Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, từ thực tiễn Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 99 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Nguyên Văn Tâm, học viên lớp Cao học Luật khóa 25 Trường 
Đại học Vinh, tôi xin cam đoan đây bản luận văn này là công trình của riêng tôi.  
Tất cả  kết quả  nêu trong luận văn chưa từng được công bố  trong bất kỳ  công  
trình nàokhác. Các số liệu, ví dụ được nếu trong luận văn được lấy từ nguồn rõ 
ràng bảo đảm tính trung thực chính xác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và  
các nghĩa vụ  tài chính theo quy định của Khoa Luật và của Trường Đại học  
Vinh. 
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Khoa luật xem xét để tôi được  
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                       

    NGƯỜI CAM ĐOAN

                                           

      NGUYỄN VĂN TÂM


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi; Các kết  
quả  trong luận văn chưa được công bố  trong bất kì công trình nghiên cứu 
khoa học nào khác. Các số  liệu, ví dụ, bảng kê, và trích dẫn trong luận văn  
bảo đảm tính chính xác và trung thực, không gian dối hay bịa đặt. Tôi đã hoàn  
thành tất các môn học và hoàn thành tất cá các nghĩa vụ tài chính theo quy định 
của Trường Đại học Vinh – Nghệ An.

 NGƯỜI CAM ĐOAN



               ………………………..


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, em đã nhận 
được sự động viên, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh 
đạo, các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Em xin trân trọng cảm  ơn tới các thầy cô trong Ban lãnh đạo, các Giáo 
sư, Tiến sĩ, giảng viên của Trường Đại học Vinh.
Xin chân thành cảm  ơn ban lãnh đạo trường, các anh, chị, đồng nghiệp 
của các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An đã cộng tác, cung 
cấp thông tin, số liệu, cho ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi  giúp đỡ em trong 
quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến  PGS.TS. 
…………., Ngườ i hướ ng dẫn khoa h ọc đã tận tâm bồi dưỡ ng kiến thức,  
phươ ng pháp nghiên cứu và trực tiếp giúp đỡ, độ ng viên để  em hoàn thành 
luận văn này.
Mặc dù đã nỗ  lực cố  gắng rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, song  
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả  kính mong nhận được 
những lời chỉ dẫn của các thầy giáo, cô giáo, ý kiến đóng góp trao đổi của các 
bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày ....tháng .....năm 2020
Tác giả

………………………..



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
KSĐT

Viết đầy đủ
Kiểm sát điều tra

BLHS

Bộ luật hình sự 

CQCSĐT

Cơ quan cảnh sát điều tra

CQĐT

Cơ quan cảnh sát điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên


TAND

Tòa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TPVTTXH.

Tội phạm về trật tự xã hội

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

TTXH

Trật tự xã hội

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC


Viện kiểm sát nhân dân tối cao

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
             Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định:  
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì 
nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Tổ  chức và hoạt động của bộ  máy nhà nước 
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự 
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ  quan trong việc thực hiện các  
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 
           Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức  VKSND 2014 
thì VKSND vẫn giữ chức năng kiểm sát điều tra. Việc ap dung phap luât trong
́ ̣
́
̣
 
kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát  
nhân   dân   cấp   huyện  góp   phần   bảo   đảm   cho   pháp   luật   được   chấp   hành 
nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được 
điều tra, xử lý kịp thời.
           Thời gian qua, với s ự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo 

cơ  chế  định hướng xã hội chủ  nghĩa, nước ta  đã đạt được nhiều thành tựu 
đáng tự hào. 
Những thành tựu đã đạt được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà  
nước ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Cùng với 
những chủ  trương, chính sách phát triển toàn diện nền kinh tế  xã hội, Nhà 
nước ta luôn quan tâm đến các biện pháp bảo đảm quyền tự  do, bình đẳng 
trước pháp luật, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, tăng 
cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Nhà 
nước tạo sự  tự  chủ  cho các tổ  chức và cá nhân, tập thể  đăng ký, hoạt động 
kinh doanh ngoài những ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh 
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần 
phong mỹ tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân. 
         Tại Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh  
doanh trong những ngành nghề  mà pháp luật không cấm”.   Như  vậy, việc 
chống lại các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp đã được Nhà nước thể chế 


thành nguyên tắc hiến định. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn 
bản pháp luật nhằm phòng chống các tội phạm kinh tế nói chung, tội tàng trữ, 
vận chuyển hàng cấm nói riêng. Bộ luật hình sự  (BLHS) Việt Nam do Quốc  
hội thông qua ngày 17/6/1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào năm 1989, 
1990, 1992, 1997 có quy định về  tội 2 buôn bán, tàng trữ  hàng cấm trong  
chương “Các tội phạm kinh tế”. BLHS 1999 đã đưa ra quy định điều chỉnh  
hành vi liên quan đến hàng cấm rải rác  ở  các chương khác nhau quy định về 
các hành vi liên quan đến hàng cấm và một số hàng cấm cụ thể khác như chất  
ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, vũ khí hoặc công cụ hỗ trợ, chất phóng 
xạ, chất cháy, chất độc. BLHS 2015 và Luật sửa đổi bổ  sung một số  điều 
BLHS 2015 (ban hành năm 2017) ngoài những nội dung cấu thành tội phạm 
trong BLHS 1999, bộ luật còn có nhiều thay đổi về việc xây dựng cấu thành 
tội phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nên cần thiết phải có cách hiểu  

thống nhất để  áp dụng pháp luật đối với tội phạm này. Bên cạnh các quy  
định của Luật hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, còn có 
các quy định của các văn bản pháp luật thuộc Ngành và lĩnh vực khác cũng  
điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến hàng cấm.
Tuy nhiên, do đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh và 
những sơ  hở, yếu kém trong quản lý kinh tế  nên nhiều tệ  nạn xã hội và tội 
phạm kinh tế ngày càng có môi trường phát sinh, phát triển, trong đó tội tàng  
trữ, vận chuyển hàng cấm đang ngày càng tăng về  số  lượng với nhiều mặt 
hàng cấm nguy hiểm, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, hơn hết là tác động 
tiêu cực tới con người, môi trường và xã hội, nó đã trở  thành một vấn đề 
nhức nhối của xã hội. Công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này cần 
phải quyết liệt mạnh mẽ, để làm được điều đó cần có sự đánh giá chính xác,  
chi tiết, đầy đủ về tội phạm này.
Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động 
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Long An 
trong thời gian gần đây không chỉ  có chiều hướng tăng về  số  lượng, chủng 


loại mà còn diễn biến phức tạp về cả tính chất, quy mô. Đối tượng phạm tội  
có rất nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, táo bạo và có tính chất rất quyết 
liệt. Trong khi đó, hoạt động điều tra xử lý tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận  
chuyển, buôn bán hàng cấm hiệu quả  chưa cao, chưa đáp  ứng được yêu cầu 
trước tình hình thực tế  tại địa phương, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật  
tự  và sự  phát triển toàn diện các mặt kinh tế xã hội. Tình hình trên đã đặt ra  
một vấn đề  rất bức thiết là phải có những giải pháp hữu hiệu, phù hợp với 
đặc điểm tình hình địa phương nhằm nâng cao hiệu quả  việc  ap dung phap
́
̣
́ 
luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr

̣
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm. Để xử lý 
nghiêm minh, đúng pháp luật, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ  đấu 
tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự  an toàn xã hội, tạo lòng tin  
trong nhân dân và điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội 
tại địa phương cũng như của đất nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tìm ra giải 
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc ap dung phap luât trong kiêm sat điêu
́ ̣
́
̣
̉
́ ̀ 
tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp  
huyện vẫn chưa được thực hiện một cách có hệ thống và chuyên sâu trên địa  
bàn tỉnh Long An
Xuất phát từ  thực tiễn trên, tác giả  quyết định lựa chọn đề  tài:   “Áp  
dụng pháp luật trong  kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng   
cấm cua Vi
̉

ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An” làm luận văn 
thạc sĩ Luật học.
       2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm là nội dung 
được nhiều tác giả  quan tâm nghiên cứu.  Trong thực tế  đã có những công 
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở nhiều góc độ khác nhau như: 
  Lục Thị  Út (2014),“Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong  
Luật Hình sự  Việt Nam (trên cơ  sở  nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Cao  
Bằng) [48].


Ở công trình này,  tác giả nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận 
về tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm hiện nay ở  Việt Nam. Phân 
tích  các  quy   định  của  BLHS  về  tội  tàng  trữ,  vận  chuyển,  buôn  bán  hàng 
cấm.Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Hình sự  đối 
với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm ở tỉnh Cao Bằng,  
làm sáng tỏ  thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc 
trong điều tra, truy tố, xét xử. Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện BLHS và giải 
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội sản xuất, tàng 
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, góp phần nâng cao hiệu quả  đấu tranh  
phòng chống tội phạm
          Nguyễn Thị Hạnh (2013),  “Thực hành pháp luật trong giải quyết cac vu
́ ̣ 
 an buôn bán, v
́
ận chuyển hàng cấm   trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” 



 Luận văn đã trình bày một số  vấn đề  lý luận về thực hành pháp luật 
trong giải quyết  cac vu an buôn bán, v
́ ̣ ́
ận chuyển hàng cấm. Phân tích   thực 
trạng  thực hành pháp luật trong giải quyết  cac vu an buôn bán, v
́ ̣ ́
ận chuyển 
hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Chỉ ra số hạn chế và đưa ra giải pháp 
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hành pháp luật trong giải quyết cac vu an
́ ̣ ́ 
buôn bán, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 
hiện nay. 
Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trong các báo Pháp Luật, các tạp 
chí TAND, VKSND, bài nghiên cứu trao đổi trên website của Bộ  Tư  Pháp, 
TAND tối cao, VKSND tối cao. Ngoài ra, còn một số sách tham khảo, chuyên 
khảo có đề  cập nội dung rất nhỏ  liên quan đến đề  tài luận văn như: Bình 
luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế 
Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, 
ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 
2001.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích và làm  
sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến công tác kiểm sát điêu tra cac vu
̀
́ ̣ 
an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng cấm, những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất 
lượng của công tác này, qua đó đã đưa ra những phương pháp, cách làm để 

nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra.. Tuy nhiên tất cả  các đề  tài và bài 
viết mới chỉ  tập trung nghiên cứu  ở  một số  khía cạnh cụ  thể  và nội dung  
nghiên cứu đều  ở  những địa bàn khác nhau. Vì vậy, cho đến nay chưa có 
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu một cách đầy đủ và có hệ thống về ap  
dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng  
cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy 
việc lựa chọn và nghiên cứu đề  tài “Áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu
̉
́ ̀ 
tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân  
cấp huyện, tỉnh Long An”là quyết định phù hợp với lý luận và thực tiễn.


       3. Mục đích nghiên cứu
            Mục đích của Luận văn là nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong 
kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi

̉
ện kiểm sát  
nhân dân cấp huyện, trên địa bàn tỉnh Long An. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm  
nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật trong  kiêm sat điêu tra cac vu an
̉
́ ̀
́ ̣ ́ 
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong thực tiễn hiện nay.
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu
­  Để  thực hiện được các mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết 
các nhiệm vụ sau:
            ­ Phân tích cơ sở  lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ  pháp luật  
trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm ; Nội dung áp 
dụng pháp luật trong  kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́
̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng 
cấm; các yếu tố   ảnh hưởng đến việc dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra
̉
́ ̀
 
cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm

         ­ Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an
̉
́ ̀
́ ̣ ́ 
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh 
Long An. 
        ­ Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của  
pháp luật về áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận 
chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An trong 
thời gian tới.
         5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
          5.1. Đối tượng nghiên cứu
           Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về  Thực tiễn 
về  áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́
̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển 
hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An 

          5.2. Phạm vi nghiên cứu


          ­  Phạm vi nội dung:  Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề 
xung quanh chức năng trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển 
hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện  trên địa bàn tỉnh, các quy 
định của các Bộ luật và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp 
với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND 
cấp huyện. Thông qua đó, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để 
kiến nghị  những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả  thực hiện trong 
thực tiễn. 
      ­    Phạm vi không gian: VKSND cấp huyện, tỉnh Long An
      ­   Phạm vi thời gian:  Dữ  liệu được thu thập trong thời gian 05 năm (từ 
năm 2015 ­ 2019) 
        6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
        6.1. Phương pháp luận
           Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng  
Hồ  Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản 
Việt Nam về  tăng cường pháp chế  XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền  
XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về 
tăng cường áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́

ữ, vận  
chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện
     6.2. Phương pháp nghiên cứu
             Luận văn có sự  kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu của  
các công trình liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac
̉
́ ̀
́ 
vu an tàng tr
̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm của các công trình nghiên cứu trước.
             Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng  
như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích 
và tổng hợp; phương pháp lịch sử  cụ  thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử  dụng  
các phương pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm, phương  
pháp hệ thống…


         7. Kết cấu của luận văn
             Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội  
dung của luận văn gồm 3 chương: 
 Chương 1:  Lý lu
 
ận về    áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các  
 vụ     án tàng trữ,  v
  ận chuyển hàng cấm  c
  ủa viện kiểm sát nhân dân cấp huyện 
Chương 2: Thực trang ap dung phap luât trong ki

̣
́ ̣
́
̣
ểm sát điều tra cac v
́ ụ 
án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, 
tinh Long An
̉
           Chương 3: Quan điểm va giai phap bao đam ap dung phap luât trong 
̀ ̉
́ ̉
̉ ́ ̣
́
̣
 kiểm sát điều tra cac v
́ ụ án tàng trữ,  v
  ận chuyển hàng cấm  c
  ủa viện kiểm sát  
nhân dân cấp huyện


Chương 1
 LÝ LUẬN VỀ    ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU  
 TRA CÁC VỤ     ÁN TÀNG TRỮ,  V
  ẬN CHUYỂN HÀNG CẤM  C
  ỦA  
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

 1.1. Khai niêm, đăc điêm va 

́
̣
̣
̉
̀ vai trò
 
  ap dung phap luât trong kiêm sat
  ́
̣
́
̣
̉
́  
 điêu tra cac vu an
̀
́
̣ ́  tàng tr
  
ữ, vận chuyển hàng cấm    cua Vi
̉
ện kiểm sát  
nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm về  ap dung phap luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an
́
̣
́
̣
̉
́
̀

́ ̣ ́ 
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện 
 1.1.1.1 .  Khái niệm về ap dung phap luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an
́ ̣
́
̣
̉
́ ̀
́ ̣ ́ 
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra (KSĐT) các vụ  an tàng tr
́
ữ, 
vận chuyển hàng cấm án là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. Áp 
dụng pháp luật trong  kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́
̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng 
cấm thuộc trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải  
tham gia bằng hình thức giám sát hoạt động của các chủ  thể  tham gia trong 
các quan hệ điều tra, KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Cơ sở 
phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của VKSND đó là các quyết định của  
cơ  quan điều tra, các hành vi của những người tiến hành tố  tụng trong hoạt 
động TTHS. Các quyết định và các hành vi đó có thể  được ban hành, thực 
hiện theo đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nước 



thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND, nhằm 
phát hiện những sai phạm, kịp thời đề  ra các yêu cầu, kiến nghị  các chủ  thể 
trong quá trình điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, khắc phục, 
sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ   an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng 
cấm được tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là  
một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực  
nhà nước của các cơ  quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm 
pháp luật vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức  
cụ  thể. Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ  an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng 
cấm  có thể  coi là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND  
nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật nói chung đối với các chủ thể trong 
quá trình giải quyết các vụ an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng cấm
 1.1.1.2 .  Khái niệm hàng cấm, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
        1.1.1.2.1.Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm được rất nhiều người sử  dụng trong đời sống kinh tế. Tuy 
nhiên, hiểu một cách chính xác về  bản chất của từ  này trong khoa học pháp 
luật hình sự thì chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm hiểu khái 
niệm hàng cấm chúng ta tìm hiểu thông qua ngữ  nghĩa của hai từ  cụ  thể: ­  
“hàng” là sản phẩm để  bán, ­ “cấm” là không cho phép làm việc gì đó hoặc  
 không cho phép tồn tại [ 51
   ]. T
  ừ đó hàng cấm được hiểu là những sản phẩm  

không cho phép tồn tại. 
Theo từ  điển Luật học giải thích: “hàng cấm là hàng hoá bị  Nhà nước  
 cấm kinh doanh [5 1
  , tr.319]. M
 
ột số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có  
đề  cập đến hàng cấm là hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh  
 [5 2
  , tr.16]. Hàng c
 
ấm còn được nhắc đến trong giải thích tội buôn lậu: buôn  
 lậu là buôn bán trốn thuế  hoặc hàng cấm [5 2
  ]. Tuy đ
 
ược nhắc đến nhiều  
nhưng chưa có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này. 


Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng 
 hoá Nhà nước cấm kinh doanh [ 52
   , tr.110]. Hàng c
 
ấm theo nghĩa rộng là loại  
hàng hoá bị  cấm kinh doanh dưới mọi hình thức. Bản chất của hàng cấm có 
thể được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.
 Dưới góc độ  xã hội, hàng cấm được hiểu phổ  biến nhất là những mặt  
hàng đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh  
doanh. Theo triết học Mác ­ Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thông  
qua hoạt động trao đổi, mua bán. Hàng hoá có thể  là hữu hình hoặc vô hình  
mà nhờ  vào tính chất của nó thoả  mãn nhu cầu của con người. Trong nền 

kinh tế thị trường, hàng hoá ngày càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản 
lý đối với các loại hàng hoá và các hoạt động kinh doanh liên quan đến hàng 
hoá ngày càng phức tạp, khó khăn hơn bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều của 
các loại hàng hoá gây ảnh hưởng xấu tới con người, 8 môi trường và xã hội. 
Từ  sự  phát triển của tự  do thương mại mà Nhà nước thống nhất quản lý 
những mặt hàng có tính chất đặc biệt, có những đặc tính riêng cần phải hạn  
chế  cách ly các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những  
mặt hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy định cấm tuyệt đối với những mặt  
hàng khi lưu thông hoặc sử  dụng có thể  gây nguy hại cho an ninh, quốc  
phòng, trật tự  an toàn xã hội, truyền thống văn hóa, môi trường và sức khỏe  
nhân dân, vì vậy Nhà nước cần phải độc quyền quản lý loại hàng hoá đó. 
 Trong xã hội gọi những hàng hoá này là “ hàng c
 
ấm”  hay 
   “hàng qu
 
ốc cấm”.   
Dưới góc độ  kinh tế  thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà  
nước thống nhất quản lý cấm các tổ  chức, cá nhân thực hiện các hoạt động 
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn bán  
hàng hóa gắn liền với hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ  giữa 
người với người trong quá trình kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng 
của cải vật chất xã hội nhằm mục đích thu về  một giá trị  lớn hơn giá trị  đã 
bỏ  ra ban đầu. Việc sản xuất hàng hóa là bắt nguồn từ  yêu cầu khách quan 
của sự phát triển kinh tế, đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế vận động của 


quá trình hoạt động kinh doanh. Qua các thời kỳ  phát triển kinh tế, xã hội 
lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng hoá được tự do 
sản xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do tính chất đặc thù của nó mà Nhà  

nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do 
những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá nhân, tổ  chức lén lút 
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ  yếu tố cấu thành tội phạm  
(CTTP) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ,  
vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng 
cấm vẫn chưa có bất cứ  văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống 
nhất. Trong quá trình giải quyết về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm, một  
vấn đề đặt ra đối với các cơ  quan chức năng là phải hiểu rõ thế  nào là hàng  
cấm và các loại hàng cấm để  từ  đó mới ra được những quyết định phù hợp,  
đúng đắn phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự 
kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng. 
Dưới góc độ  pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước 
quản lý và xử  lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương  
mại, đầu tư đều có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu  
tư và có các chế tài xử phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm. 
 Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác định:  “Căn c
  
ứ  vào điều kiện   
kinh tế  ­ xã hội của từng thời kỳ  và điều  ước quốc tế  mà Cộng hoà xã hội  
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể danh mục hàng  
hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế  kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có  
 điều kiện và điều kiện để  được kinh doanh hàng hoá đó ”. Đ
  ối với pháp luật  
về thương mại đầu tư, các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà 
được quy định thành danh mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh 
mục này do Chính phủ quy định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng  
hoá cấm kinh doanh cũng thay đổi. 
Nghị  định 185/2013/NĐ­CP của Chính phủ  ngày 15 tháng 11 năm 2013 
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, 



buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ  quyền lợi người tiêu dùng có giải  
 thích: “ Hàng c
 
ấm”  g
  ồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử  
dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam.
 Dưới góc độ pháp lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của  
tội phạm về kinh tế, bị xem là đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và  
kinh doanh đối với đối tượng này ở mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị 
pháp luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ về  hàng cấm, ngoài việc xem xét 
khái niệm hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các văn bản  
pháp luật quy định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết hàng cấm. Tuy nhiên, 
cho trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành, các 
quy định pháp lý về  hàng cấm còn chưa chỉ  ra khái niệm hàng cấm và chưa  
quy định cụ thể dấu hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều chỉnh 
tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những  
khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiểu để  nhận thức cho đúng về 
hàng cấm dưới góc độ pháp lý. 
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái 
niệm về  hàng cấm mà hàng cấm chỉ  được nhắc đến một cách chung chung. 
Để đưa ra 10 khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình  
sự cần chú ý một số nội dung cơ bản sau: 
 M  ột là ,   hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống nhất quản  
lý và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này. 
 Hai là ,   danh mục hàng cấm không cố  định mà có sự  thay đổi theo từng  
thời kỳ  khác nhau. Có nhiều loại hàng hoá có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng 
có những hàng hoá chỉ cấm tạm thời. 
 Ba là ,   hàng cấm có tác hại về  kinh tế, có khả  năng gây hại cho tính  
mạng, sức khoẻ  con người và  ảnh hưởng tới sự  phát triển kinh tế, văn hoá, 

chính trị của mỗi quốc gia. 
 Bốn là ,   tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định  
các mặt hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau. BLHS năm 2015, sửa đổi, 


bổ sung năm 2017 có nhiều điều luật quy định hành vi phạm tội liên quan đến 
hàng cấm ở các chương khác nhau, là đối tượng tác động của nhiều tội phạm 
khác nhau như: hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất  
phóng xạ, chất độc, văn hoá phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn lại chưa 
quy định cụ  thể   ở Điều luật nào khác thì được quy định tại Điều 191 BLHS  
năm 2015, sửa đổi, bổ  sung năm 2017 quy định về  tội tàng trữ, vận chuyển 
hàng cấm.
Như   vậy,  diện  hàng cấm  nói chung  rộng hơn  diện hàng  cấm là  đối 
tượng tác động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ  sung năm 2017.  
Nhìn nhận diện hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng 
cấm trên tất cả các lĩnh vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng 
tác động của các tội phạm cụ  thể  về  hàng cấm kể  trên. Vì vậy, từ  những 
 phân tích nêu trên và thực tiễn áp dụng pháp luật chúng ta nhận thức:  “Hàng
 
  
cấm gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử  dụng; hàng  
hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”.
   1.1.1.2.2.  Khái ni
 
ệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm 
  Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá  
mà Nhà nước cấm kinh doanh. Tàng trữ  hàng cấm là hành vi cất giữ  hàng 
cấm  ở  bất kỳ  chỗ  nào một cách trái phép. Nơi tàng trữ  có thể  là nơi  ở, nơi  
làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị 
trí nào khác mà người tàng trữ  đã chọn, không nhằm mục đích mua bán hay  

sản xuất ra hàng cấm khác hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác. Thời gian 
tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp 
lý. Nếu tàng trữ  hàng cấm cho người mà khác biết rõ người này buôn bán 
hàng cấm thì hành vi cất giữ  hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ  mà là  
hành vi giúp sức người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự 
về  tội buôn bán hàng cấm với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn  
bán, vận chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định  
chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý 


nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội  
theo hành vi đầy đủ), nếu cùng một loại hàng cấm.
 Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa 
chấp hoặc tiêu thụ  tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do  
người khác phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa  
chấp sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về  tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành 
vi tiêu thụ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm. Vận 
chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một cách  
trái phép. 
Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ địa 
điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy, 
đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ  phuơng thức 
nào (trừ  hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán, 
tàng trữ. Tuy nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường 
hợp quy định tại Điều 189 Bộ  luật Hình sự  2015, sửa đổi bổ  sung năm 2017. 
Nếu vận chuyển hàng cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán 
hàng cấm của người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận  
chuyển sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai  
trò giúp sức. Nguyên nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và 
buôn bán hàng cấm mang lại nguồn lợi kinh tế  rất lớn nên nhiều người, 

nhiều cá nhân, tổ chức hám lợi mà bất chấp những quy định của pháp luật để 
thực hiện. Đó đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ  vi  
phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà còn bị  coi là tội phạm và buộc phải  
xử lý, áp dụng chế tài hình sự. 
 Tuy nhiên, pháp    lu
  ật hình sự  Việt Nam chỉ  xem hành vi sản xuất, tàng  
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó  ở  mức độ 
nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cụ thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất, 
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm với số lượng lớn, thu lợi bất chính  
lớn hoặc đã bị  xử  phạt hành chính, hoặc bị  kết án về  một số  hành vi xâm 


phạm đến trật tự  quản lý kinh tế  được quy định trong Bộ  luật hình sự  như 
trong phần nghiên cứu dưới đây.
   1.1.1.2.3. Khái ni
 
ệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm   
Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là 
hiện tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi 
quốc gia, để  bảo vệ  lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán 
thương mại quốc tế  đều đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phòng 
ngừa và giảm bớt tác hại của loại tội phạm này. Tội phạm là hành vi nguy  
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ  luật hình sự, do người có năng lực 
trách nhiệm hình sự  hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố  ý 
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ  quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ  Tổ 
quốc, xâm phạm chế  độ  chính trị, chế  độ  kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, 
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ  chức, xâm 
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm 
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ  nghĩa mà theo quy định  
của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. 

Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm. Hành vi 
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để  được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn 
các yếu tố  theo quy định của pháp luật. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm 
được quy định tại Điều 191 thuộc chương XVIII ­ Các tội xâm phạm trật tự 
quản lý kinh tế của BLHS năm 2015. 
Để  tìm ra khái niệm chính xác về  tội này, cần tìm hiểu khái niệm của  
các cụm từ, thuật ngữ tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi  
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Từ  trước đến nay các văn bản có liên quan 
hay các Từ điển tiếng Việt có đề cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm  
từ: vận chuyển hàng cấm, tàng trữ hàng cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu 
hiểu một cách ngắn gọn: Tàng trữ, vận chuyển  hàng cấm trong BLHS là các  


hành vi cất giữ hàng cấm bằng bất kỳ hình thức nào, di chuyển hàng cấm từ 
 nơi này đến nơi khác bằng bấy kỳ hình thức nào [5 2
  ]. 
  
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên 
cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu 
cũng cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này. Các hoạt động 
sản xuất, kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước hết là do sự 
phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội dẫn đến sự phát triển của những  
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá trong nội địa không đồng nhất cả 
về  sức sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số  mặt 
hàng với tính chất đặc biệt có nguy cơ  gây nguy hại cho nền kinh tế  và cho 
sức khoẻ con người. Các loại hàng hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các 
cá nhân, tổ  chức bất chấp sự  quản lý của Nhà nước để  lưu thông hàng hoá  
loại này. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển  
hàng cấm tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan. 
Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thông 

hàng cấm luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về 
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và  
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những  
quốc gia có nền kinh tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương 
mại, đầu tư, kinh doanh trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ  thống mặt hàng 
lưu thông nội địa quy định nghiêm ngặt, chế  tài xử  phạt đối với những hoạt  
động lưu thông hàng hoá kém chất lượng, hàng hoá không được kinh doanh 
rất nghiêm khắc, do đó những mặt hàng cấm vĩnh viễn mới được áp dụng 
trong chế tài của luật hình sự  theo hướng quy định đối với hành vi lưu thông 
loại hàng hoá cụ thể như ma tuý, chất phóng xạ...Đối với các quốc gia khác,  
các quốc gia có nền kinh tế  kém phát triển hơn, ý thức chấp hành pháp luật 
của người dân còn hạn chế hơn, các hành vi lưu thông hàng cấm phức tạp và  
tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất là 


hình phạt đối với các hành vi lưu thông hàng hoá thuộc danh mục hàng cấm  
do Chính phủ quy định. 
Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ  sung năm 
2017 quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào  
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu  
không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 
250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ  luật này, thì bị  phạt tiền từ 
50.000.000   đồng   đến   300.000.000   đồng   hoặc   phạt   tù   từ   06   tháng   đến   03 
năm...”
. Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận 
 chuyển hàng cấm như sau:  T
  ội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành   
vi cất giữ  trái phép, vận chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm  
kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử  dụng, chưa được phép lưu hành, chưa  
được phép sử  dụng với số  lượng, trọng lượng hoặc giá trị  cụ  thể  mà pháp  

luật quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự  hoặc pháp nhân  
thương mại thực hiện với lỗi cố  ý, xâm phạm chế  độ  của nhà nước trong  
quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa nhất định.
   1.1.1.2.4 . Các d
 
ấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm  
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề  trung tâm của khoa 
học pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định: 
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự  bảo vệ và  
 bị tội phạm xâm hại [ 46
   , tr.86]. 
 
 
Một hành vi chỉ  bị  coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan  
hệ  xã hội được Luật hình sự  bảo vệ  quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể 
của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ 
nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như  đối với việc định tội danh và 
quyết định hình phạt trên thực tế. Khách thể  của tội tàng trữ, vận chuyển  
hàng cấm là trật tự  quản lý kinh tế, chế  độ  độc quyền của nhà nước trong 
quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cẩm mà pháp luật quy định. 


Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm 
hành vi tàng trữ  hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm. Tàng trữ  hàng 
cấm như đã phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những mặt hàng Nhà 
nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử  dụng, chưa được phép   lưu 
hành, chưa được phép sử dụng...trong người, trong nhà hoặc ở bất kỳ nơi nào 
không phụ thuộc và thời gian cất giữ dài hay ngắn [6, tr.301]. 
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa những mặt hàng Nhà nước cấm 
kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử  dụng, chưa được phép lưu hành, chưa 

được phép sử dụng...dưới bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm  
 khác mà không nhằm mục đích bán [ 4
  , tr.301]. 
 
 
­ Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là người từ đủ  16 tuổi 
trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại.
 ­ Mặt chủ quan của tội phạm: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được 
 thực hiện với lỗi cố ý . 
 1.1.2.  Đ
  ặc điểm  ap dung phap luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an
  ́
̣
́
̣
̉
́
̀
́ ̣ ́  
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện
  Hoạt   động   áp   dụng   pháp   luật   trong   KSĐT   cać   vụ   ań   tàng   trữ,   vận  
chuyển hàng cấm của VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau:
 Thứ nhất,    áp dụng pháp luật trong KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển  
hàng cấm là hoạt động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức năng 
thực hiện quyền công tố  và kiểm sát các hoạt động tư  pháp. Thông qua việc  

thực hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà nước, 
trực tiếp thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ 
chế  độ  XHCN, quyền làm chủ  của nhân dân, bảo vệ  tài sản của Nhà nước, 
 bảo vệ tính mạng, sức    khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công  
dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể 


và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử  lý nghiêm minh trước pháp 
luật.
VKSND thực hành quyền công tố  và kiểm sát việc tuân theo pháp luật 
trong việc điều tra vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và một số cơ quan 
khác được giao nhiệm vụ  tiến hành một số  hoạt động điều tra. Hoạt động 
thực hành quyền công tố  và KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm  
được quy định tại Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền 
hạn của VKSND trong giai đoạn điều tra:
­ Khởi tố  vụ  án, khởi tố  bị  can, yêu cầu cơ  quan điều tra khởi tố  hoặc  
thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
­ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ  quan điều tra tiến hành điều tra; 
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
­ Yêu cầu thủ  trưởng cơ  quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy 
định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì 
khởi tố về hình sự.
 ­ Quyết định áp dụng, thay đổi,    hủy    bỏ  biện pháp bắt, tạm giữ, tạm  
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết  
định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
 ­  Hủy    bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; tạm đình chỉ  
điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Với những quy định của pháp luật như  trên thì VKSND có quyền áp 
dụng mọi biện pháp cần thiết trong hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm 
bảo cho hoạt động điều tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm được 
tuân thủ đầy đủ  các quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố điều  
tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm được tuân theo quy định của pháp 
luật; bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng chính sách pháp luật.


 Thứ  hai,    áp dụng pháp luật trong KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển  
hàng cấm của VKSND phải tuân thủ  những quy định về  trình tự, thủ  tục do 
pháp luật quy định.
Hoạt động điều tra cac vu an tàng tr
́
̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm của cơ 
quan điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động 
tư pháp của VKSND, đây là một quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của 
hai cơ quan: Công an ­ VKS, là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết  
định trong quá trình giải quyết những vụ án hình sự. Chính hoạt động KSĐT  
có vai trò quan trọng như  vậy nên pháp luật nói chung và pháp luật tố  tụng  
hiện hành nói riêng đã quy định rất chặt chẽ  việc áp dụng pháp luật trong 
hoạt động kiểm sát điều tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm. Pháp  

luật TTHS quy định chặt chẽ  trình tự, thủ  tục của các hoạt động điều tra, 
 hoạt động giám sát như:    khởi tố vụ án; khởi tố bị can; các biện pháp điều tra;  
các biện pháp ngăn chặn; nhập, tách vụ án hình sự; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ 
án; thời hạn điều tra. 
Tóm lại, tất cả các bước trong quá trình điều tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận 
chuyển hàng cấm, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND  
 đều được    quy định chặt chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện  
hành quy định.
 Thứ  ba , quy
 
ết định áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKSND được  
pháp luật bảo đảm thi hành.
Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành là giai 
đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật, nó có ý nghĩa hết sức quan trọng.  
Khi một quyết định áp dụng pháp luật sau khi ban hành mà không được thi  
 hành trên  thực tế  thì  cũng   đồng nghĩa với việc vô hiệu    hóa    pháp luật, vô  
 hiệu    hóa    cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến  
pháp chế XHCN. 
Các quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận 
 chuyển hàng cấm đã được Bộ  luật hình sự     năm 1999, Bộ  luật tố  tụng hình  


×