LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyên Văn Tâm, học viên lớp Cao học Luật khóa 25 Trường
Đại học Vinh, tôi xin cam đoan đây bản luận văn này là công trình của riêng tôi.
Tất cả kết quả nêu trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nàokhác. Các số liệu, ví dụ được nếu trong luận văn được lấy từ nguồn rõ
ràng bảo đảm tính trung thực chính xác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật và của Trường Đại học
Vinh.
Vậy tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Khoa luật xem xét để tôi được
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN VĂN TÂM
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi; Các kết
quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu
khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ, bảng kê, và trích dẫn trong luận văn
bảo đảm tính chính xác và trung thực, không gian dối hay bịa đặt. Tôi đã hoàn
thành tất các môn học và hoàn thành tất cá các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Trường Đại học Vinh – Nghệ An.
NGƯỜI CAM ĐOAN
………………………..
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, em đã nhận
được sự động viên, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh
đạo, các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Em xin trân trọng cảm ơn tới các thầy cô trong Ban lãnh đạo, các Giáo
sư, Tiến sĩ, giảng viên của Trường Đại học Vinh.
Xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo trường, các anh, chị, đồng nghiệp
của các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An đã cộng tác, cung
cấp thông tin, số liệu, cho ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong
quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.
…………., Ngườ i hướ ng dẫn khoa h ọc đã tận tâm bồi dưỡ ng kiến thức,
phươ ng pháp nghiên cứu và trực tiếp giúp đỡ, độ ng viên để em hoàn thành
luận văn này.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, song
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được
những lời chỉ dẫn của các thầy giáo, cô giáo, ý kiến đóng góp trao đổi của các
bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày ....tháng .....năm 2020
Tác giả
………………………..
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
KSĐT
Viết đầy đủ
Kiểm sát điều tra
BLHS
Bộ luật hình sự
CQCSĐT
Cơ quan cảnh sát điều tra
CQĐT
Cơ quan cảnh sát điều tra
CSĐT
Cảnh sát điều tra
ĐTV
Điều tra viên
KSV
Kiểm sát viên
TAND
Tòa án nhân dân
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TPVTTXH.
Tội phạm về trật tự xã hội
TTATXH
Trật tự an toàn xã hội
TTXH
Trật tự xã hội
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định:
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND 2014
thì VKSND vẫn giữ chức năng kiểm sát điều tra. Việc ap dung phap luât trong
́ ̣
́
̣
kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát
nhân dân cấp huyện góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được
điều tra, xử lý kịp thời.
Thời gian qua, với s ự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo
cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
đáng tự hào.
Những thành tựu đã đạt được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Cùng với
những chủ trương, chính sách phát triển toàn diện nền kinh tế xã hội, Nhà
nước ta luôn quan tâm đến các biện pháp bảo đảm quyền tự do, bình đẳng
trước pháp luật, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, tăng
cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Nhà
nước tạo sự tự chủ cho các tổ chức và cá nhân, tập thể đăng ký, hoạt động
kinh doanh ngoài những ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần
phong mỹ tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân.
Tại Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, việc
chống lại các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp đã được Nhà nước thể chế
thành nguyên tắc hiến định. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn
bản pháp luật nhằm phòng chống các tội phạm kinh tế nói chung, tội tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm nói riêng. Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam do Quốc
hội thông qua ngày 17/6/1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào năm 1989,
1990, 1992, 1997 có quy định về tội 2 buôn bán, tàng trữ hàng cấm trong
chương “Các tội phạm kinh tế”. BLHS 1999 đã đưa ra quy định điều chỉnh
hành vi liên quan đến hàng cấm rải rác ở các chương khác nhau quy định về
các hành vi liên quan đến hàng cấm và một số hàng cấm cụ thể khác như chất
ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, vũ khí hoặc công cụ hỗ trợ, chất phóng
xạ, chất cháy, chất độc. BLHS 2015 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
BLHS 2015 (ban hành năm 2017) ngoài những nội dung cấu thành tội phạm
trong BLHS 1999, bộ luật còn có nhiều thay đổi về việc xây dựng cấu thành
tội phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nên cần thiết phải có cách hiểu
thống nhất để áp dụng pháp luật đối với tội phạm này. Bên cạnh các quy
định của Luật hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, còn có
các quy định của các văn bản pháp luật thuộc Ngành và lĩnh vực khác cũng
điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến hàng cấm.
Tuy nhiên, do đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh và
những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội
phạm kinh tế ngày càng có môi trường phát sinh, phát triển, trong đó tội tàng
trữ, vận chuyển hàng cấm đang ngày càng tăng về số lượng với nhiều mặt
hàng cấm nguy hiểm, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, hơn hết là tác động
tiêu cực tới con người, môi trường và xã hội, nó đã trở thành một vấn đề
nhức nhối của xã hội. Công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này cần
phải quyết liệt mạnh mẽ, để làm được điều đó cần có sự đánh giá chính xác,
chi tiết, đầy đủ về tội phạm này.
Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh Long An
trong thời gian gần đây không chỉ có chiều hướng tăng về số lượng, chủng
loại mà còn diễn biến phức tạp về cả tính chất, quy mô. Đối tượng phạm tội
có rất nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, táo bạo và có tính chất rất quyết
liệt. Trong khi đó, hoạt động điều tra xử lý tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán hàng cấm hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
trước tình hình thực tế tại địa phương, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật
tự và sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế xã hội. Tình hình trên đã đặt ra
một vấn đề rất bức thiết là phải có những giải pháp hữu hiệu, phù hợp với
đặc điểm tình hình địa phương nhằm nâng cao hiệu quả việc ap dung phap
́
̣
́
luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̣
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm. Để xử lý
nghiêm minh, đúng pháp luật, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu
tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo lòng tin
trong nhân dân và điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội
tại địa phương cũng như của đất nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tìm ra giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc ap dung phap luât trong kiêm sat điêu
́ ̣
́
̣
̉
́ ̀
tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp
huyện vẫn chưa được thực hiện một cách có hệ thống và chuyên sâu trên địa
bàn tỉnh Long An
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Áp
dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng
cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An” làm luận văn
thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm là nội dung
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trong thực tế đã có những công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở nhiều góc độ khác nhau như:
Lục Thị Út (2014),“Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trong
Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Cao
Bằng) [48].
Ở công trình này, tác giả nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận
về tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm hiện nay ở Việt Nam. Phân
tích các quy định của BLHS về tội tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng
cấm.Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Hình sự đối
với tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm ở tỉnh Cao Bằng,
làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc
trong điều tra, truy tố, xét xử. Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện BLHS và giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống tội phạm
Nguyễn Thị Hạnh (2013), “Thực hành pháp luật trong giải quyết cac vu
́ ̣
an buôn bán, v
́
ận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”
Luận văn đã trình bày một số vấn đề lý luận về thực hành pháp luật
trong giải quyết cac vu an buôn bán, v
́ ̣ ́
ận chuyển hàng cấm. Phân tích thực
trạng thực hành pháp luật trong giải quyết cac vu an buôn bán, v
́ ̣ ́
ận chuyển
hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Chỉ ra số hạn chế và đưa ra giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hành pháp luật trong giải quyết cac vu an
́ ̣ ́
buôn bán, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn
hiện nay.
Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trong các báo Pháp Luật, các tạp
chí TAND, VKSND, bài nghiên cứu trao đổi trên website của Bộ Tư Pháp,
TAND tối cao, VKSND tối cao. Ngoài ra, còn một số sách tham khảo, chuyên
khảo có đề cập nội dung rất nhỏ liên quan đến đề tài luận văn như: Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế
Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai,
ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2001.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích và làm
sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến công tác kiểm sát điêu tra cac vu
̀
́ ̣
an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng cấm, những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất
lượng của công tác này, qua đó đã đưa ra những phương pháp, cách làm để
nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra.. Tuy nhiên tất cả các đề tài và bài
viết mới chỉ tập trung nghiên cứu ở một số khía cạnh cụ thể và nội dung
nghiên cứu đều ở những địa bàn khác nhau. Vì vậy, cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu một cách đầy đủ và có hệ thống về ap
dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng
cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy
việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu
̉
́ ̀
tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân
cấp huyện, tỉnh Long An”là quyết định phù hợp với lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong
kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát
nhân dân cấp huyện, trên địa bàn tỉnh Long An. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an
̉
́ ̀
́ ̣ ́
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong thực tiễn hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được các mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết
các nhiệm vụ sau:
Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ pháp luật
trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm ; Nội dung áp
dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́
̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng
cấm; các yếu tố ảnh hưởng đến việc dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra
̉
́ ̀
cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm
Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an
̉
́ ̀
́ ̣ ́
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh
Long An.
Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật về áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận
chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An trong
thời gian tới.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Thực tiễn
về áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́
̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển
hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tỉnh Long An
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề
xung quanh chức năng trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển
hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh, các quy
định của các Bộ luật và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp
với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND
cấp huyện. Thông qua đó, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để
kiến nghị những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện trong
thực tiễn.
Phạm vi không gian: VKSND cấp huyện, tỉnh Long An
Phạm vi thời gian: Dữ liệu được thu thập trong thời gian 05 năm (từ
năm 2015 2019)
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
6.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về
tăng cường áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́ ̀
́ ̣ ́
ữ, vận
chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn có sự kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu của
các công trình liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac
̉
́ ̀
́
vu an tàng tr
̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm của các công trình nghiên cứu trước.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích
và tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng
các phương pháp của các bộ môn khoa học khác: Thống kê tội phạm, phương
pháp hệ thống…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý lu
ận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các
vụ án tàng trữ, v
ận chuyển hàng cấm c
ủa viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Chương 2: Thực trang ap dung phap luât trong ki
̣
́ ̣
́
̣
ểm sát điều tra cac v
́ ụ
án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện,
tinh Long An
̉
Chương 3: Quan điểm va giai phap bao đam ap dung phap luât trong
̀ ̉
́ ̉
̉ ́ ̣
́
̣
kiểm sát điều tra cac v
́ ụ án tàng trữ, v
ận chuyển hàng cấm c
ủa viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN TÀNG TRỮ, V
ẬN CHUYỂN HÀNG CẤM C
ỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khai niêm, đăc điêm va
́
̣
̣
̉
̀ vai trò
ap dung phap luât trong kiêm sat
́
̣
́
̣
̉
́
điêu tra cac vu an
̀
́
̣ ́ tàng tr
ữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát
nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm về ap dung phap luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an
́
̣
́
̣
̉
́
̀
́ ̣ ́
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1.1.1.1 . Khái niệm về ap dung phap luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an
́ ̣
́
̣
̉
́ ̀
́ ̣ ́
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra (KSĐT) các vụ an tàng tr
́
ữ,
vận chuyển hàng cấm án là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. Áp
dụng pháp luật trong kiêm sat điêu tra cac vu an tàng tr
̉
́
̀
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng
cấm thuộc trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải
tham gia bằng hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong
các quan hệ điều tra, KSĐT các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Cơ sở
phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật của VKSND đó là các quyết định của
cơ quan điều tra, các hành vi của những người tiến hành tố tụng trong hoạt
động TTHS. Các quyết định và các hành vi đó có thể được ban hành, thực
hiện theo đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật. Khi đó Nhà nước
thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND, nhằm
phát hiện những sai phạm, kịp thời đề ra các yêu cầu, kiến nghị các chủ thể
trong quá trình điều tra các vụ án tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, khắc phục,
sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng
cấm được tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là
một hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực
nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những vi phạm
pháp luật vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức
cụ thể. Áp dụng pháp luật trong KSĐT các vụ an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng
cấm có thể coi là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND
nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật nói chung đối với các chủ thể trong
quá trình giải quyết các vụ an tàng tr
́
ữ, vận chuyển hàng cấm
1.1.1.2 . Khái niệm hàng cấm, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
1.1.1.2.1.Khái niệm hàng cấm
Hàng cấm được rất nhiều người sử dụng trong đời sống kinh tế. Tuy
nhiên, hiểu một cách chính xác về bản chất của từ này trong khoa học pháp
luật hình sự thì chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm hiểu khái
niệm hàng cấm chúng ta tìm hiểu thông qua ngữ nghĩa của hai từ cụ thể:
“hàng” là sản phẩm để bán, “cấm” là không cho phép làm việc gì đó hoặc
không cho phép tồn tại [ 51
]. T
ừ đó hàng cấm được hiểu là những sản phẩm
không cho phép tồn tại.
Theo từ điển Luật học giải thích: “hàng cấm là hàng hoá bị Nhà nước
cấm kinh doanh [5 1
, tr.319]. M
ột số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có
đề cập đến hàng cấm là hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh
[5 2
, tr.16]. Hàng c
ấm còn được nhắc đến trong giải thích tội buôn lậu: buôn
lậu là buôn bán trốn thuế hoặc hàng cấm [5 2
]. Tuy đ
ược nhắc đến nhiều
nhưng chưa có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này.
Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng
hoá Nhà nước cấm kinh doanh [ 52
, tr.110]. Hàng c
ấm theo nghĩa rộng là loại
hàng hoá bị cấm kinh doanh dưới mọi hình thức. Bản chất của hàng cấm có
thể được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt
hàng đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh
doanh. Theo triết học Mác Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thông
qua hoạt động trao đổi, mua bán. Hàng hoá có thể là hữu hình hoặc vô hình
mà nhờ vào tính chất của nó thoả mãn nhu cầu của con người. Trong nền
kinh tế thị trường, hàng hoá ngày càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản
lý đối với các loại hàng hoá và các hoạt động kinh doanh liên quan đến hàng
hoá ngày càng phức tạp, khó khăn hơn bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều của
các loại hàng hoá gây ảnh hưởng xấu tới con người, 8 môi trường và xã hội.
Từ sự phát triển của tự do thương mại mà Nhà nước thống nhất quản lý
những mặt hàng có tính chất đặc biệt, có những đặc tính riêng cần phải hạn
chế cách ly các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những
mặt hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy định cấm tuyệt đối với những mặt
hàng khi lưu thông hoặc sử dụng có thể gây nguy hại cho an ninh, quốc
phòng, trật tự an toàn xã hội, truyền thống văn hóa, môi trường và sức khỏe
nhân dân, vì vậy Nhà nước cần phải độc quyền quản lý loại hàng hoá đó.
Trong xã hội gọi những hàng hoá này là “ hàng c
ấm” hay
“hàng qu
ốc cấm”.
Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà
nước thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn bán
hàng hóa gắn liền với hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa
người với người trong quá trình kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng
của cải vật chất xã hội nhằm mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã
bỏ ra ban đầu. Việc sản xuất hàng hóa là bắt nguồn từ yêu cầu khách quan
của sự phát triển kinh tế, đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế vận động của
quá trình hoạt động kinh doanh. Qua các thời kỳ phát triển kinh tế, xã hội
lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng hoá được tự do
sản xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do tính chất đặc thù của nó mà Nhà
nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do
những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá nhân, tổ chức lén lút
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm
(CTTP) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng
cấm vẫn chưa có bất cứ văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống
nhất. Trong quá trình giải quyết về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm, một
vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức năng là phải hiểu rõ thế nào là hàng
cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra được những quyết định phù hợp,
đúng đắn phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự
kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng.
Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước
quản lý và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương
mại, đầu tư đều có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu
tư và có các chế tài xử phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm.
Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác định: “Căn c
ứ vào điều kiện
kinh tế xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể danh mục hàng
hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có
điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hoá đó ”. Đ
ối với pháp luật
về thương mại đầu tư, các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà
được quy định thành danh mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh
mục này do Chính phủ quy định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng
hoá cấm kinh doanh cũng thay đổi.
Nghị định 185/2013/NĐCP của Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,
buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có giải
thích: “ Hàng c
ấm” g
ồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử
dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam.
Dưới góc độ pháp lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của
tội phạm về kinh tế, bị xem là đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và
kinh doanh đối với đối tượng này ở mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị
pháp luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ về hàng cấm, ngoài việc xem xét
khái niệm hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các văn bản
pháp luật quy định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết hàng cấm. Tuy nhiên,
cho trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành, các
quy định pháp lý về hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng cấm và chưa
quy định cụ thể dấu hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều chỉnh
tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những
khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về
hàng cấm dưới góc độ pháp lý.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái
niệm về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung.
Để đưa ra 10 khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình
sự cần chú ý một số nội dung cơ bản sau:
M ột là , hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống nhất quản
lý và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này.
Hai là , danh mục hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi theo từng
thời kỳ khác nhau. Có nhiều loại hàng hoá có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng
có những hàng hoá chỉ cấm tạm thời.
Ba là , hàng cấm có tác hại về kinh tế, có khả năng gây hại cho tính
mạng, sức khoẻ con người và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, văn hoá,
chính trị của mỗi quốc gia.
Bốn là , tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định
các mặt hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau. BLHS năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017 có nhiều điều luật quy định hành vi phạm tội liên quan đến
hàng cấm ở các chương khác nhau, là đối tượng tác động của nhiều tội phạm
khác nhau như: hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất
phóng xạ, chất độc, văn hoá phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn lại chưa
quy định cụ thể ở Điều luật nào khác thì được quy định tại Điều 191 BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm.
Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn diện hàng cấm là đối
tượng tác động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Nhìn nhận diện hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng
cấm trên tất cả các lĩnh vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng
tác động của các tội phạm cụ thể về hàng cấm kể trên. Vì vậy, từ những
phân tích nêu trên và thực tiễn áp dụng pháp luật chúng ta nhận thức: “Hàng
cấm gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dụng; hàng
hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”.
1.1.1.2.2. Khái ni
ệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá
mà Nhà nước cấm kinh doanh. Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng
cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi
làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị
trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn, không nhằm mục đích mua bán hay
sản xuất ra hàng cấm khác hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác. Thời gian
tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp
lý. Nếu tàng trữ hàng cấm cho người mà khác biết rõ người này buôn bán
hàng cấm thì hành vi cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ mà là
hành vi giúp sức người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội buôn bán hàng cấm với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn
bán, vận chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định
chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý
nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội
theo hành vi đầy đủ), nếu cùng một loại hàng cấm.
Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do
người khác phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa
chấp sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành
vi tiêu thụ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm. Vận
chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một cách
trái phép.
Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ địa
điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phuơng thức
nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán,
tàng trữ. Tuy nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường
hợp quy định tại Điều 189 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Nếu vận chuyển hàng cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán
hàng cấm của người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận
chuyển sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai
trò giúp sức. Nguyên nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và
buôn bán hàng cấm mang lại nguồn lợi kinh tế rất lớn nên nhiều người,
nhiều cá nhân, tổ chức hám lợi mà bất chấp những quy định của pháp luật để
thực hiện. Đó đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi
phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà còn bị coi là tội phạm và buộc phải
xử lý, áp dụng chế tài hình sự.
Tuy nhiên, pháp lu
ật hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó ở mức độ
nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cụ thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất,
tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm với số lượng lớn, thu lợi bất chính
lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, hoặc bị kết án về một số hành vi xâm
phạm đến trật tự quản lý kinh tế được quy định trong Bộ luật hình sự như
trong phần nghiên cứu dưới đây.
1.1.1.2.3. Khái ni
ệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là
hiện tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi
quốc gia, để bảo vệ lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán
thương mại quốc tế đều đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phòng
ngừa và giảm bớt tác hại của loại tội phạm này. Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định
của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm. Hành vi
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn
các yếu tố theo quy định của pháp luật. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
được quy định tại Điều 191 thuộc chương XVIII Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế của BLHS năm 2015.
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội này, cần tìm hiểu khái niệm của
các cụm từ, thuật ngữ tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Từ trước đến nay các văn bản có liên quan
hay các Từ điển tiếng Việt có đề cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm
từ: vận chuyển hàng cấm, tàng trữ hàng cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu
hiểu một cách ngắn gọn: Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong BLHS là các
hành vi cất giữ hàng cấm bằng bất kỳ hình thức nào, di chuyển hàng cấm từ
nơi này đến nơi khác bằng bấy kỳ hình thức nào [5 2
].
Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên
cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu
cũng cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này. Các hoạt động
sản xuất, kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước hết là do sự
phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội dẫn đến sự phát triển của những
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá trong nội địa không đồng nhất cả
về sức sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số mặt
hàng với tính chất đặc biệt có nguy cơ gây nguy hại cho nền kinh tế và cho
sức khoẻ con người. Các loại hàng hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các
cá nhân, tổ chức bất chấp sự quản lý của Nhà nước để lưu thông hàng hoá
loại này. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan.
Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thông
hàng cấm luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về
tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những
quốc gia có nền kinh tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương
mại, đầu tư, kinh doanh trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ thống mặt hàng
lưu thông nội địa quy định nghiêm ngặt, chế tài xử phạt đối với những hoạt
động lưu thông hàng hoá kém chất lượng, hàng hoá không được kinh doanh
rất nghiêm khắc, do đó những mặt hàng cấm vĩnh viễn mới được áp dụng
trong chế tài của luật hình sự theo hướng quy định đối với hành vi lưu thông
loại hàng hoá cụ thể như ma tuý, chất phóng xạ...Đối với các quốc gia khác,
các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn, ý thức chấp hành pháp luật
của người dân còn hạn chế hơn, các hành vi lưu thông hàng cấm phức tạp và
tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất là
hình phạt đối với các hành vi lưu thông hàng hoá thuộc danh mục hàng cấm
do Chính phủ quy định.
Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu
không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249,
250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm...”
. Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm như sau: T
ội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành
vi cất giữ trái phép, vận chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm
kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa
được phép sử dụng với số lượng, trọng lượng hoặc giá trị cụ thể mà pháp
luật quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của nhà nước trong
quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa nhất định.
1.1.1.2.4 . Các d
ấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa
học pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại [ 46
, tr.86].
Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan
hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể
của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như đối với việc định tội danh và
quyết định hình phạt trên thực tế. Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế, chế độ độc quyền của nhà nước trong
quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cẩm mà pháp luật quy định.
Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm
hành vi tàng trữ hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm. Tàng trữ hàng
cấm như đã phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những mặt hàng Nhà
nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu
hành, chưa được phép sử dụng...trong người, trong nhà hoặc ở bất kỳ nơi nào
không phụ thuộc và thời gian cất giữ dài hay ngắn [6, tr.301].
Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa những mặt hàng Nhà nước cấm
kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa
được phép sử dụng...dưới bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm
khác mà không nhằm mục đích bán [ 4
, tr.301].
Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là người từ đủ 16 tuổi
trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được
thực hiện với lỗi cố ý .
1.1.2. Đ
ặc điểm ap dung phap luât trong kiêm sat điêu tra cac vu an
́
̣
́
̣
̉
́
̀
́ ̣ ́
tàng trữ, vận chuyển hàng cấm cua Vi
̉
ện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Hoạt động áp dụng pháp luật trong KSĐT cać vụ ań tàng trữ, vận
chuyển hàng cấm của VKSND có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển
hàng cấm là hoạt động chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức năng
thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua việc
thực hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực nhà nước,
trực tiếp thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ
chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước,
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể
và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh trước pháp
luật.
VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và một số cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Hoạt động
thực hành quyền công tố và KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm
được quy định tại Điều 12, 13, 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND trong giai đoạn điều tra:
Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc
thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy
định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì
khởi tố về hình sự.
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; tạm đình chỉ
điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Với những quy định của pháp luật như trên thì VKSND có quyền áp
dụng mọi biện pháp cần thiết trong hoạt động kiểm sát điều tra nhằm đảm
bảo cho hoạt động điều tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm được
tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Đảm bảo cho việc khởi tố điều
tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm được tuân theo quy định của pháp
luật; bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng chính sách pháp luật.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển
hàng cấm của VKSND phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.
Hoạt động điều tra cac vu an tàng tr
́
̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm của cơ
quan điều tra; hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp của VKSND, đây là một quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
hai cơ quan: Công an VKS, là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết
định trong quá trình giải quyết những vụ án hình sự. Chính hoạt động KSĐT
có vai trò quan trọng như vậy nên pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng
hiện hành nói riêng đã quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật trong
hoạt động kiểm sát điều tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận chuyển hàng cấm. Pháp
luật TTHS quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục của các hoạt động điều tra,
hoạt động giám sát như: khởi tố vụ án; khởi tố bị can; các biện pháp điều tra;
các biện pháp ngăn chặn; nhập, tách vụ án hình sự; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ
án; thời hạn điều tra.
Tóm lại, tất cả các bước trong quá trình điều tra cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận
chuyển hàng cấm, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND
đều được quy định chặt chẽ theo các trình tự thủ tục do pháp luật TTHS hiện
hành quy định.
Thứ ba , quy
ết định áp dụng pháp luật trong KSĐT của VKSND được
pháp luật bảo đảm thi hành.
Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành là giai
đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật, nó có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Khi một quyết định áp dụng pháp luật sau khi ban hành mà không được thi
hành trên thực tế thì cũng đồng nghĩa với việc vô hiệu hóa pháp luật, vô
hiệu hóa cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến
pháp chế XHCN.
Các quyết định áp dụng pháp luật trong KSĐT cac vu an tàng tr
́ ̣ ́
ữ, vận
chuyển hàng cấm đã được Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình