¸p dông ph¸p luËt trong thùc hµnh
quyÒn c«ng tè ë giai ®o¹n ®iÒu tra c¸c vô ¸n h×nh sù
cña viÖn kiÓm s¸t nh©n d©n tØnh Hµ Nam
hµ néi - 2009
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ
án hình sự của viện kiểm sát nhân dân
8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân 8
1.2. Quy trình áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 36
1.3. Các yếu tố bảo đảm việc áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự 43
Chơng 2: thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh hà nam
53
2.1. Những kết quả đạt đợc về áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam 2004 đến 2008 53
2.2. Những hạn chế về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hà Nam từ năm 2004 đến năm 2008 và nguyên nhân của
những hạn chế đó 70
Chơng 3: yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lợng áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của
viện kiểm sát nhân dân tỉnh hà nam 86
3.1. Quan điểm và yêu cầu khách quan nâng cao chất lợng áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam 86
3.2. Các giải pháp cơ bản nâng cao chất lợng áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam 91
Kết luận
125
2
danh môc Tµi liÖu tham kh¶o
126
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL : Áp dụng pháp luật
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
BLHS : Bộ luật hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
ĐTV : Điều tra viên
KSV : Kiểm sát viên
PL : Pháp luật
QCT : Quyền công tố
THQCT : Thực hành quyền công tố
TNHS : Trách nhiệm hình sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKS : Viện kiểm sát
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XH : Xã hội
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo qui định tại điều 137 Hiến pháp 1992 và điều 1 Luật Tổ chức VKSND
thì VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Như vậy, VKS có hai chức năng, trong đó thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một nhiệm vụ hết sức quan trọng,
có thể nói là hoạt động trung tâm của ngành kiểm sát; hầu hết các vụ án bị
tuyên oan sai, bỏ lọt đều có nguyên do từ việc không làm tốt chức trách nhiệm
vụ hoặc nghiệp vụ non yếu của Kiểm sát viên, Điều tra viên ở giai đoạn điều
tra. Chính vì thế Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ đạo:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiếm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm
đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác [2].
Ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 48-NQ/TW về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 có ghi: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng đảm bảo thực hiện tốt chức năng
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [3]. Ngay sau đó, ngày 2 tháng 6 năm
2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 xác định: “Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện
công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. Mục tiêu
là “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa” [4].
Sự quan tâm chỉ đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát tại các Nghị quyết nêu
trên cho thấy, VKS là một cơ quan có vị trí quan trọng trong hệ thống cơ quan
5
tư pháp, là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Hoạt động thực hành quyền công tố của VKS theo đúng
qui định của pháp luật sẽ giúp cho cơ quan điều tra xây dựng giả thuyết điều
tra đúng hướng, đảm bảo cho công tác khởi tố, bắt giữ, giam; thay thế, hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn; các quyết định tố tụng như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ
án, truy tố…được đúng người, đúng tội, tránh oan sai, không bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội. Kết quả điều tra vụ án hình sự đúng đắn là điều kiện tiên
quyết thiết thực, trực tiếp cho việc thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét
xử, và cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, bản án được nhân dân đồng
tình ủng hộ, phát huy tác dụng giáo dục phòng ngừa.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy, trong những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đã
có nhiều cố gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao và đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trên địa bàn tỉnh, phục vụ tích cực nhiệm vụ chính
trị địa phương. Nhìn chung được cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân địa
phương đánh giá tốt, vị thế của ngành ngày càng được nâng lên.
Song, so với yêu cầu cải cách tư pháp, công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Hà Nam vẫn còn những
hạn chế, thiếu sót, nhất là trong giai đoạn điều tra: Tình trạng khởi tố, bắt
giam oan người vô tội chưa được ngăn chặn dứt điểm, xâm phạm quyền tự
do dân chủ, thân thể của công dân dẫn đến khiếu kiện kéo dài, có vụ án
phải đình chỉ điều tra do không phạm tội, có những trường hợp mặc dù
Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can nhưng sau đó phải ra
quyết định đình chỉ vụ án vì hành vi không cấu thành tội phạm; không ít vụ
án bị trả lại để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng vì thiếu
chứng cứ hoặc vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến vụ án bị kéo dài thời hạn
6
giải quyết; một số Kiểm sát viên không nắm vững những qui định của pháp
luật, còn lúng túng trong thao tác chuyên môn, không đưa ra được các yêu
cầu điều tra sát thực, không bám sát tiến độ điều tra, trình độ đánh giá
chứng cứ còn hạn chế và thiếu toàn diện, tỷ mỷ dẫn đến nhiều vụ án gặp
không ít khó khăn cho những người tiến hành tố tụng ở giai đoạn sau, làm
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên
địa bàn.
Những yếu kém trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Trong đó chủ yếu là do ý thức pháp luật, bản lĩnh nghề
nghiệp và năng lực áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra, thực hành
quyền công tố của Điều tra viên, Kiểm sát viên còn nhiều bất cập, yếu kém.
Đặc biệt nhận thức về công tố, quyền công tố của không ít Kiểm sát viên còn
hời hợt, chưa sâu nên trong nhiều trường hợp không phát huy được chức
năng, nhiệm vụ của ngành.
Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ nhận thức việc áp dụng pháp luật trong
hoạt động công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một trong những
vấn đề quan trọng, cần có sự quan tâm hơn nữa về cả phương diện lý luận lẫn
thực tiễn để việc áp dụng pháp luật trong hoạt động thực hành quyền công tố
tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đạt kết quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp. Vì những lý do này, học viên chọn đề tài: “Áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học
luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật
trong hoạt động thực hành quyền công tố được công bố trên các tạp chí chuyên
ngành, trong các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, sách tham khảo và trong các
đề tài nghiên cứu cấp bộ do Viểm sát nhân dân tối cao thực hiện. Đáng chú ý
một số công trình như:
7
Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay”, do Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hiện năm 1999; ''Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt
động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên
khâu trong công tác kiểm sát hình sự'', đề tài nghiên cứu cấp bộ, do Ngô
Văn Đọn chủ biên, năm 2004; ''Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự'', Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, 2006; ''Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp'', của Lê
Hữu Thể chủ biên, năm 2008.
Luận án tiến sỹ “Quyền công tố ở Việt Nam”, của nghiên cứu sinh Lê Thị
Tuyết Hoa thực hiện năm 2002; luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp luật trong
kiểm sát việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn của cơ quan điều tra trong tố
tụng hình sự Việt Nam”, của Nguyễn Đức Thanh, năm 2004; luận văn thạc sỹ
“Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, của Trịnh Duy Tám, năm
2005; luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án
ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, của Bùi Mạnh
Cường, năm 2007; luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp luật thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với tội phạm
về tham nhũng ở Thanh hóa”, của Lê Xuân Tiến, năm 2008.
Bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí có: “Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải
cách tư pháp” của Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
1/2003; “Đặc trưng của áp dụng pháp luật hình sự " của Chu Thị Trang Vân
đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2006; “Cơ quan thực hành
quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của Đỗ Văn Đương,
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7/2006; bài “Tổ chức và hoạt động của
viện công tố ở Việt Nam trong giai đoạn cải cách tư pháp” của Nguyễn Đức Mai,
đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2007; bài “Viện công tố thay thế
8
Viện kiểm sát nhân dân sẽ được tổ chức và hoạt động như thế nào” của Thái Vĩnh
Thắng, đăng trên Tạp chí Luật học, số 2/2008; “Viện kiểm sát nhân dân trong
điều kiện của nhà nước pháp quyền” của Nguyễn Đăng Dung, đăng trên Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2008.
Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở những giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát về áp dụng pháp luật
trong hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam. Luận văn là công trình nghiên
cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ. Các công trình nghiên
cứu đã được thực hiện là nguồn tư liệu phong phú cho học viên thực hiện luận
văn tốt nghiệp cao học của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự ở 2 cấp Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam từ năm 2004
đến 2008.
4. Mục đích nhiệm vụ của luận văn
- Mục dích của luận văn
Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn ADPL trong hoạt động công tố
ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, nhằm đề xuất những phương hướng và
giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả ADPL trong hoạt động công tố ở giai đoạn
điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, góp phần cùng với các cơ quan tư pháp trong tỉnh bảo vệ tốt hơn quyền,
lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và công dân, tăng cường pháp chế
XHCN.
- Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
9
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân theo qui định của
pháp luật. Trong đó tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, qui trình và các yếu
tố đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong công tác thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân;
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát,
đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế trong đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải
cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác - Lê
nin theo quan điểm phát triển toàn diện, lịch sử cụ thể. Đồng thời, kết hợp với
các phương pháp nghiên cứu khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và
có hệ thống về áp dụng pháp luật trong hoạt động THQCT ở giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, nên có một số
đóng góp mới sau đây:
- Đánh giá khách quan về thực trạng, làm rõ nguyên, những hạn chế của hoạt
động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Hà
Nam.
10
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong
THQCT ở gai đoạn điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
và cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho Điều tra
viên, Kiểm sát viên trong Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nhất là những
Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp
để nâng cao trình độ lý luận và thao tác chuyên môn. Đồng thời kết quả nghiên
cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên cứu giảng
dạy, cho học viên, sinh viên các cơ sở đào tạo luật quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật và đặc điểm của áp dụng pháp luật
- Khái niệm áp dụng pháp luật:
Pháp luật XHCN Việt Nam là hệ thống các qui tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích
của nhân dân lao động, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc
chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục
và cưỡng chế; thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội vào hoạt động xây
dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh [11, tr.337].
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc thực
hiện pháp luật. Đó chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên
nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện PL, tạo điều kiện thuận lợi để các
chủ thể quan hệ PL thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo
quy định của pháp luật. Thông hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp
luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ
thể được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật
và tội phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ XH
được PL bảo vệ trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH. Có thể nói, áp
dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước và
chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.
Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước của áp dụng pháp luật
thể hiện ở chỗ hoạt động này chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhân
viên nhà nước có thẩm quyền tiến hành, không theo ý chí của các chủ thể mà
12
là theo quy định của pháp luật. Quyết định áp dụng quy phạm pháp luật có hiệu
lực pháp lý thi hành và được Nhà nước bảo đảm thi hành. Chính vì vậy, áp dụng
pháp luật còn là một hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
* Áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp sau:
Thứ nhất: Trong trường hợp cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
nước, hoặc áp dụng chế tài xử lý đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp
luật. Đây là trường hợp áp dụng pháp luật được áp dụng phổ biến đôí với
các tội phạm hình sự, các vi phạm hành chính.
Thứ hai: Khi quan hệ pháp luật với những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý
cụ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
Chẳng hạn, Hiến pháp và Bộ luật lao động có ghi: "lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân", nhưng nếu không có sự hoạt động ra quyết định
tuyển dụng lao động của các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động thì quan hệ lao
động cũng không mặc nhiên phát sinh.
Thứ ba: Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Đây
là trường hợp quan hệ phát luật đã phát sinh, nhưng quyền nghĩa vụ của các
bên không được thực hiện và có tranh chấp, ví dụ như: tranh chấp về hợp
đồng thương mại, lao động, thừa kế.v.v.
Thứ tư: Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải
tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ
đó; hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại của một số vụ việc, sự kiện thực tế.
Chẳng hạn như việc Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn, xác nhận di
chúc, chứng thực thế chấp cho công dân theo qui định.
Từ những vấn đề phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy: “Áp dụng PL là
một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan
có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể PL thực hiện những
qui định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các qui định của pháp luật ra
các quyết định áp dụng trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội” [11,
tr.500].
13
- Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất: ADPL là hoạt động mang tính tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước. Hoạt động ADPL chỉ do những cơ quan nhà nước hay nhà chức
trách có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật qui định mỗi cơ quan nhà nước hay
nhà chức trách khác nhau có thẩm quyền ADPL khác nhau, như Thẩm phán
có quyền xét xử ra bản án, Kiểm sát viên có quyền thực hành quyền công tố,
đề ra yêu cầu điều tra hoặc tự mình tiến hành một số hoạt động điều tra trực
tiếp…Trong trường hợp đặc biệt một số tổ chức xã hội được nhà nước uỷ
quyền cũng được ADPL. Như vậy pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ADPL thực hiện chức năng của mình. Việc
ADPL được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của nhà nước được thể hiện
trong pháp luật.
Thứ hai: Hoạt động áp dụng pháp luật phải được tiến hành theo các thủ
tục pháp lý chặt chẽ. Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của ADPL, chủ
thể bị áp dụng pháp luật có thể được hưởng những lợi ích rất lớn hoặc chịu
những hậu quả bất lợi nghiêm trọng, nên pháp luật luôn xác định rõ ràng cơ sở,
điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quá trình ADPL.
Bởi vậy mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong
quá trình ADPL phải tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định có tính thủ tục đó.
Thứ ba: Áp dụng PL là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với
những quan hệ XH nhất định. Đối tượng của hoạt động ADPL là những quan
hệ XH cần đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong
qui phạm PL. Bằng hoạt động ADPL những qui phạm PL nhất định được cá
biệt hóa vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống.
Thứ tư: Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi lẽ những
tình huống dự liệu qui định trong các qui phạm pháp luật chỉ là những dấu
hiệu chung nhất, có tính khái quát cao, trong khi đó những tình huống, sự kiện
pháp lý diễn ra trong thực tế lại hết sức phong phú, đa dạng nên hoạt động
ADPL có tính thực tiễn cao và đòi hỏi tính sáng tạo. Các trường hợp pháp luật
14
chưa qui định hoặc qui định chưa rõ thì có thể vận dụng sáng tạo bằng cách
ADPL tương tự để giải quyết, việc vận dụng phải phù hợp với qui định chung
của pháp luật. Để làm được điều đó người ADPL không thể máy móc, rập
khuôn mà đòi hỏi phải có ý thức pháp luật cao, có kiến thức tổng hợp, có kinh
nghiệm cuộc sống phong phú. Như vậy:
“ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được
thực hiện thông qua những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách
hoặc các tổ chức XH khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những
qui phạm PL vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể”
[11, tr.503].
* Hình thức thể hiện của ADPL: Hình thức thể hiện chính thức và chủ yếu
của hoạt động ADPL là văn bản ADPL. Văn bản ADPL được thể hiện trong
những hình thức xác định như: Bản án, quyết định, lệnh. Căn cứ vào nội dung
nhiệm vụ của văn bản ADPL, có thể chia thành hai loại: Văn bản xác định
quyền, nghĩa vụ và văn bản bảo vệ PL chứa đựng những biện pháp trừng phạt,
cưỡng chế nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm PL.
Với tính cách là một mắt xích của cơ chế điều chỉnh PL, văn bản ADPL là văn bản
pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc các tổ chức XH được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở
những qui phạm PL, nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của cá
nhân, tổ chức hoặc xác định các biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi
phạm PL [11, tr.505].
1.1.2. Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và các đặc điểm của nó
1.1.2.1. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự
- Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự:
“Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án theo qui định của
BLTTHS từ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự. Quá
trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua những giai đoạn khác nhau, mỗi
giai đoạn thể hiện một hướng nhất định của hoạt động tố tụng” [39, tr.9-10].
15
Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ
riêng mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng.
Có thể được hiểu: “Giai đoạn tố tụng là bước của quá trình tố tụng hình sự
tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng
loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc” [5].
Luật tố tụng hình sự Việt Nam chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn bao
gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy
tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối
với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các
giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt
động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử,
có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn Tố tụng hình sự, mà
chỉ tập trung vào nghiên cứu giai đoạn điều tra để làm rõ nội dung thực hành
quyền công tố ở giai đoạn này đối với các vụ án hình sự.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng
hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến
chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự cho đến khi Cơ quan điều tra chuyển toàn bộ hồ sơ tài
liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ
điều tra và kéo theo các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ
án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng
được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được
Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các
lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối
với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không
quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 16 tháng kể từ khi
16
các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối
với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu trên thì
Viện trưởng VKSND Tối cao có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời
hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ
án, Viện trưởng VKSND Tối cao ấn định thời gian gia hạn.
Giai đoạn điều tra có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc quyết định
truy tố của VKS và xét xử của Tòa án. Mọi quyết định của Tòa án về tội phạm
và người thực hiện tội phạm đều chủ yếu phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã
thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ
quan tiến hành tố tụng mà chủ yếu là Cơ quan điều tra, có quyền áp dụng mọi
biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người
phạm tội, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và
điều kiện phạm tội qua đó kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp
phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn của tố
tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra, bao gồm: Cơ quan điều tra trong Công
an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của
VKSND Tối cao và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra, sử
dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ
án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra
xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị
các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan.
- Đặc điểm giai đoạn điều tra: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự
nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn bắt đầu từ khi Cơ quan
tiến hành tố tụng có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến
17
khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị
truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp
do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người phạm tội,
làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình
tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định
nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực
hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra là
CQĐT, Viện kiểm sát hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến
hành thu thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu
trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động
khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra thẩm
định lại và chuyển hóa theo trình tự tố tụng thì mới được coi là chứng cứ để
chứng minh tội phạm. Đối với tài liệu, đồ vật do người bào chữa thu thập
được trong giai đoạn điều tra phải giao nộp cho cơ quan điều tra hoặc VKS.
Việc giao nhận tài liệu đồ vật giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố
tụng phải được lập biên bản theo qui định tại diều 95 BLTTHS.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện
pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy
thuộc vào tính chất, mức độ, hậu quả của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó
là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng, người bị tạm giữ, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến vụ án; đối chất, nhận dạng; khám xét, thu giữ kê biên tài sản; khám
nghiệm, thực nghiệm điều tra, giám định.v.v. Các biện pháp được áp dụng
phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự.
1.1.2.2. Quyền công tố, thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân
dân ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
* Khái niệm quyền công tố
18
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất nhà nước, là bộ
phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có
trong tất cả các kiểu nhà nước. Khi mới có nhà nước, quyền công tố chỉ giới
hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Cùng với sự
phát triển của XH, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của
nhà nước đối với XH và cá nhân ngày càng có những thay đổi, giữa lợi ích
công và lợi ích tư có mối liên quan và tác động qua lại với nhau, chính vì vậy
cần có sự can thiệp của nhà nước vào đời sống cá nhân, thực hiện chức năng
mang bản chất XH của nhà nước. Từ đó vai trò của công tố ngày càng được
đề cao.
Ở Việt Nam, chế định "quyền công tố" chưa được nghiên cứu một cách toàn
diện và giải thích chính thức trong văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, cho nên chưa có khái niệm chính thống về quyền
công tố. Mặc dù trên thực tế quyền năng công tố đã được thực hiện: Từ năm
1945 đến năm 1959, khi đó "quyền công tố" nằm trong hệ thống tòa án do các
Thẩm phán buộc tội đảm nhiện, từ năm 1960 đến nay "quyền công tố" do
VKSND đảm nhiệm. Từ đó có thể thấy rằng khái niệm "quyền công tố"
không phải là vấn đề mới, nhưng hiện nay có nhiều quan điểm nhận thức khác
nhau về vấn đề này:
"Công tố" là một từ ghép hán việt. Theo định nghĩa của từ điển tiếng việt thì
"tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm
pháp của người khác", còn "công" có nghiã là "thuộc về nhà nước chung cho
mọi người, khác với tư"; công tố là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp
và phát biểu ý kiến trước tòa án" [42, tr.973, 200, 204]. Từ điển luật học ghi
công tố là "quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội", quyền công tố là "quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với
người phạm tội" [41, tr.188].
Có thể thấy: Công tố là một khái niện rộng, bao gồm các nội dung: Điều tra,
truy tố, buộc tội người phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án. Trong
19
công tố, bên thực hiện buộc tội là nhân danh nhà nước, đối tượng bị nhà nước
cáo buộc là các chủ thể có hành vi vi phạm PL. Công tố, vì thế được hiểu là
"Sự cáo buộc của nhà nước đối với người đã có hành vi vi phạm PL trước
Tòa án"[16, tr.14]. Đó là hình thức nhân danh lợi ích công để tố cáo những
hành vi vi phạm PL ra trước Tòa án để xét xử. Khác với khái niệm tư tố được
hiểu là tự mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để tố cáo khởi kiện ra tòa
án, đề nghị tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình.
Thuật ngữ "quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp 1980,
sau đó tại Hiến pháp 1992, Bộ luật tố tụng hình sự 1998, Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Luật tổ chức VKSND năm
1992, Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Như trên đã đặt vấn đề, do chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải
thích chính thức nội dung quyền công tố nên có nhiều quan điểm khác nhau
về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể tham gia thực hành quyền
công tố. Nghiên cứu các tài liệu trong các sách tham khảo, một số tạp chí
chuyên ngành có thể thấy một số quan điểm về quyền công tố như sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động kiểm sát tuân theo PL
đều là thực hành quyền công tố. Theo quan điểm này công tố không phải là
một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một
hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo PL [27]. Có thể thấy rõ
những người theo quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND được
qui trong Luật tổ chức VKSND năm 1981 và 1992 để xem xét quyền công tố.
Mặt khác quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhà tố tụng
hình sự học Liên xô trước đây. Nếu hiểu quyền công tố như vậy là quá rộng
và chưa chính xác. Bởi vì, chức năng công tố và chức năng kiểm sát tuân theo
PL hoàn toàn độc lập và song song tồn tại.
- Quan điểm thư hai cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao
cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên
tòa (thực hành quyền công tố) [37, tr.86-88]. Quan điểm này đã nhấn mạnh vai
20
trò duy nhất của VKS trong thực hiện quyền công tố theo qui định của pháp
luật tố tụng hình sự, mà cũng chỉ ở giai đoạn xét xử sơ thẩm mà thôi.
Đây là quan điểm đã nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố
và đã quá quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố, không phản
ánh được đầy đủ bản chất của quyền công tố. Vì, "hoạt động truy tố và buộc tội
của VKS tại phiên tòa chỉ là một số nội dung của hoạt động thực hành quyền
công tố" [35] hay nói đúng hơn đó chỉ là một trong số các quyền hạn của VKS.
Không thể nói quyền công tố chỉ giới hạn ở "một khúc" như vậy.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: Quyền công tố là quyền đại diện cho nhà
nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự PL ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi
ích nhà nước, bảo vệ trật tự PL [38, tr.84-87]. Những người theo quan điểm
này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và PL, được thể hiện
đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của
XH, của các ngành luật quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính. Sự tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố
tụng đó là do nhu cầu khách quan, vì nhà nước không thể không thể hiện
quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm PL và sự hiện diện
công tố như một điều kiện bảo dảm tính hiệu quả của việc giải quyết các vi
phạm PL của cơ quan tài phán. Chẳng hạn trước đây trong lĩnh vực dân sự,
hành chính, lao động của chúng ta thể hiện rất rõ: Như tại khoản 4 Điều 34
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 qui định:" Viện kiểm
sát có quyền khởi tố vụ án dân sự vì lợi ích chung", hoặc Điều 18 pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 qui định: "Viện kiểm sát có
quyền khởi tố vụ án hành chính nếu không ai khởi kiện đối với các quyết định
hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần". Từ
đó cho thấy, khái niệm quyền công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm
công tố nhà nước, công tố XH và tư tố.
21
Cho thấy, quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi của
quyền công tố, dẫn đến sự xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình
sự và các lĩnh vực tố tụng khác; đồng nhất quyền công tố với các quyền khác của
VKS trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế, lao động, dân sự.
- Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao
cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và
áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội [47]. Nói cách khác quyền
công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự.
Hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm này đã dẫn đến sự nhầm lẫn
giữa các hoạt động buộc tội, xét xử và bào chữa trong tố tụng hình sự, hơn
nữa không chỉ VKS là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố mà cả Cơ
quan điều tra, Tòa án, Thi hành án đều thực hiện quyền công tố và quyền
công tố được tiến hành trong mọi giai đoạn tố tụng từ khởi tố đến thi hành án.
- Quan điểm thứ năm cho rằng: Quyền công tố bao gồm: quyền khởi tố, điều
tra vụ án, quyền truy tố và buộc tội bị cáo trước tòa án. Đại diện cho quan
điểm này là các luật gia theo truyền thống PL của Pháp. Quyền công tố luôn
gắn với việc buộc tội nhân danh công quyền. Do vậy quyền công tố chỉ được
thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể
tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố bao gồm Cơ quan điều tra và
Viện công tố. Riêng quyền truy tố kẻ phạm tội ra tòa và thực hành quyền
buộc tội nhân danh nhà nước tại phiên tòa chỉ thuộc về Viện công tố. Quyền
công tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các lợi ích công mà cả lợi ích cá
nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại [35, tr.28].
- Quan điểm thư sáu cho rằng:
Quyền công tố là quyền của nhà nước đưa các việc làm phạm pháp liên quan
đến lợi ích chung ra tòa án để xét xử, vì nhà nước nhân danh XH duy trì trật
tự chung bằng PL. Sự can thiệp của nhà nước vào các việc phạm pháp là do
nhu cầu duy trì mọi xung đột XH gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm
của nhà nước phải đứng ra điều hòa - đó là bản chất của quyền lực công [14,
tr.338].
22
Quan điểm này suy đến cùng cũng giống như quan điểm thứ ba, vì theo họ mọi
hành vi xâm phạm đến trật tự chung đều phải được đưa ra công đường xử lý bằng
con đường tài phán và như vậy không chỉ riêng ở lĩnh vự hình sự mà bao gồm cả
lĩnh vực phi hình sự. Vừa quá rộng, vừa không đảm bảo cơ sở thực tiễn.
Trên đây là một số quan điểm khác nhau về quyền công tố. Mỗi quan điểm
đều có những nhân tố hợp lý riêng. Tuy nhiên nhìn từ nhiều góc độ như quan
điểm chỉ đạo của Đảng, những qui định của PL, thực tiễn hoạt động của Tòa án,
VKSND, thì bên cạnh đó vẫn còn những yếu tố bất cập như đã phân tích: Hoặc
là đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát tuân theo PL của VKS, mở
rộng phạm vi quyền công tố; hoặc là coi quyền công tố là một quyền năng, một
hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo PL trong tố tụng hình sự, xem
nhẹ bản chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của VKS nhân
danh quyền lực công; hoặc quá thu hẹp phạm vi quyền công tố.
Theo Học viên để làm rõ khái niệm quyền công tố cần phải dựa trên những cơ
sở, lập luận sau đây:
Một: Quyền công tố là quyền của nhà nước, thuộc phạm trù lịch sử, nó xuất
hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và thay đổi theo bản chất nhà nước.
Có thể hiểu: Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy
cứu TNHS đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về nhà nước, được nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện, ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát,
nhằm phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm
được điều này, cơ quan công tố (Viện kiểm sát) phải có trách nhiệm bảo đảm
việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm
tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội đó trước phiên tòa [35, tr.40].
Hai: Quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự, mà không có
trong lĩnh vực tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. "Hoạt động công
tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ khi phát hiện, khởi tố vụ án đến
truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tòa"[43]. Trong tố tụng hình sự luôn tồn
23
tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa (gỡ tội) và xét xử. Nội dung
quyền công tố là buộc tội, truy cứu TNHS đối với người phạm tội và luôn gắn
với quyền tài phán của Tòa án. Tuy nhiên trong một số trường hợp nếu vụ án
bị đình chỉ theo điều 105, 107 BLTTHS; điều 19, 25 và điều 69 BLHS thì
quyền công tố cũng bị triệt tiêu và thực hành quyền công tố cũng chấm dứt.
Ba: Như trên đã phân tích, tố tụng hình sự có ba chức năng, trong đó buộc tội
và gỡ tội đối trọng nhau, còn cơ quan tài phán không thể "vừa đá bóng vừa
thổi còi", tức là không thể vừa thực hành quyền công tố vừa xét xử, cho nên
quyền công tố phải do một cơ quan độc lập đảm nhận thực hiện, ở nước ta
hiện nay là VKS. Mặt khác theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, và các qui định
trong Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức VKSND thì "cơ chế công tố gắn
với hoạt động điều tra" [10, tr.127] và hoạt động xét xử. "Trước mắt, VKSND
giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp" [4] cho nên có thể khẳng định quyền công tố chỉ được
thực hiện bởi một cơ quan duy nhất là VKS, không có cơ quan nhà nước nào có
thể thay thế được. Chả thế mà ngay từ năm 1967, khi kết luận về công tác của
ngành kiểm sát đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban thường vụ quốc hội
nhấn mạnh: Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để
sử dụng quyền công tố. Bắt, giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng PL hay không, có đúng đường lối chính sách của Đảng hay
không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm cho tốt.
Và, học viên cũng đồng ý với quan điểm cho rằng:
Quyền công tố như một sợi dây quyện chặt vào suốt quá trình tố tụng về vụ án
mà nòng cốt là việc đưa vụ án ra tòa. Việc chia cắt hay lấy một vài quyền
năng thuộc nội dung quyền công tố và cho rằng có nhiều cơ quan thực hành
quyền công tố là sai lầm không thể chấp nhận được, không phải chủ thể nào
có quyền khởi tố vụ án hình sự cũng đều là chủ thể thực hành quyền công tố
mà phải xác định chủ thể nào được giao nhiệm vụ đưa vụ án ra tòa, thì chủ thể
ấy chính là cơ quan thực hành quyền công tố [16, tr.27].
24
Từ những phân tích, lý giải trên có thể hiểu: Quyền công tố ở Việt Nam là
quyền của nhà nước CHXHCN Việt Nam giao cho Viện kiểm sát, căn cứ vào
những qui định của PL để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm
tội và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án, bảo đảm việc truy tố đúng người,
đúng tội, đúng PL; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
* Đối tượng, phạm vi và nội dung quyền công tố
- Đối tượng quyền công tố: Là cái mà QCT tác động vào nhằm đạt được mục
tiêu cụ thể nào đó như giữ vững an ninh chính trị, trật tự trị an toàn XH; trừng
trị, giáo dục người phạm tội… Do có nhiều quan điểm khác nhau về quyền
công tố nên ứng với nó cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng
QCT. Chẳng hạn:
Quan điểm đồng nhất quyền công tố với hoạt động kiểm sát tuân theo PL thì
đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ PL của tất cả các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Trong khi đó
bản chất của hoạt động kiểm sát tuân theo PL và của QCT là hoàn toàn khác
nhau, vì kiểm sát tuân theo PL là việc kiểm tra giám sát tính có căn cứ và hợp
pháp của quyết định hoặc hành vi tố tụng, còn QCT là việc trừng trị những
hành vi phạm tội.
Quan điểm coi quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước để đưa các vụ
việc vi phạm trật tự PL ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ
trật tự PL và quan điểm coi quyền công tố là quyền của nhà nước cáo buộc
đối với cá nhân, tổ chức XH đã vi phạm PL cho rằng: Đối tượng của quyền
công tố là các hành vi vi phạm PL.
Quan điểm coi quyền công tố là quyền của nhà nước nhân danh xã hội truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành
vi vi phạm PL liên quan đến lợi ích chung quan niệm: Đối tượng của quyền
công tố là tội phạm và những vụ việc xâm phạm lợi ích chung trong lĩnh vực
dân sự, lao động, kinh tế, hành chính.
Từ nhận thức về quyền công tố như đã nêu ở phần trên học viên cho rằng:
Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước - nhân danh công quyền để truy
25