Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LV Thạc sỹ_giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chăm pa sắc nước CHDCND Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 99 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết lựa chọn đề tài nghiên cứu
Tỉnh Chăm pa sắc nằm trên trục đường bộ xuyên Á, do đó có nhiều điều
kiện về tự nhiên, văn hoá, xã hội thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội
và có nhiều cơ hội để mở rộng mối quan hệ thương mại cả trong và ngoài
nước.
Hoà nhịp với sự phát triển ngành kinh tế tỉnh nhà nói chung, các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của tỉnh đã khẳng định được vị thế của mình
từ chỗ có rất ít mặt hàng, hiện nay đã chủ động sản xuất, chế biến và xuất
khẩu nhiều mặt hàng nông sản. Các doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu bằng
vốn vay ngân hàng nên lãi suất ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí
kinh doanh. Điều đó làm cho chi phí kinh doanh tăng lên, hiệu quả thấp. Mặt
khác, tỉnh Chămpasắc là tỉnh có nhiều tiềm năng để khai thác và chế biến các
mặt hàng nông sản để xuất khẩu. Tuy nhiên, do nhiều lý do, đến nay các tiềm
năng do chưa được khai thác một cách hợp lý, chưa tạo được nhiều việc làm
cho người lao động, làm tăng thu nhập của người dân trong tỉnh...
Với tính cấp thiết và những nhận xét nói trên. Sau một thời gian tìm hiểu
thực tế về xuất khẩu hàng nông sản của tỉnh, tôi chọn đề tài nghiên cứu của
mình là: "Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Chăm pa sắc nước CHDCND Lào" làm luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ quản trị kinh doanh.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản.
- Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của tỉnh Chăm pa sắc.
- Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của tỉnh
Chăm pa sắc.


2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề xuất khẩu hàng nông sản của
tỉnh Chămpasắc CHDCND Lào.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian nghiên cứu: Xuất khẩu hàng nông sản của tỉnh
Chămpasắc.
+ Về thời gian: Số liệu và tình hình được khảo sát, tính toán và phân tích
từ năm 2006 - 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
là: phương pháp thu thập, tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh và phân tích kinh tế.
5. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về thúc đẩy xuất khẩu hàng
nông sản.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của
tỉnh Chăm pa sắc, từ đó tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân
hạn chế của thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của tỉnh.
- Đưa ra hệ thống giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
của tỉnh Chăm pa sắc.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Chăm pa sắc.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Chăm pa sắc.



3

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN

1.1. Một số lý thuyết thương mại quốc tế
1.1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế
Theo từ điển tiếng Việt của trung tâm KHXH&NV quốc gia(NXB
Văn hoá Sài Gòn) thì “nông sản” là sản phẩm do ngành nông nghiệp sản
xuất ra như: Gạo, rau, café, cao su… “Hàng hoá” là thứ sản phẩm do
người lao động làm ra để bán trên thị trường. Vì vậy khi nông sản xuất ra
để đưa ra bán trên thị trường thì được gọi là “hàng hoá nông sản”. Mặt
khác nông sản xuất ra bao gồm rất nhiều loại khác nhau không chỉ sử
dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất mà còn được bán
ra thị trường để thoả mãn thiêu dùng của xã hội thì gọi là nông sản hoá.
Như vậy “hàng hoá nông sản chung một bản chất là nông sản xuất ra và
được bán trên thị trường để thoả mãn nhu cầu của xã hội xuất khẩu hàng
hoá nông sản là một hoạt động kinh doanh hàng hoá nông sản ở phạm vi
kinh doanh quốc tế, đây là lĩnh vựa sôi động trong nền kinh tế hiện nay.
Kinh doanh xuất khẩu nông sản là mối quan hệ trao đổi hàng hoá nông
sản của quốc gia này với quốc gia trên toàn thế giới. Hoạt động xuất khẩu
nông sản mang lại nhưng hiệu quả kinh tế cao, như nó cũng có những khó
khăn không thể lường trước được. Vì nó phải đối đầu với một hệ thống
kinh tế bên ngoài và các quốc gia cũng xuất khẩu hàng hoá nông sản.
Như vậy, “thúc đẩy hàng xuất khẩu nông sản là làm tăng hoạt động
trao đổi mua bán hàng hoá nông sản với nước ngoài được hình thức mua
bán trong quan hệ hàng hoá tiền tệ nhằm tăng mục tính lợi nhuận”.



4

1.1.2. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế
1.1.2.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Adam Smith cho rằng thương mại giữa hai quốc gia được dựa trên
cơ sở lợi thế tuyệt đối. Khi một quốc gia sản xuất hàng hoá có hiệu quả
hơn so với quốc gia khác nhưng kém hiệu quả hơn trong sản xuất hàng
hoá thứ hai, hai quốc gia có thể thu được lợi ích bằng cách mỗi quốc gia
chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá họ có lợi thế tuyệt đối,
nhập khẩu hàng hoá họ không có lợi thế
1.1.2.2. Lý thuyết lợi thế tương đối
Năm 1817 David Ricardo dựa vào học thuyết lợi thế tuyệt đối của
Adam Smith để phát triển học thuyết lợi thế tương đối Ricardo lập luận
rằng lợi ích thương mại vẫn xảy ra ở quốc gia chuyên về các sản phẩm
mà nó có thể sản xuất có hiệu quả hơn các sản phẩm khác bất kể nó lợi
thết tuyệt đối về những sản phẩm này.
1.1.2.3. Lý thuyết mậu dịch đường biển
Hiện nay, tồn tại một lý thuyết về mậu dịch đường biển giữa quốc
gia trong khu vực và quốc tế. Đường biển giữa các quốc gia là sự giao
thông kinh tế giữa các quốc gia đó và tất yêu tồn tại một khu vực mậu
dịch đường biển
Trong khu vực đường biển tồn tại và phát triển chủ yếu là mô hình
thương mại bán lẻ
1.1.2.4. Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi quá trình tạo giá trị toàn cầu xét một cách cơ bản có ba phân
khúc: Nghiên cứu và phát triển sở hữu trí tuệ sản xuất xây dựng thương
hiệu và thương mại. Trong đó hai phân khúc đầu và cuối tạo ra ra nhiều


5


giá trị gia tăng hơn hẳn phân khúc giữa. Đó là các phân khúc mà các
đường quốc gia đang nắm giữa và bỏ lại các phân khúc phải làm nhiều
nhưng không tạo ra nhiều giá trị cho các nước đang phát triển
1.2. Các phương thức xuất khẩu hàng nông sản và vai trò của nhà
nước trong xuất khẩu hàng nông sản
1.2.1. Các phương thức xuất khẩu hàng nông sản
a. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá do chính doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc đặt mua từ các đơn vị sản xuất kinh doanh khác ở
trong nước, sau đó xuất khẩu những mặt hàng này ra nước ngoài với danh
nghĩa là hàng hoá của doanh nghiệp mình
b. Xuất khẩu uỷ thác và gián tiếp
Hình thức xuất khẩu này là qua các trung gian có thể thông qua dịch
vụ của một nhà buôn trung gian có khả năng tìm kiếm các thị trường và
các thị trường ở nước ngoài để tìm đầu ra cho sản phẩm của mình
c. Buôn bán đối lưu – hàng đổi bán
Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu trang thiết bị máy móc chế biến. phụ tùng phương tiện phục vụ
sản xuất….Doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá cũng đồng thời là doanh nghiệp
nhập khẩu sản phẩm hàng hoá tráo đổi có giá trị tương đương.
d. Xuất khẩu hàng hoá theo nghị định thư giữa hai chính phủ
Là hình thức xuất khẩu hàng háo được ký theo nghị định thư giữa hai
chính phủ. Xuất khẩu hàng hoá theo hình thức này có nhiều ưu đãi như
khả năng thanh toán chắc chắn, giá cả hàng hoá chấp nhận được doanh
nghiệp sản xuất chế biến không phải lo nghĩ về đầu ra cho hàng hoá của
mình …


6


e. Xuất khẩu hàng hoá tại chỗ
Với phương thức xuất khẩu này cần phải tìm những khách hàng mua
nội địa có nhiều khách hàng trong nước mua hàng để xuất khẩu ra nước
ngoài. Đây có thể là một thị trường rộng lớn cho nhiều loại hàng hoá và
dịch vụ. Tuy nhiên, sau khi bán sản phẩm thì những công việc tiếp theo
năm ngoài vòng kiểm soát của doanh nghiệp bán ra lúc đầu. Nhưng
thường vụ này khó phân biệt với các thương vụ nội địa.
1.2.2. Vai trò của Nhà nước trong xuất khẩu hàng nông sản
Vài trò của nhà nước trong xuất khẩu hàng nông sản được thể hiện ở
một số mặt sau:
1. Xác định mục tiêu phương hướng và chủ trương chính sách xuất
khẩu hàng nông sản
Trên cơ sở tổng kết đánh giá toàn diện tình hình kinh tế chính trị xã
hội và tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xác hội trong giai
đoạn vừa qua, Đảng và Nhà nước cần đề ra mục tiêu, phương hướng phát
triển kinh tế văn hoá và các hoạt động khác trong thời gian tới. Đó là các
mục tiêu về tốc độ tăng trưởng GDP về giá trị sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp xây dựng dịch vụ trong đó các mục tiêu xuất khẩu hàng hoá
2. Xây dựng chiến lược và quy hoạch sản xuất, xuất khẩu
Trên cơ sở quan điểm, phương hướng và mục tiêu để ra các cơ
quan nhà nước cần xây dựng quy hoạch chiến lược sản xuất xuất khẩu của
địa phương mình nhằm phát huy cao độ lợi thế của địa phương. Sử dụng
sức mạnh tổng hợp cảu các thành phần kinh tế các đơn vị trên địa bàn
phát triển sản xuất gia tăng xuất khẩu chủ động nhập thành công. Trong
chiến lược, chương trình xuất khẩu thường xác định các lợi thế của địa
phương mình và các mặt hàng chủ lực có khả năng cạnh tranh trong xuất
khẩu. Trên cơ sở kết quả khảo sát xác định nhóm hàng xuất khẩu



7

3. Tổ chức các đầu mối xuất khẩu và điều hành xuất khẩu
Chuyển sang cơ sở chế biến quản lý kinh tế mới các đơn vị sản xuất
dù nhiều hay ít đều được trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình chế tạo ra
và được nhập khẩu nguyên nhân vật liệu cho sản xuất. Công tác tổ chức
đầu mối xuất khẩu thông qua xét duyệt đăng ký kinh doanh xuất nhập
khẩu của các doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu quan trọng của quốc gia.
Trong quá trình đầu tư hỗ trợ hoạt động xúc tiến xuất khẩu đẻ định hướng
mặt hàng và tổ chức xuất khẩu
4. Thực hiện các biện pháp xúc tiến hỗ trợ đầy mạnh xuất khẩu
thông qua các cơ quan tổ chức các hiệp hội nhà nước tạo lập đầu mối giao
tiếp để thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu
tổ chức hội thảo hội chợ triển lãm quảng cáo và giới thiệu sản phẩm cho
các đối tác nước ngoài, triển khai các quỹ hỗ trợ xuất khẩu quỹ bảo hiểm
xuất khẩu quỹ thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp mở rộng ra thị
trường tìm kiếm khách hàng đẩy mạnh xuất khẩu
5. Đào taọ phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất kinh
doanh xuất khẩu hàng nông sản
Nhà nước có vai trò quan trọng trong đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực cho sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản. Nhà nước cần
có chiến lược quy hoạch kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
bao gồm nhân lực cho nghiên cứu giống, canh tác nhân lực cho chế biến
hàng nông sản cho xuất khẩu, nhân lực cho kinh doanh xuất khẩu hàng
nông sản
6. Đầu tư nghiên cứu giống cải tạo cây trồng canh tác chế biến sau
thu hoạch nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong đầu tư nghiên cứu phát
triển giống cây trồng, kỹ năng canh tác. Đối với CHDCND Lào thì việc



8

đầu tư cho giống cây trồng và kỹ năng canh tác hết sức quan trong bởi
chất lượng giống sản phẩm nông sản của Lào còn thấp, kỹ năng canh tác
còn lạc hậu.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong đầu tư cho công nghệ sau
thu hoạch nâng cao giá trị của hàng nông sản xuất khẩu. Thực tế cho thấy
công nghệ sau thu hoạch đóng vai trò hết sức quan trọng đảm bảo chất
lượng của hàng hoá nông sản xuất khẩu.
1.3. Thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
CHDCND Lào nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh
tế với các nước trong khu vực trong bối cảnh đó chính sách thị trường của
Lào là cùng trung xu hướng của các nước khu vực. Một trong những đối
sách kinh tế chính của chính phủ Lào là định hướng thị trường hường
ngoài phù hợp. Trước hết nhằm vào khu vực Châu á kết hợp với hướng
nội nhằm thoả mãn nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
1.3.1.1. Các yếu tố khách quan
- Kinh tế thế giới hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ không khí
hợp tác kinh tế và đầu tư có xu hướng phát triển không ngừng giữa các nước
trong khu vực và toàn thế giới. Cộng với tình huống tự do hợp tác kinh tế
“kinh tế hội nhập” trên toàn cầu trong khuôn khổ của tổ chức thương mại
quốc tế.
CHDCND Lào được các tổ chức quốc tế và các nước phát triển tích
cực hỗ trợ và tài trợ.
CHDCND Lào và tỉnh Shampasac có vị trí địa lý rất thuận lợi và
trung tâm nối liền giữa đông và tây cho các nước trong khu vực và các
nước ven sông Mêkông.



9

- Sự tiến bộ về công nghệ kỹ thuật và thông tin của thế giới giúp
thúc đẩy sự hiểu biết về thông tin sản xuất và thị trường rộng hơn.
Chính sách và các chủ trương của Đảng và Nhà nước Lào
- Thực hiện chính sách mở rộng kinh tế Nhà nước Lào đã và đang
chủ trương đa dạng hoá thành phần kinh tế tự do buôn bán xuất khẩu dưới
pháp luật. Yếu tố cạnh tranh kinh doanh giữa các doanh nghiệp đã buộc
các doanh nghiệp phải tự nhậy bén linh hoạt với thị trường. Trong cơ chế
cũ các hợp đồng ngoại thương được cấp trên duyệt theo kế hoạch và giao
cho cấp dưới chỉ đạo đúng theo kế hoạch đó. Hiện nay các doanh nghiệp
được tự do giao dịch và đàm phán kinh tế, tự tìm kiếm bằng hoạt động
Marketting. Do đó, các doanh nghiệp năng động tìm kiếm đối tác trong và
ngoài nước một cách tích cực hơn các bộ luật điều chỉnh các quan hệ
trong thương mại phù hợp với luật thương mại quốc tế do là những điều
luật nhà nước quy định sẽ có tác động khuyến khích hoặc hạn chế hoạt
động xuất nhập khẩu thông qua hàng rào thuế với các mức hạn chế cụ thể
Giá cả hàng nông sản và dịch vụ thương mại
- Thực tế hiện nay: hàng xuất khẩu của Lào chưa có sự cạnh tranh
về giá nguyên phụ liệu sản xuất trong nước tương đối phong phú nhưng
sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng chất lượng mẫu mã dẫn tới
việc sản xuất hàng nông sản phẩn lớn vẫn phải nhập máy móc thiết bị
khoa học công nghệ, cán bộ chuyên gia từ nước ngoài, là do chi phí cao
không đủ chủ động và chịu nhiều biến động của thị trường. Trong khi đo
hàng nông sản của Lào cùng chủng loại với hàng của Thái Lan. Việt Nam,
Trung Quốc có sự cạnh tranh rất cao.
Dịch vụ thương mại xuất hiện ở mọi giai đoạn bán hàng nhằm hỗ
trợ trước, trong và sau khi bán hàng. Nếu dịch vụ cung ứng đồng bộ sẽ tạo



10

niềm tin tuyệt đối cho khách hàng và góp phần nâng cao hiệu quả kinh
doanh xuất khẩu hàng nông sản.
Tỷ giá hối đoái
Ảnh hưởng của các nhân tố như: Mức chênh lệch phát của hai nước
ảnh hưởng tới sự biến động của tỷ giá tình hình dư thưa hay thiếu hụt của
cán cân thành toán ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén đến sự biến động của
tỷ giá tình hình cung cầu ngoại hối trên thị trường ngoại hối làm biến
động trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Để khuyến khích xuất khẩu có thể điều
chỉnh tỷ giá bằng cách
+ Nâng giá đồng tiền nội tệ so với đồng tiền ngoại tệ
+ Phá giá đồng tiền nội tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu và hạn
chế nhập khẩu
+ Thanh toán quốc tế trong xuất khẩu đảm bảo thu chi những khoản
ngoại tệ. Tín dụng có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng nông sản
được thoả thuận.
1.3.1.2. Các yếu tố chủ quan
Cơ sở vật chất trình độ khoa học kỹ thuật
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất hàng xuất khẩu một quốc gia
hay doanh nghiệp phải tiến hành cải cách quá trình sản xuất áp dụng tốt
những thành tựu khoa học tiên tiến để đem lại giá trị gia tăng lớn. Nguy
cơ “tụt hậu” xa hơn về kinh tế của Lào nói dung và của tỉnh Champasac
so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới do xuất phát điểm của
Lào quá thấp nên để thực hiện những yêu cầu về chất lượng hàng nông
sản khắt khe là rất khó khăn vì thiếu vốn đầu tư công nghiệp cao
Trong những năm qua cũng như hiện nay Đảng và Nhà nước tỉnh đã
không ngừng chỉ đạo những ngành có liên quan tập trung sức lực và vốn
đầu tư các cơ sở vật chất ngày càng tăng lên. Hiện nay ở Champasắc có



11

mạng lưới đường giao thông thuận lợi cho cả hai mùa các xưởng và các
nhà máy như xưởng chế biến gỗ, có nhà máy sản xuất dầu ăn, nhà máy
sản xuất thuốc, nhà máy sản xuất phân hoá học, nhà máy hoá chất xưởng
gang thép xưởng sản xuất đinh, xưởng sản xuất nước đá, xưởng sản xuất
bột mỳ nhà máy sản xuất điện tử, nhà máy lắp ráp xe đạp, xe máy…
Yếu tố về vốn
- Lào là một nước kinh tế kém phát triển vốn đầu tư cho kinh doanh
sản xuất hàng nông sản xuất khẩu trong nước còn thiếu vấn đề then chốt
là chưa ổn định nền kinh tế vĩ mô lẫn cả vi mô, các hoạt động kinh doanh
còn riêng lẻ chưa khích lệ mạnh mẽ các doanh nghiệp sử dụng vốn để
kinh doanh có hiệu quả.
1.3.2. Nội dung của thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản
Thúc đẩy xuất khẩu nông sản là việc làm tăng hàng nông sản đưa ra
khỏi lãnh thổ của nước CHDCND Lào hoặc đưa vào một khu đặc biệt
nằm trên lãnh thổ được gọi là khu vực Hải Quan riêng theo quy định của
pháp luật, thúc đầu xuất khẩu hàng nông sản bao gồm những hoạt động
chủ yếu sau
1.3.2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng nông sản
Đây là công việc đầu tiên và quan trọng đối với bất kỳ một doanh
nghiệp tổ chức hay cả nhân nào muốn tham gia vào thị trường nông sản
thế giới.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng nông sản là quá trình thu
thấp xử lý và phân tích số liệu thị trường một cách có hệ thống làm cơ sở
cho các quyết định quản trị. Mỗi quốc gia khác nhau có phong tục, tập
quán, nhu cầu thị hiếu và sở thích khác nhau. Do khoảng cách về địa lý
của các quốc gia là lớn nên việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng

nông sản trở nên khó khăn


12

Khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu hàng nông sản cần trả lời được
các cầu hỏi sau: Nước nào là thị trường mục tiêu? Quy mô thị trường ra
sao? Sản phẩm nào có thể xuất khẩu sang thị trường đó? Quy định về chất
lượng chủng loại, vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm định như thế nào?
Chính sách ngoại thương của nước sở tại có gì khó khăn, thuận lợi…?
1.3.2.2. Tổ chức mua và tạo nhiều nguồn hàng nông sản xuất khẩu
Tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu là toàn bộ hình thức phương
thức mà doanh nghiệp tác động đến lĩnh vực sản xuất nông sản khai thác
để tăng nguồn hàng nông sản phù hợp với nhu cầu khách hàng
Tổ chức tăng thu mua hàng nông sản là một hoạt động của doanh
nghiệp sau khi xem xét về chất lượng hàng hoá. Giá cả chào hàng cùng
với người bán thoả thuận điều kiện mua bán giao nhận thanh toán bằng
hợp đồng.
Tổ chức thu mua và tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu là một quá
trình bao gồm những nội dung sau:
- Nghiên cứu thị trường nguồn hàng nông sản xuất khẩu
Đây là việc nghiên cứu khả năng cung cấp hàng nông sản xuất khẩu
trên thị trường như thế nào về số lượng chất lượng thời gian giá cả và địa
điểm…. Nguồn hàng nông sản xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào nguồn
cung ứng sản phẩm nông sản tươi của nông dân và năng lực xuất khẩu
hàng nông sản xuất khẩu của các doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường
nguồn hàng nông sản xuất khẩu, doanh nghiệp cần xác định được khu vực
thị trường thu mua, xác định được mặt hàng nông sản xuất khẩu phù hợp
với nhu cầu thị trường nước ngoài phù hợp với khả năng đáp ứng nhu cầu
thị trường nước ngoài của doanh nghiệp xác định giá cả trong nước so với



13

giá cả quốc tế, xác định chính sách quản lý của nhà nước về mặt hàng đó
mặt hàng đó có được khuyến khích xuất khẩu hay không…
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng nông sản xuất khẩu do khối lượng
hàng nông sản được ký kết để xuất khẩu là lớn nên nhà xuất khẩu thường
phải tổ chức thu mua hàng nông sản thông qua các đại lý, các chi nhánh
các chân hàng. Việc tổ chức hợp lý mạng lưới thu mua phù hợp với đặc
điểm điều kiện nguồn hàng nông sản được mua đầy đủ kịp thời đúng số
lượng chất lượng giúp doanh nghiệp xuất khẩu tiết kiệm được chi phí
nâng cao hiệu quả thu mua. Việc lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua
kết hợp nhiều hình thức thu mua là cơ sở tạo nguồn hàng nông sản ổn
định và hạn chế rủi ri trong thu mua hàng nông sản xuất khẩu
- Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu khi
ký kết hợp đồng nhằm xác định rõ số lượng chất lượng quy cách màu sắc
giá cả phương thức giao hàng thời gian giao hàng thời gian thanh toán…
nhằm xác định rõ nghĩa vụ trách nhiệm quyền lợi của mỗi bên.
- Xúc tiến triển khai nguồn hàng xuất khẩu sau khi ký kết hợp đồng
thu mua tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu doanh nghiệp cần áp dụng
các biện pháp kinh tế trong hoạt động khai thác tạo nguồn hàng nông sản
xuất khẩu điều, liền doanh liên kết giúp đỡ các đơn vị có nguồn hàng, tổ
chức hệ thống tính từ các nguồn hàng về doanh nghiệp
- Tổ chức thực hiện hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng nông sản
xuất khẩu đây là khâu mà các bên tham gia phải thực hiện trách nhiệm và
nghĩa vụ của hợp đồng khi ký kết.


14


1.3.2.3. Công tác giao dịch đàm phán và ký hợp đồng xuất khẩu hàng
nông sản
Để thực hiện việc ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng nông sản hai bên
xuất khẩu và nhập khẩu thương mại trải qua một quá trình giao dịch
thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch trong buôn bán quốc tế,
những bước giao dịch đàm phán chủ yếu đối với hàng hoá nói chung và
những hàng nông sản nói riêng thường diễn ra như sau:
- Hỏi giá: Về phương diện pháp luật thương mại thì đây là việc nhà
nhập khẩu đề nghị xuất khẩu báo cho mình biết giá cả và điều kiện mua
hàng. Hỏi giá không rằng buộc về trách nhiệm của nhà nhập khẩu. Nhà
nhập khẩu có thể hỏi giá nhiều nhà xuất khẩu để nhận được nhiều bản
chào, giá cả cạnh tranh để làm căn cứ so sánh và lựa chọn bản chào giá
thích hợp
- Trong quá trình hỏi giá báo giá cần nêu rõ tên hàng, quy cách,
phẩm chất, số lượng thời gian giao hàng mong muốn loại tiền thanh toán,
phương thức thanh toán điều kiện giao hàng…
- Phát giá: Về phương diện pháp luật thì đây là lời đề nghị ký kết
hợp đồng và như vậy phát giá có thể là nhà nhập khẩu hoặc nhà sản xuất
được ra. Về phương diện thương mại thì phát giá chào hàng là việc xuất
khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình
Trong quá trình phát giá cần nêu rõ: Tên hàng, quy cách, phẩm chất,
số lượng, bao bì, ký mã hiệu thời gian giao hàng mong muốn, điều kiện cơ
sở giao hàng…
- Đặt hàng là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng xuất
phát từ phía nhà nhập khẩu đưa ra dưới hình thức đặt hàng


15


- Trong quá trình đặt hàng nhà nhập khẩu cần nêu rõ cụ thể và
chính xác về hàng hoá cần mua như sau: Tên hàng, phẩm chất mẫu mã, số
lượng và tất cả những nội dung cần thiết để ký hợp đồng.
- Hoàn giá: Là việc mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện giao dịch
khi nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu nhận được chào hàng không chấp
thuận hoàn toàn chào hàng đó, mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị này
là trả giá, khi có sự trả giá chào hàng trước coi nhu huỷ bỏ trong buôn bán
quốc tế mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần trả giá mới đi đến kết
thúc
- Chấp nhận đây là sự đồng ý hoàn tất cả mọi điều kiện của chào
hàng hoặc đặt hàng mà phía bên kia đưa ra một chấp nhận có hiệu lực về
pháp luật cần phải đảm bảo những điều kiện sau: phải được chính người
nhận giá chấp nhận phải đồng ý hoàn tất vô điều kiện mọi nội dung của
chào hàng phải chấp nhận trong thời hạn hiệu lực chào hàng chấp nhận
phải được truyền dạt đến người phát ra đề nghị phải phù hợp với các văn
bản trước đó
- Xác nhận đây là khâu cuối cùng của giao dịch sau khi nhà nhập khẩu
và nhà xuất khẩu thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện đã thoả thuận
gửi cho đối phương đó là văn kiện xác nhận văn kiện do bên xuất khẩu gửi
thương mại là giấy xác nhận bán hàng do bên nhập khẩu gửi và xác nhận mua
hàng. Xác nhận thường được lập thành hai bản, bên lập xác nhận ký trước rồi
gửi cho bên kia. Bên kia ký xong rồi gửi trả lại một bản. Văn bản xác nhận
cũng có thể thực hiện bằng văn bản có chữ ký của cả hai bên, gọi là bản hợp
đồng hoặc thoả thuận.
1.3.2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng nông sản
- Sau khi hợp đồng nông sản được ký kết nghĩa vụ quyền lực và
trách nhiệm của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu được thiết lập cả nhà


16


nhập khẩu và xuất khẩu phải xác định rõ nội dung và trình tự công việc
phải làm đúng như hợp đồng ký kết.
Thông thường để thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng nông sản nhà
xuất khẩu thường phải thực hiện các công việc sau:
- Xin giấy phép xuất khẩu hàng nông sản, giấy phép xuất khẩu là
một biện pháp quan trọng của Nhà nước để quản lý hàng nông sản xuất
khẩu. Vì vậy sau khi ký hợp đồng xuất khẩu nhà xuất khẩu phải xin phép
xuất khẩu phải thực hiện hợp đồng chuyển. Tuy nhiên trong xu thế tự do
hoá thương mại thì nhiều nước đã giảm bớt một số mặt hàng cần phải xin
giấy phép xuất khẩu chuyển
- Chuẩn bị hàng nông sản xuất khẩu: Các công việc chủ yếu để
chuẩn bị hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu gồm các khâu sau:
+ Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu thường khối
lượng hàng nông sản xuất khẩu theo hợp đồng thường lớn, thêm vào đó là
các mặt hàng nông sản lại không được sản xuất tập trung. Do vậy, cần
phải tập trung hàng nông sản vào một khu vực nào đó để chuẩn bị cho
xuất khẩu.
+ Đóng bao bì: Đây là khâu quan trọng trong công việc chuẩn bị
hàng nông sản xuất khẩu nó bao gồm các công việc như đóng gói , kẻ bao
bì kẻ mã hiệu… Do vậy nhà xuất khẩu hàng nông sản cần phải làm tốt
công việc này. Để làm tốt được thì nhà xuất khẩu cần phải kiểm tra nắm
vững những yêu cầu cụ thể của việc bao gói để lựa chọn bao gói cho phù
hợp. Có rất nhiều loại bao gói như thùng, kiện, bao, hàm… thêm vào đó
cần chú ý đến khâu vận chuyển thông quan điều kiện, khí hậu
+ Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Là những ký hiệu bằng chữ bằng
số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các bao bì bên ngoài những thông


17


báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận bốc dỡ hoặc bảo quản
hàng hoá
- Kiểm tra chất lượng hàng nông sản xuất khẩu trước khi giao hàng
nhà xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng nông sản về chất lượng, số
lượng bao bì việc kiểm tra được tiến hành ở hai cấp độ cấp cơ sở và ở cửa
khẩu kiểm tra ở cơ sở(tức là ở đơn vị sản xuất thu mua chế biến…) nó có
vai trò quyết định nhất và có tác dụng triệt để nhất. Việc kiểm tra ở cơ sở
và thực hiện thủ tục quốc tế.
- Thuê tàu lưu cước: Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu
hàng nông sản việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa trên các điều
khoản của hợp đồng đặc điểm hàng nông sản mua bán và điều kiện trả.
- Mua bảo hiểm: Do đặc điểm cách xa về địa lý giữa nhà xuất khẩu
và nhà nhập khẩu nên phần lớn hàng nông sản được chuyên chở bằng
đường biển việc vận chuyển hàng bằng đường biển gặp nhiều rủi ro, tổn
thất nên mua bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến
nhất trong ngoại thương.
Có ba điều kiện bảo hiểm chính bảo hiểm rủi ro (điều kiện A). Bảo
hiểm có tổn thất riêng (Điều kiện B) bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện
C) việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm được tiến hành dựa trên các điều khoản
của hợp đồng thoả thuận giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu tính chất hàng
hoá tính chất bao bì và phương thức xếp hàng loại tàu chuyên chở.
- Làm thủ tục hải quan
- Uỷ thác yêu cầu thanh toán giải quyết khiếu nại.
1.3.3. Các chính sách của CHDCN Lào về thúc đẩy xuất
khẩu hàng nông sản


18


Trong thời gian này Chính phủ nước CHDCND Lào đã áp dụng
những cơ chế điều hành xuất khẩu theo hướng đổi mới với tinh thần
khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
xuất khẩu , trừ một số mặt hàng cấm và có điều kiện khuyến khích các
mặt hàng xuất khẩu mới đồng thời đẩy mạnh mới đồng thời đẩy mạnh
việc chuyển đổi từ sơ chế sang chế biến hoàn thành sản phẩm đẩy mạnh
cơ cấu thị trường xuất khẩu sang nước Châu Âu, Châu Á… kiểm soát chặt
chẽ nhập khẩu, chống hàng nhập lậu, gian lận thương mại. Chính phủ đã
sử dụng công cụ thài chính tương đối hiệu quả chỉ đạo các doanh nghiệp
mua hàng vào tạm dự trữ chờ xuất khẩu nhằm giữ giá và ổn định đảm bảo
thu nhập cho người nông dân. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá bị hạn chế và chịu thiệt về giá cả kim ngạch xuất khẩu trong
năm 1997 đã giảm mạnh. Hiện nay, nước Lào có một số chính sách nhằm
thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản là:
(1) Chính sách thương nhân
Từ năm 1989 luật đầu tư nước ngoài và luật đầu tư trong nước đã
được Quốc hội thông qua và ban hành nhằm thúc đầy sự đầu tư xúc tiến
và sản xuất trong nước cũng như khuyến khích và thu hút vốn và công
nghệ bên ngoài trong đó đã dành nhiều ưu đãi cho những doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu. Từ khi ban hành đến nay phù hợp với thực tiễn
phát triển đất nước và xu thế nới phát triển của thế giới hai luật này đã
được sửa đổi bổ xung một số điều năm 1994 và 2004 hai luật đầu tư này
đã có tác dụng tích cực tạo môi trường thuận lợi để thu hút được một
lượng vốn đầu tư khá lớn, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu
của Lào trong những năm qua tỷ lệ phần trăm trong tổng giá trị vốn đầu tư
đã tăng từ 21.3% năm 2001 trở lên tới 29% năm 2005 và tính bình quân 5


19


năm qua tỷ lệ vốn đầu tư chiếm 27.8% của GDP (theo giá hiện hành)
trong đó vốn đầu tư của nhân dân của các doanh nghiệp và đầu tư trực tiếp
nước ngoài(FDI) chiếm 17%. Đạt được kết quả trên là do môi trường pháp
lý ngày càng hoàn thiện đã tạo điều kiện thuận lợi sự ổn định yên tâm và
khuyến khích các doanh nghiệp các thành phần kinh tế phát triển sản xuất
hàng xuất khẩu.
Năm 1994 Chính phủ ban hành Nghị định miễn phí đặc biệt về xuất
khẩu hàng nông sản, số 187/CP ngày 2/12/1994. Ngoài ra Chính phủ còn
ban hành Nghị định vốn xúc tiến xuất nhập khẩu số 34/CP, ngày
14/02/2006. Nhà nước đã xoá bỏ độc quyền sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp thuộc kinh tế trong đó có cả khu vực kinh tế như nhân dân
được tham gia xuất khẩu. Do đó, số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu đã
tăng lên nhanh chóng, hoạt động xuất khẩu trở nên sôi động tính cạnh
tranh đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải vươn lên. Nhưng điều đó có tác
động tích cực tới sự phát triển xuất khẩu. Năm năm qua tổng kim ngạch
xuất khẩu đạt khoảng 1.83tỷ USD, bình quân tăng 7.1%. Những quy định
thủ tục còn rườm ra đã từng bước được bãi bỏ. Đầu những năm 90 doanh
nghiệp muốn được tham gia xuất khẩu còn phải đáp ứng các điều kiện tối
tiểu về vốn, phải có giấy phép kinh doanh, giấy phép xuất khẩu…Năm
1996 Nhà nước đã bãi bỏ giấy phép xuất khẩu hàng hoá thuộc đăng ký
kinh doanh mà không cần giấy phép xuất khẩu trừ một số mặt hàng cần
quản lý đặc biệt của nhà nước theo Kiến nghị của Bộ trưởng bộ Tài chính
về hướng dẫn trực tiếp miễn phí thuế hải quan và thuế quan, số
230/BTBTC ngày 04/03/1995.
(2) Chính sách xuất khẩu


20

Chính sách mặt hàng trong những năm qua đã thể hiện chiến lược

phát triển của kinh tế đối ngoại nước CHDCND Lào đúng đắn. Tại Đại
hội Đảng lần thứ V từ ngày 27/03/1991 Lào đã tuyên bố “Lào muốn làm
bạn với tất cả các nước trên cộng đồng thế giới…” khẳng định đường lối
chiến lược của Lào trong việc phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại
Nghị định số 205/NĐ-CP ngày 11/10/2001 về quản lý các mặt hàng
xuất khẩu. Theo đó tất cả các loại hàng hoá trừ hàng hoá thuộc danh mục
hàng hoá cấm xuất khẩu đều được xuất khẩu. Mọi thương nhân theo quy
định của pháp luật đều được quyền xuất khẩu tất cả các loại hàng hoá. Đối
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngoài việc xuất khẩu sản
phẩm của mình cũng được xuất khẩu các loại hàng hoá khác, trừ hàng
hoá thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu và một số loại hàng do Bộ
thương mại quy định cho từng thời kỳ. Công tác điều hành xuất khẩu của
Chính phủ cũng từng bước được đổi mới. Hàng năm cơ chế điều hành
xuất khẩu chỉ đưa ra mục tiêu và các biện pháp lớn, các mặt hàng cần
kiểm soát thông qua hạn ngạch, quota, danh mục hàng cấm xuất khẩu và
các mặt hàng chịu sự quản lý chuyên ngành. Đến nay, các mặt hàng có
hạn ngạch xuất khẩu hầu như đã giảm tới mức tối thiểu
(3) Chính sách phát triển thị trường
Với chính sách thâm nhập thị trường tướng đối mạnh dạn hàng hoá
nông sản của Lào đã có chỗ đứng tại nhiều nước trên thế giới trong đó Mỹ
và EU là thị trường yêu cầu chất lượng cao, phong cách hoạt động và tâm
lý kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc EU, Mỹ cũng khác nhiều với
các doanh nghiệp ở Châu Á.
Trong những năm qua, Lào đã dần dần khôi phục lại thị trường
truyền thông đặc biệt chú ý tới thị trường nằm trong các nước Châu Á


21

chẳng hạn như: Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Singapore, Việt Nam…

Đây là những thị trường có khả năng tiêu thụ hàng xuất khẩu của Lào. Bộ
thương mại đã có khuyến khích thưởng cho các doanh nghiệp mở rộng thị
trường mới mặt hàng xuất khẩu mới vào khu vực này
Thực hiện chính sách mở cửa thị trường xuất khẩu hàng nông sản
được mở rộng theo hướng đa phương hoá đa dạng hoá. Bên cạnh hệ thống
thị trường xuất khẩu truyền thông, nhiều thị trường mới mở ra ẩn chứa
nhiều tiềm năng trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản
Tuy nhiên chính sách phát triển trên thị trường tổ chức thu nhập và
xử lý thông tin đã có những tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rác, chậm thời
gian, thiếu hệ thống từ cơ sở vật chất đến phương thức tổ chức,nghèo nàn
về nội dung chưa thực sự trở thành một công cụ mạnh để chỉ đạo hướng
dẫn sản xuất do thiếu thông tin về thị trường nên sản xuất lúng túng trong
việc quyết định đầu tư loại cây trồng cũng như quy mô. Thị trường chưa
thực sự hướng dẫn sản xuất chưa có tác động tích cực đổi mới cơ cấu sản
xuất theo hướng nhu cầu của thị trường. Công tác tổ chức dự báo thị
trường thu nhập xử lý thông tin chậm về thời gian, mức độ tin cậy không
cao, trên thực tế chưa trở thành công cụ mạnh hướng dẫn sản xuất
Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản
còn xem nhẹ công tác tiếp thị đầu tư cho hoạt động này chưa đáp ứng
được để thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản. Nhiều doanh nghiệp chưa có
bộ phận chuyên trách nghiên cứu thị trường, chưa làm tốt công tác thu
nhập nghiên cứu xử lý thông tin về thị trường nên chưa phản ứng nhanh
nhạy với diễn biến cung cầu- trên thị trường để chủ động điều chỉnh xuất
khẩu. Các doanh nghiệp còn non kém về kinh nghiệm tiếp thị về tạo lập
và ổn định thị trường xuất khẩu.


22

Tầm vĩ mô hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc

xây dựng và phát triển thị trường xúc tiến thương mại, xây dựng các quan
hệ song phương và đa phương, tạo điều kiện xuất khẩu hàng nông sản còn
rất hạn chế thiếu chủ động. Hoạt động nghiên cứu tiếp thị thuộc các tổ
chức kinh tế, chuyên môn chậm phát triển còn bị xem nhẹ, chưa tương
xứng với yêu cầu phát triển ngành nông sản nói chung, đẩy mạnh xuất
khẩu hàng nông sản nói riêng. Sự yếu, kém trong việc xác định hệ thống
thị trường xuất khẩu chủ lực và những mặt hàng nông sản xuất khẩu trọng
điểm là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển sản
xuất – lưu thông- xuất khẩu hàng nông sản
Để sản xuất đạt hiệu quả cao cần đầu tư vào những lĩnh vực thị
trường thực sự có nhu cầu. Người sản xuất đòi hỏi phải có nhu cầu thường
xuyên về thông tin thị trường tiêu thụ để quyết định đầu tư sản xuất hợp
lý. Tuy vậy người sản xuất không thể tự giải quyết vấn đề này cho mình
mà đòi hỏi có sự hỗ trợ của nhà nước các tổ chức kinh tế và các doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu.
Chính sách tự do lưu thông hàng hoá và phát triển thị trường đã
phát huy được sức mạnh của thành phần kinh tế tham gia sản xuất lưu
thông tiêu thụ hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước. Về cơ bản từ
năm 1995 đến nay thị trường trong cả nước Lào đã tự do hoá. Các nông
sản hàng hoá cũng như hàng hoá công nghiệp tiêu dùng và tư liệu sản xuất
được tựu do lưu thông rộng rãi trong cả nước. Giá cả được hình thành
khách quan trên cơ sở quan hệ cung - cầu trên thị trường. Tình trạng sản
xuất kép kín tự tức được khắc phục dần, sản xuất đã bước đầu hướng ra
thị trường phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương. Trong
lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá thực hiện chính sách mở cửa thị trường được
hội nhập và phát triển tho hướng đa phương hoá đa dạng hoá. Bên cạnh


23


những thị trường xuất khẩu. Tuy lĩnh vực tìm kiếm và mở rộng thị trường
xuất khẩu chưa đạt được kết quả mong muốn nhưng bước đầu đã định
hướng cho người sản xuất tập trung và những hàng hoá có ưu thế
Thực hiện chỉ thị của Thủ tướng chính phủ số 24/TTg,22/09.2004
về việc tạo điều kiện thuận lợi cho Nhập khẩu - Xuất khẩu và lưu thông
hàng hoá trong nước chỉ thị nêu rõ: Các Thủ trưởng các cơ quan các tỉnh
thành phải tiến hành kiểm tra các khâu liên quan đến xuất khẩu – nhập
khẩu và lưu thông hàng hoá trong nước nếu thấy khâu nào chưa hợp lý –
trái với pháp luật thì cần phải trình lên để điều chỉnh ngay và thông qua
một cửa một chữ ký một hai ngày. Do đó việc triển khai công tác xuất
khẩu và lưu thông hàng hoá trong nước có bước tiến rất đáng khích lệ
Để mở rộng phát triển thị trường Chính phủ Lào đưa ra chiến lược
ổn định thị trường trong nước giá cả hàng hoá bình ổn hay giao dịch có
thể kiểm soát được điều chỉnh việc cung - cầu phần lớn cho phù hợp với
thị trường trong nước bảo vệ người tiêu thụ làm cho cuộc sống của nhân
dân ngày một khá trong đó là:
- Xây dựng cơ chế để dự báo thị trường hàng hoá và giá cả
- Sửa đồi và điều chỉnh cơ chế quản lý thị trường và giá cả cho phù
hợp với hệ thống thị trường theo hướng “Đánh giá thị trường quản lý và
giải quyết vấn đề thị trường bằng biện pháp của thị trường”
- Quản lý việc lưu thông hàng hoá bằng hình thức điều chỉnh hay
cân đối mặt hàng có thể thu hút và xúc tiến ở mức độ cao hơn
(4) Chính sách ruộng đất
Về chính sách ruộng đất Nhà nước Lào đã tạo ra sự ưu tiên hàng
đầu cho người dân để tạo ra động lực khuyến khích nông dân phát triển


24

sản xuất làm cho người dân gắn bó với ruộng đất hơn, yên tâm đầu tư sản

xuất cải tạo và bảo vệ đất đai được giao. Chính phủ đưa đến sự thay đổi
trong chính sách ruộng đất giao cho hộ nông dân quyền sử dụng đất lâu
dài ổn định. Từ đó nhờ chính sách ruộng đất mà sẽ làm cho các loại sản
phẩm nông sản của Lào không ngừng tăng về diện tích năng suất sản
lượng… Bên cạnh những tác động tích cực đó việc giao đất cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, nhanh mún, phân tán gây khó
khăn cho quá trình tích tụ tập trung đầu tư cho sản xuất theo tiêu chuẩn
hàng hoá. Sự chậm trễ trong việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân một mặt làm quá chậm quá trình tích
tụ và tập trung ruộng đất mặt khác làm xuất hiện những khó khăn cho các
nhà đầu tư trong việc thu gom đất. Việc chậm cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho nông dân chưa thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất
có xu hướng khai thác đất có tính chất bóc lột nhằm kiếm lợi trước mắt.
(5) Chính sách đầu tư
Trong lĩnh vực nông nghiệp chính sách đầu tư cho nông nghiệp và
nông thôn tiếp tục được điều chỉnh theo hướng đầu tư tập trung cắt giảm
các khâu đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa bức xúc. Điểm mới trong chính
sách đầu tư của Nhà nước ở giai đoạn này là các khâu đầu tư xây dựng cơ
bản từ ngân sách Nhà nước đã có thêm nhiều nguồn vốn khác được huy
động vào khu vực nông nghiệp và nông thôn. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư
do ngân sách nhà nước cấp các địa phương còn bổ sung thêm một số
khâu đầu tư vào sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội. Đặc biệt từ
khi có luật đầu tư nước ngoài tại Lào được bổ sung và sửa đổi và nghị
định của chính phủ số 119/TTg ngày 22 tháng 10 năm 2004 về viện thực
hiện sắc lệnh của Chủ tịch nước về tạo điều kiện chính sách khuyến khích
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đến nay nguồn vốn đầu tư nước


25


ngoài vào nông thôn Lào tuy còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn đầu tư chiếm khoản 28%GDP, 13.88% huy động của nước ngoài 500
triệu USD Đầu tư của tư nhân trong nước và ngoài nước là 18.2 và 9,9%.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong 5 năm (FDI) có 585 dự án với tổng
vốn đầu tư đăng ký 2,8 tỷ USD. Vốn thực hiện đạt 1,07tỷ USD. Trong đó
đầu tư vào công nghiệp và xây dựng 69% nông- lâm nghiệp 4% dịch vụ
27%. Thu hút vốn ODA trong 5 năm có 935% triệu USD bình quân 187
triệu USD/ năm và trong đó có vốn phối hợp của chính phủ 115 triệu
USD. Những khoản vốn này đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh
tế nông thôn trong những năm qua.
(6) Chính sách khuyến nông chuyển giao công nghệ sản xuất
Để chuyển san sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật chất
lượng và tiêu chuẩn chính phủ không ngừng củng cố nâng cao về mặt kiến
thức cũng như kinh nghiệm sản xuất nhu cầu cung cấp thông tin về khoa
học công nghệ đối với sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Trong thời gian
ngắn chính sách khuyến nông đã được triển khai rộng rãi, mạng lưới
khuyến nông đã được hình thành từ Trung ương tới cơ sở. Triển khai công
tác khuyến nông có tác dụng thoả mãn nhu cầu to lớn của hộ nông dân
muốn chuyển sang sản xuất hàng hoá cần được hỗ trợ hướng dẫn kỹ thuật
và kinh nghiệm sản xuất. Chỉ tính sản xuất lúa gạo mùa 2004-2005 tỷ lệ
người nông dân áp dụng lúa giống mới vào trong sản xuất chiếm tỷ trọng
tương đối cao. Sử dụng giống mới trong lúa mùa là 80% trong khi đó lúa
chiếm là 100%. Mặc dù có những tác động tích cực đem lại hiệu quả kinh
tế cao cho hoạt động sản xuất kinh doanh những công tác hoạt động
khuyến nông còn nhiều hạn chế do trình độ tiếp thu và vận dụng công
nghệ mới chưa cao theo lối sản xuất truyền thống còn phổ biến đồng thời
việc phổ biến và hướng dẫn sử dụng và áp dụng công nghệ phục vụ quản



×