hiện thường
không nhận được một thù lao vật chất nào, nên việc theo dõi, đôn đốc nếu
không chuẩn bị trước và có sự khéo léo trong việc điều động sẽ gặp rất nhiều
khó khăn. Một số các kỹ năng sinh hoạt cần rèn luyện là kỹ năng về tổ chức,
vận động, thuyết phục, lề lối làm việc khoa học và hữu hiệu và một tinh thần
làm việc tập thể theo nguyên tắc sinh hoạt dân chủ.
1.1.1.3. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hoá là cụm từ mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào
những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Tiền thân của cụm từ này là cụm từ đời
sống mới, tiêu đề của bài viết dưới dạng hỏi - đáp, công bố năm 1947, tác giả
Tân Sinh, một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đời sống văn hóa có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động của con người
tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội để hướng con
người vươn lên theo qui luật của cái đúng, cái đẹp, cái tốt, của chuẩn mực giá trị
chân, thiện, mĩ, đào thải những biểu hiện tiêu cực tha hoá con người.
Đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các hoạt
động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là quá trình


20


các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu được tác động vào đời sống vật chất
để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân văn, làm
ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động vào đời sống tinh thần
để con người thỏa mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng các yêu cầu về tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội để xây dựng một hệ
thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính bản thân đời sống cá
nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho cá nhân phương thức lựa
chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời mình.
Theo quan niệm của tác giả luận văn, thì đời sống văn hoá chính là tổng
thể sống động các hoạt động văn hoá trong quá trình sáng tạo (sản xuất), bảo
quản, phổ biến, tiêu dùng các sản phẩm văn hoá và sự giao lưu văn hoá, nhằm
thoả mãn nhu cầu văn hoá của một cộng đồng.
Đó là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong môi
trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo các sản phẩm văn hóa vật chất, văn
hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không
ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng
cao chất lượng sống của chính con người. Cấu trúc của đời sống văn hóa bao
gồm: Chủ thể văn hóa, quan hệ văn hóa, hoạt động văn hóa, giá trị văn hóa,
các thiết chế và cảnh quan văn hóa.
1.1.1.4. Nhà văn hóa
Nhà văn hóa là một thiết chế văn hóa nằm trong hệ thống của thiết chế
văn hóa phục vụ nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa của nhân dân. Có nhiều
cách gọi, cách hiểu khác nhau về nhà văn hóa: Nhà văn hóa, Cung văn hóa,
nhà, Trung tâm văn hóa, Trung tâm văn hóa thanh thiếu nhi, Cung thiếu nhi...
Nhưng dù đã được đặt tên và có nhiều danh xưng, quan niệm hay quy
mô, cấp độ khác nhau như vậy nhưng gọi thế nào thì chúng đều có vai trò
giống nhau.



21

Nghĩa của thuật ngữ NVH được phân tích trong cuốn Đại từ điển Tiếng
Việt là “nơi tổ chức sinh hoạt văn hóa cho đông đảo quần chúng” [45, tr.1228].
Thuật ngữ NVH được khái niệm trên báo điện tử:
NVH là cơ quan giáo dục ngoài nhà trường có sử dụng các biện
pháp, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ để thu hút đông đảo
quần chúng đến tham gia các hoạt động văn hóa xã hội trong thời
gian rỗi để bồi dưỡng, hoàn thiện và phát triển nhân cách; để thỏa
mãn nhu cầu tinh thần của quần chúng [41, tr.2].
Do có nhiều cách hiểu, cách gọi, tên gọi khác nhau, nhưng nếu hiểu
đúng bản chất và ý nghĩa của nó theo tác giả luận văn thì: “Nhà văn hóa là
thiết chế văn hóa của lĩnh vực công tác văn hóa quần chúng ở từng cấp. Là
nơi diễn ra các hoạt động tổng hợp của nhiều loại hình hoạt động văn hóa
quần chúng. Tùy theo chu kỳ thời gian và nhu cầu sở thích văn hóa, văn nghệ,
thể thao vui chơi giải trí của quần chúng nhân dân trên từng địa bàn”.
Xét về nội hàm, NVH được biểu hiện dưới các góc độ:
- NVH là một tên gọi chung cơ bản, đại diện cho lĩnh vực hoạt động
văn hóa mang tính quần chúng. Là địa điểm tập trung sinh hoạt văn hóa cộng
đồng, nơi vui chơi, giải trí, là nơi để mọi người giao lưu, tiếp xúc với nhau vì
một nhu cầu, sở thích nào đó.
- NVH được hiểu là cơ quan giáo dục ngoài nhà trường và có những
điểm khác biệt, đặc thù so với cơ quan giáo dục trong nhà trường, sự khác biệt
thể hiện ở đối tượng tham gia các hoạt động tại NVH rất đa dạng về lứa tuổi;
trình độ học vấn; mục đích tham gia; không có tính bắt buộc hoặc tính bắt
buộc không cao; hoạt động linh hoạt theo yêu cầu sở thích; đa dạng về hình
thức và nội dung hoạt động. Thông qua các hoạt động sẽ phát hiện, bồi
dưỡng, đào tạo các nhân tố có khả năng, năng khiếu trong hoạt động văn hóa,



22

văn nghệ, TDTT, tiêu chí cuối cùng là hoàn thiện nhân cách con người cả về
Đức, Trí, Thể, Mỹ và năng lực hành vi thực tiễn của con người trong cuộc
sống để hướng tới giá trị Chân -Thiện - Mỹ.
- Các hoạt động tại NVH thường vào thời gian rỗi - thời gian con người
không lệ thuộc vào bất kỳ hoạt động sinh tồn nào, không lệ thuộc vào bất kỳ
bổn phận nào. Mác từng nói: “Thời gian rỗi không chỉ dành cho nghe nhạc,
xem phim, các trò chơi giải trí mà con người dành cho sự phát triển trí tuệ,
cho việc tăng cường sức khỏe, phát triển năng lực của bản thân. Bản chất của
hoạt động rỗi là sáng tạo, thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần, bổ sung nâng
cao chất lượng hoạt động tất yếu”.
- NVH có nhiệm vụ chuyển tải những giá trị tinh hoa nghệ thuật của
dân tộc và nhân loại cho nhân dân hưởng thụ, đồng thời tạo mọi điều kiện
thuận lợi để quần chúng nhân dân tạo ra các giá trị văn hóa nghệ thuật
(VNHT); nơi gìn giữ, bảo lưu, xây dựng các nền văn hóa dân chủ mới, đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa của nhân dân.
- NVH là tên gọi được quy định trong văn bản pháp quy của nhà nước
nhằm mục đích thống nhất trong tổ chức, quản lý và thực thi các chính sách.
Nhưng thực tế, tên gọi này được sử dụng khá đa dạng, cách gọi phụ thuộc rất
nhiều vào đặc điểm địa lý, văn hóa truyền thống của từng vùng, miền, nhưng
không làm mất đi những giá trị cốt lõi, mục đích chung của nó. Ví dụ, bà con
nhân dân các dân tộc Tây Nguyên gọi NVH là nhà Rông, ở khu vực Tây Bắc
gọi là nhà sàn cộng đồng, có nơi gọi là trung tâm văn hóa thôn, bản.
1.1.1.5. Nông thôn mới, văn hóa nông thôn
Nông thôn là phần lãnh thổ của một nước hay của một đơn vị hành chính
nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều
kiện sống khác biệt với thành thị và dân cư chủ yếu làm nông nghiệp.



23

Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ
Việt Nam, ở đó người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Ở Việt Nam
cho đến nay vẫn có hơn 60 % dân số sống ở vùng nông thôn. Chính vì vậy mà
cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn xã hội.
Khái niệm nông thôn được thống nhất với quy định tại Thông tư số
54/2009/TT - BNNPTNT ngày 21 - 8 - 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới:
“nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,
thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” [7, tr.2]
Nông thôn mới được hiểu là nông thôn phải có kinh tế phát triển, đời sống
vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; phát triển theo quy
hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; an ninh
tốt, quản lý dân chủ; chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao.
Xã hội nông thôn mới chính là xã hội mà trong đó đời sống vật chất,
văn hóa, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao theo hướng tiên
tiến, hiện đại, văn minh. Bản chất và tính chất của nông thôn mới chính là sự
phát triển toàn diện, trong đó có văn hóa. Hiểu theo cách đó có thể quan niệm
“văn hóa nông thôn mới” chính là hệ thống các giá trị vật chất, tinh thần do
con người nông thôn tạo nên trong sự tương tác với xã hội nông thôn mới.
Nông thôn mới là xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo
hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng,
hiệu quả, khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực
quốc gia trước mắt và lâu dài.
Nông thôn mới là xây dựng dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp



×