Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH Ở NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 174 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ XUÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH
Ở NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ XUÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH
Ở NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Ngành: Luật Hiến pháp-Luật Hành chính
Mã số : 9.38.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng



HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Trần Thị Xuân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT . 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 6
1.2. Cơ sở lý thuyết ....................................................................................... 29
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP
CẬN NƯỚC SẠCH Ở NÔNG THÔN ............................................................... 32
2.1. Quyền con người và quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn ................. 32
2.2. Bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn........................................ 51
Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH
Ở NÔNG THÔN TẠI CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG .................. 68
3.1. Đặc điểm chung các tỉnh đồng bằng Sông Hồng ................................... 68
3.2. Phương thức bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn tại các
tỉnh đồng bằng Sông Hồng ............................................................................ 71
3.3. Kết quả thực hiện bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn tại
các tỉnh đồng bằng Sông Hồng ..................................................................... 91
3.4. Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch

nông thôn ...................................................................................................... 99
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO BẢO ĐẢM
QUYỀN TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH Ở NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN
CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ...................................................... 106
4.1. Nhu cầu bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn từ thực tiễn
các tỉnh đồng bằng Sông Hồng ................................................................... 106
4.2. Quan điểm bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn................ 111
4.3. Các giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn ........... 118
KẾT LUẬN......................................................................................................... 142
DANH SÁCH CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 145


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVMT

:

Bảo vệ môi trường

CTMTQG

:

Chương trình mục tiêu quốc gia

COD

:


Nhu cầu ôxy hóa học (COD - Chemical
oxygen demand)

ĐBSH

:

Đồng bằng sông Hồng

HVS

:

Hợp vệ sinh

KTXH

:

Kinh tế xã hội

LHQ

:

Liên Hiệp Quốc

LVS


:

Lưu vực sông

MDGs

:

Mục tiêu Thiên niên kỷ

NNPTNT

:

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NSVSMT

:

Nước sạch và vệ sinh môi trường

PTBV

:

Phát triển bền vững

QCN


:

Quyền con người

QTCNS

:

Quyền tiếp cận nước sạch

QCVN

:

Quy chuẩn Việt Nam

TNMT

:

Tài nguyên Môi trường

UNESCO

:

Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục
Liên hiệp quốc

UNICEF


:

Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục
Liên hiệp quốc

WHO

:

Tổ chức Y tế thế giới

WB

:

Ngân hàng Thế giới

UBND

:

Ủy ban nhân dân

VSMT

:

Vệ sinh môi trường



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng thông số được quy định trong bộ tiêu chí về nước sạch ........ 34
Bảng 2.2. Tiêu chí đô thị hoá Việt Nam sau 1975................................................. 36
Bảng 2.3 Các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe liên quan đến nước và vệ sinh ở Việt Nam .... 46
Bảng 2.4. Lợi ích của việc bảo đảm tiếp cận nước sạch........................................ 46
Bảng 3.1. Thực trạng đất đai vùng ĐBSH năm 2018 (1.000ha) ........................... 68
Bảng 3.2. Phân bố dòng chảy trung bình nhiều năm của hệ thống Sông Hồng .... 69
Bảng 3.3. Hiện trạng khai thác sử dụng nước dưới đất ......................................... 70
Bảng 4.1. Tính đặc thù của khu vực nông thôn các địa phương đồng bằng
Sông Hồng trong bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ................................... 108

DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Diễn biến hàm lượng COD trong nước sông một số khu vực nông
thôn phía Bắc giai đoạn 2011-2014................................................................. 45
Hình 2.2. Diễn biến giá trị COD trên các sông chảy qua khu vực nội thành Hà
Nội giai đoạn 2014-2018 ................................................................................. 48
Hình 3.1. Sơ đồ tổ chức hệ thống quản lý nhà nước cấp nước sạch nông thôn ........... 90


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Quyền con người là tổng hợp các quyền và các tự do cơ bản để đánh giá về địa
vị pháp lý của cá nhân [30, tr.635]. Về nguyên tắc, hệ thống các QCN phải bảo đảm
hai chức năng: bảo vệ về phương diện xã hội cho mỗi cá nhân và bảo đảm cho họ
tham gia tích cực vào đời sống xã hội. Cả hai chức năng đó gắn bó một cách chặt chẽ
với tiến trình PTBV của đất nước, mà mục đích của tiến trình này cũng chính là mục
đích chúng ta đang hướng tới - xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Ở Việt Nam, QCN được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, nhấn mạnh
việc Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn

trọng, bảo vệ và bảo đảm QCN, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, là bước chuyển bảo đảm toàn bộ các
quyền lợi và các quyền tự do của con người, đã nhấn mạnh tính thiết yếu phải ghi
nhận các quyền đó và xây dựng một nền tảng vật chất, luật pháp và chính trị vững
chắc để bảo đảm. QCN được bảo đảm thực hiện trong thực tiễn cuộc sống là thước
đo của nền dân chủ, văn minh, của tự do và tiến bộ xã hội; qua đó thể hiện rõ bản
chất tốt đẹp của Nhà nước.
Quyền được tiếp cận nước sạch (QTCNS) là một trong những quyền cơ bản
nhằm bảo đảm sự tồn tại của con người, được coi là một trong những điều kiện tiên
quyết cho việc thực hiện các quyền cơ bản khác, gắn liền với quyền sống, quyền
được bảo đảm về sức khỏe, được cộng đồng quốc tế công nhận và được Việt Nam ghi
nhận. Vấn đề bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch đòi hỏi các quốc gia thực hiện thông
qua các phương thức: (i) Thực thi pháp luật; (ii) Chiến lược quốc gia về nước sạch và
kế hoạch hành động để nhận biết về quyền này; (iii) Bảo đảm mọi người đều có khả
năng tiếp cận với nước sạch; (iv) Cải thiện và duy trì khả năng tiếp cận với nước sạch,
đặc biệt là vùng nông thôn và vùng thành thị gặp nhiều khó khăn [79].
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, nguồn nước có thể sử dụng ngay có hạn vì phân bố không đều; nhiều
vùng thiếu nước sạch do quản lý chưa hiệu quả, ô nhiễm môi trường, nhiều dự án
tiếp cận nguồn nước sạch chưa bền vững. Tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch còn
thấp, chủ yếu vẫn dùng nước hợp vệ sinh được lấy từ sông, suối và nước giếng.
1


Theo báo cáo của Bộ NNPTNT vẫn còn khoảng 25% dân số nông thôn chưa được
tiếp cận với nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 75 % số dân nông thôn chưa được tiếp cận
nguồn nước sạch [40]. Vùng đồng bằng Sông Hồng cũng không nằm ngoài thách
thức đó, với mục tiêu 100% dân số được sử dụng nước sạch vào năm 2020, thì
việc bảo đảm an toàn nguồn nước và tiếp cận quyền đối với người dân giữ vai trò

quan trọng, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, việc tiếp cận nước sạch
đang bị hạn chế và chưa đồng đều do thiếu cơ sở hạ tầng, thiếu các quyền chính
thức đối với tài nguyên nước đang là lỗ hổng trong thể chế, gây khó khăn không
nhỏ trong việc quản lý phân bổ nguồn nước bền vững theo cách tiếp cận quyền.
Điều này cản trở phát triển con người từ góc độ tổn hại sức khỏe và thiệt hại kinh tế
do phải mua nước giá cao hoặc mất nhiều thời gian để lấy nước.
Để tăng cường cơ hội tiếp cận nguồn nước sạch ở vùng nông thôn góp phần
nâng cao sức khỏe của người dân và giá trị kinh tế của tài nguyên nước, cần thiết phải
có một chiến lược phát triển mang tính tổng thể với những giải pháp quản lý, phân
bổ, chia sẻ tài nguyên nước công bằng, hợp lý theo lãnh thổ, bảo đảm quyền được
tiếp cận nguồn nước sạch cho người dân nói chung và người dân vùng nông thôn nói
riêng; qua đó, sẽ tăng cường ý thức làm chủ, sự tham gia của cộng đồng bảo đảm đáp
ứng nhu cầu của người dân và bảo đảm chất lượng nguồn nước.
Góp phần có cái nhìn tổng quát về các vấn đề nêu trên nhằm hỗ trợ và đề xuất
các giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận nguồn nước sạch của người dân nông thôn Việt
Nam nói chung, người dân nông thôn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng nói riêng, đề tài
luận án đã được lựa chọn với tiêu đề: “Bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông
thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu xác lập cơ sở lý luận và thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận nước
sạch ở nông thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng; từ đó, đề xuất các giải
pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn hướng đến mục tiêu phát
triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài luận án có nhiệm vụ thực hiện các nội dung
khoa học sau:
2



- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tiếp cận nước
sạch ở nông thôn dưới góc độ tiếp cận quyền;
- Phân tích, nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông
thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng;
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm và thúc đẩy QTCNS ở nông thôn từ
thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến bảo đảm QTCNS ở nông thôn dưới góc độ quyền con người.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi khoa học: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật,
thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn từ
thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn hiện nay; từ đó, làm cơ sở
khoa học đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý và thực hiện pháp luật
hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu bảo đảm QTCNS ở nông thôn từ
thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu tập trung phân tích trong giai đoạn
2010 - đến nay.
4. Những điểm mới của luận án
Thứ nhất, luận án đã làm rõ những vấn đề mang tính lý luận chung về bảo đảm
QTCNS ở nông thôn từ thực tiễn các tỉnh ĐBSH, trong đó, bảo đảm quyền tiếp cận
trong khu vực nghiên cứu được xác định trên cơ sở các phương thức bảo đảm quốc gia,
địa phương, gồm: bảo đảm pháp lý và thiết chế tổ chức thực hiện. Bảo đảm pháp lý
thực hiện QTCNS ở nông thôn là hệ thống gồm nhiều yếu tố mang tính pháp lý được
hình thành trên cơ sở hệ thống pháp luật, có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau để thực
thi bảo đảm quyền.
Thứ hai, luận án đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện bảo đảm và thúc đẩy
QTCNS ở nông thôn trên cơ sở phân tích, đánh giá tổng hợp các kết quả nghiên cứu

về lý luận, thực trạng từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng với các quan điểm
về PTBV, bảo vệ môi trường, quyền con người, xã hội hóa và hợp tác quốc tế.
3


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ nội dung nghiên cứu về bảo đảm
QTCNS ở nông thôn theo tiếp cận quyền con người.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác
triển khai bảo đảm QTCNS ở nông thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông
Hồng với đặc trưng của lãnh thổ đồng bằng có Thủ đô và vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ. Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy,
học tập và nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực luật học, nhất là chuyên ngành
Luật Hiến pháp, Luật Hành chính.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, đề tài luận án vận dụng tổng hợp các phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để nhận thức tiến trình hình thành, phát
triển của các vấn đề liên quan đến bảo đảm QTCNS ở trong và ngoài nước, đặc
biệt là ở nông thôn thông qua tiếp cận quyền, tiếp cận liên ngành, đa ngành, tiếp
cận trên phương diện quốc tế, quan điểm của Việt Nam về quyền này.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
Phương pháp nghiên cứu này cho phép tìm hiểu được đặc điểm, nội dung
những vấn đề cơ bản về QTCNS ở nông thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông
Hồng. Thông qua những nguồn tài liệu, tư liệu liên quan; lựa chọn và phân loại
các thông tin liên quan đến mục tiêu của đề tài, bảo đảm tính kế thừa, tính
khách quan, tính chính xác và tính hệ thống; từ đó, tổng hợp, chuẩn hóa nhằm

xây dựng các luận cứ, cách tiếp cận và phương pháp luận nghiên cứu bảo đảm
tính đồng bộ. Trong đề tài, các số liệu, tài liệu nghiên cứu đã công bố từ nhiều
nguồn trong và ngoài nước sẽ được tổng hợp và phân tích.
Trong đề tài, các số liệu, tài liệu nghiên cứu đã công bố từ nhiều nguồn
trong và ngoài nước sẽ được tổng hợp và phân tích.
Nguồn dữ liệu được tổng hợp, phân tích, bao gồm:
- Tổng hợp qua tài liệu, số liệu, báo cáo lưu trữ, văn bản pháp quy
- Tổng hợp qua công trình nghiên cứu khoa học.
4


6.2.2. Phương pháp so sánh
Trên cơ sở chuẩn hóa các dữ liệu, tiến hành so sánh các kết quả đạt được
giữa các giai đoạn, giữa chính sách và thực thi, giữa các vùng lãnh thổ. Các kết
quả phân tích so sánh là cơ sở cho đánh giá thực trạng, cùng với kết quả tham vấn từ
các nhà khoa học, các nhà quản lý sẽ là cơ sở đề xuất các giải pháp bảo đảm QTCNS
ở nông thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng.
6.2.3. Phương pháp lịch sử
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu nhằm xem xét, hệ thống hóa hệ
thống pháp luật, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề có liên
quan đến bảo đảm QTCNS ở nông thôn; từ đó, làm cơ sở khoa học cho việc đề
xuất các giải pháp hoàn thiện bảo đảm thực thi quyền trong tương lai.
6.2.4. Phương pháp phân tích SWOT
Phương pháp là khung lý thuyết, công cụ phân tích chiến lược, tổng hợp
vấn đề cần quan tâm, từ đó tạo ra bức tranh tổng thể, tạo cơ sở quan trọng cho đề xuất
chiến lược, phát triển. Đề tài đã sử dụng phương pháp này trong phân tích tổng quan
về các nhân tố ảnh hưởng đến bảo đảm QTCNS ở nông thôn theo hợp phần: điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức từ thực tế ở các tỉnh ĐBSH; từ những phân tích
mang tính tổng quan này đề tài đã đề xuất nhằm phát huy được điểm mạnh, cơ hội và
khắc phục, giảm thiểu điểm yếu, thách thức nhằm bảo đảm quyền

7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án có bố
cục bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2: Những vấn đề lý luận về bảo đảm QTCNS ở nông thôn
Chương 3: Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận nguồn nước sạch ở nông thôn
từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng
Chương 4: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện bảo đảm quyền tiếp cận nguồn nước
sạch ở nông thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu mang tính lý luận, đánh giá chung
Phần lớn các công trình nghiên cứu có liên quan đều phân tích tiến trình hình
thành, nguồn gốc, vai trò của quyền tiếp cận nước sạch đối với con người. Tuy
nhiên, công trình phân tích mang tính lý luận tổng quan phải kể đến: The right to
water in the light of international law, Collective human rights in the first half of
the 21st century (Quyền tiếp cận nước theo luật pháp quốc tế, các quyền chung
của con người trong nửa đầu thế kỷ 21) (Marta Pietras-Eichberge, 2015). Công
trình này phân tích cơ sở lý luận, lịch sử hình thành quyền tiếp cận nước trên cơ sở
tổng quan các báo cáo, nghị quyết của Liên hợp quốc; Theo đó, quyền tiếp cận
nước là điều kiện cơ bản để thực thi các quyền con người cơ bản khác, như: quyền
được hưởng một mức sống thỏa đáng, quyền tiếp cận thực phẩm, … Thực tế,
trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do thương mại, biến đổi khí hậu đã nảy sinh những
bất cập, mâu thuẫn trong quản lý, đáp ứng nhu cầu nước. Chẳng hạn: quá trình tư

nhân hóa cấp nước sẽ ảnh hưởng đến mức phí, dẫn đến gia tăng các cuộc đấu tranh
pháp lý đòi hỏi thực thi quyền hay dân số tăng dẫn đến nhu cầu sử dụng nước cho
sản xuất lương thực, thực phẩm tăng ảnh hưởng đến lượng nước cấp cho nhu cầu
sinh hoạt. Đồng thời, tác giả cho rằng: Nghị quyết A/HRC/12/24 (Promotion and
protection of all human rights, civil, political, economic, social and cultural rights,
including the right to development – Thúc đẩy và bảo vệ tất cả các quyền con
người, quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, bao gồm cả quyền phát
triển của Hội đồng Nhân quyền) chỉ nhấn mạnh đến quyền tiếp cận nước uống an
toàn cho tiêu dùng cá nhân mà bỏ qua các mục đích sử dụng khác; thuật ngữ
“nước uống an toàn” liên quan đến chất lượng nước rất khó được thực thi ở các
quốc gia đang phát triển nơi nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn hạn chế; vì
vậy, để phù hợp với bối cảnh toàn cầu, Liên hợp quốc nên sử dụng thuật ngữ
quyền tiếp cận nước hợp vệ sinh (an toàn) thay vì quyền tiếp cận nước uống an
toàn. Để quyền tiếp cận nước có thể thực thi đòi hỏi cộng đồng quốc tế và các
quốc gia nỗ lực đề xuất các chính sách, chiến lược thực thi hiệu quả thông qua hỗ

6


trợ tài chính, nâng cao nhận thức, xác định các mô hình quản lý phù hợp với từng
lãnh thổ, cộng đồng. Công trình mới phân tích ở vĩ mô (các tầm nhìn của Liên hợp
quốc), chưa có những nhận định và phân tích tiến trình triển khai tại các quốc gia,
cũng như trách nhiệm của Liên hợp quốc trong việc giám sát và thúc đẩy trách
nhiệm của các chính phủ trong thực thi cam kết [99, tr. 307-318].
Bên cạnh đó, nhằm chuẩn bị cho Hội thảo nước và sức khỏe năm 2011 của
Liên hợp quốc và Hội thảo nước thế giới, 2012 tại Pháp. Các nhà khoa học đã tiếp
cận phương pháp điều tra xã hội học để nghiên cứu đánh giá quá trình tiếp nhận và
thực thi chính sách ở cấp địa phương. Kết quả đánh giá được trình bày trong báo
cáo của B.M.Meier et al., 2013:Translating the Human Right to Water and
Sanitation into Public Policy Reform (Chuyển quyền con người về nước và vệ sinh

vào cải cách chính sách công). Theo đó, quá trình chuyển tải quyền tiếp cận nước
theo luật pháp quốc tế đã tạo ra một cơ hội mới có thể được thực hiện trong chính
sách công và từ đó ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân. Các nỗ lực của quốc tế,
quốc gia và các tổ chức phi chính phủ đã tạo ra cơ sở để thúc đẩy thực hiện quyền.
Tuy nhiên, tiến trình này đang gặp nhiều thách thức, nhất là các quốc gia đang
phát triển bởi nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng và tăng trách nhiệm bảo
đảm việc tiếp cận nước. Nhiều chính phủ vẫn chưa xác định được các tiêu chuẩn
quốc gia cho thực tiễn thực thi tại địa phương hay việc lồng ghép các quy tắc
quyền con người và cơ chế giám sát trong các chính sách, kế hoạch phát triển. Có
thể thấy, quyền tiếp cận nước tạo ra ý chí chính trị từ phía trên nhưng chưa tạo ra
“nhiều lực kéo” ở cấp địa phương do thiếu các kế hoạch quốc gia hay ngân sách
thực thi được phân bổ bởi nhiều cấp, ngành đã tạo ra những khó khăn nhất định;
đồng thời, chưa nhìn nhận khách quan về vai trò của tư nhân trong cung cấp dịch
vụ nước; chưa tạo ra các tiêu chuẩn về khả năng chi trả tại địa phương và thực
hiện các quyền để xây dựng quy chế, giám sát [86, tr 833-846].
Tiếp tục nhấn mạnh đến vai trò liên quan đến quản trị nguồn nước trong phát
triển bền vững, Nghị quyết IPU về “Định hình cơ chế mới về quản trị nguồn nước:
Thúc đẩy hành động của Nghị viện về nước và vệ sinh” của Hội đồng Nghị Viện,
2015 đã được thông qua tại Hà Nội. Nghị quyết kêu gọi các quốc gia thúc đẩy hợp
tác, hỗ trợ trong nỗ lực quản trị nước hướng tới mục tiêu phát triển bền vững;
đồng thời, khẳng định quyền được sử dụng nước là quyền cơ bản của con người,
có tác động mạnh mẽ đối với cuộc sống [128].
7


Hay các vi phạm về quyền con người cũng được phản ánh trong báo cáo:
Cholera as a grave violation of the right to water in Haiti (Dịch tả như một sự vi
phạm nghiêm trọng quyền tiếp cận nước ở Haiti) của Sarah Dasvila-Ruhaak et
al., 2014. Đây là một kết quả nghiên cứu trường hợp về các chiến lược, khó khăn
mà các nạn nhân phải chịu đựng khi các bên liên quan vi phạm quyền tiếp cận

nước. Theo đó, dịch tả bùng nổ ở Haiti từ 10/2010, trở thành đại dịch lớn nhất trên
thế giới được ghi nhận, giết chết 8.500 người và bị nhiễm bệnh trên 700.000 người
kể từ năm 2010. Liên hợp quốc cảnh báo rằng có thể 2.000 người nữa sẽ chết vì
bệnh tả vào năm 2014. Nguyên nhân chính dẫn tới đại dịch này được xác định là
do vi khuẩn tả gây nhiễm độc nguồn nước từ lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên
hợp quốc đang làm nhiệm vụ tại Haiti. Việc vi phạm quyền tiếp cận nước đã tạo ra
rào cản cho người Haiti tiếp cận và hưởng thụ các quyền cơ bản của con người đối
với cuộc sống, sức khoẻ, nước sạch và vệ sinh, và môi trường lành mạnh. Theo
báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Quỹ nhi đồng LHQ cho thấy, năm
2010 chỉ có 69% dân số Haiti được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh, nhưng
không thường xuyên; tại cộng đồng nông thôn số lượng dân số tiếp cận với nguồn
nước thấp hơn, chất lượng không bảo đảm. Theo dự báo, những năm tới, điều kiện
của Haiti cũng sẽ không có nhiều cải thiện bởi tiềm lực tài chính nước này không
đủ để đầu tư cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện cấp nước do phải dành 13%GDP
quốc gia để thanh toán các khoản nợ quốc tế, đồng thời Chính phủ Haiti đã không
thể tiếp cận được các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế để thực hiện các
biện pháp nâng cao khả năng tiếp cận quyền. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy:
Chính phủ Haiti chưa hoàn thành nhiệm vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện trách
nhiệm của mình liên quan đến quyền tiếp cận; đồng thời đánh dấu sự thất bại của
các định chế quốc tế trong giám sát các tổ chức thực thi nhiệm vụ quốc tế gây ra
các thảm họa nghiêm trọng hay định chế quốc tế về tài chính làm suy yếu nội lực
của quốc gia khi giải quyết các bất ổn và tạo ra rào cản to lớn đối với người dân
Haiti trong tiếp cận và hưởng thụ các quyền cơ bản của con người về cuộc sống,
sức khỏe, nước sạch, vệ sinh và môi trường trong lành [106, tr. 1-11].
1.1.1.2. Các biện pháp bảo đảm thực thi quyền tiếp cận nước sạch
Sau khi, quyền tiếp cận nước được thừa nhận, các quốc gia thành viên xây
dựng kế hoạch, chiến lược với các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận nước
phù hợp với bối cảnh, nguồn lực quốc gia. Có nhiều công trình nghiên cứu, tổng quan
và đề xuất các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền, nổi bật:
8



Công trình nghiên cứu: Improving the right to water in the Netherlands – Cải
thiện quyền tiếp cận nước ở Hà Lan của H.F.M.W. van Rijswick, cho rằng: Quyền
tiếp cận nước của Hà Lan được xây dựng dựa vào trách nhiệm thực thi luật môi
trường của Liên minh châu Âu; đó là sự kết hợp tiếp cận quyền con người và quản
lý tài nguyên nước tổng hợp. Tác giả đã phân tích vai trò của Hà Lan đối với
quyền tiếp cận nước, trong đó khẳng định: Chính phủ Hà Lan là một trong số các
quốc gia thừa nhận tiếp cận nước là một quyền độc lập của con người tại phiên
họp của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc năm 2008. Tuy nhiên, Hiến
pháp Hà Lan không có điều nào quy định rõ về quyền tiếp cận nước mà có thể
thực thi qua các quyền khác, như: Điều 21 “Chính quyền có trách nhiệm bảo đảm
môi trường trong lành, duy trì ổn định đời sống của người dân”; Điều 22, bảo đảm
thực thi quyền nâng cao sức khỏe dân cư; Điều 11 về tính bất khả xâm phạm của
con người (Điều 11). Hay thực thi các cam kết quốc tế mà Hà Lan tham gia, như:
Công ước Quốc tế về Các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá, Bình luận chung số
15… Mặc dù, không được quy định cụ thể trong Hiến pháp nhưng quyền này được
quan tâm, bảo vệ khá tốt thông qua Đạo luật nước kết hợp với các tiêu chuẩn chất
lượng môi trường từ Đạo luật Quản lý Môi trường và Đạo luật nước uống. Trong
đó, khẳng định tiếp cận nước không phân biệt đối xử là quyền của tất cả mọi
người trên cơ sở mức giá hợp lý (1.000 lít/€ 1,50 )[93, tr.377-384].
Cơ quan quản lý và các nhà cung cấp phải có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên
nước cả về số lượng và chất lượng để cung cấp cho sinh hoạt hàng ngày theo kế
hoạch đánh giá cụ thể nhằm bảo đảm các tiêu chí của quyền tiếp cận nước: (i)
Tính sẵn có: cung cấp nước cho mỗi cá nhân phải đầy đủ và liên tục cho sử dụng,
như: nước uống, vệ sinh, giặt, nấu ăn,…; (ii) Chất lượng: nước sử dụng phải an toàn,
không nhiễm bẩn các chất hữu cơ, vi khuẩn, hóa học gây ảnh hưởng đến sức khỏe
của con người; màu sắc, mùi vị có thể chấp nhận được; (iii) Tiếp cận được: mọi
người có khả năng tiếp cận dễ dàng với nước và điểm cấp nước mà không bị phân
biệt đối xử. Chấp nhận được bao gồm:

- Tiếp cận về mặt khoảng cách: Các điểm cấp nước và nước phải nằm trong phạm
vi tiếp cận an toàn cho tất cả các bộ phận dân cư. Nước đầy đủ, an toàn và có thể chấp
nhận phải được tiếp cận tới từng hộ gia đình, trường học và nơi làm việc;
9


- Tiếp cận về mặt kinh tế: Có thể chi trả được bởi tất cả mọi người;
- Tiếp cận bình đẳng: Tất cả các đối tượng dân cư đều có khả năng tiếp cận,
kể cả nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương;
- Tiếp cận thông tin: Khả năng tiếp cận cũng bao gồm quyền tìm kiếm và
nhận thông tin độc lập về các vấn đề nước.
Công trình nghiên cứu trên, là một tài liệu nghiên cứu, đánh giá khá chi tiết
trên cơ sở các dữ liệu đầu vào phong phú và phù hợp [93, tr. 388-391].
Trong nghiên cứu của Pedi Obani (2015), The human rights to water and
sanitation in courts worldwide: a selection of national, regional, and international
case law- Quyền con người đối với nước và vệ sinh tại các tòa án trên toàn thế
giới: Trường hợp luật quốc gia, khu vực và quốc tế. Tác giả đã phân tích quyết
định của các cơ quan tư pháp về quyền tiếp cận nước và vệ sinh ở quy mô khu vực
và quốc gia nhằm giải quyết các bất bình đẳng về phân phối nước. Công trình chia
thành ba phần chính:
(i) Các nguyên tắc cần thiết để thực hiện các quyền tiếp cận nước và vệ sinh,
gồm: Không phân biệt đối xử và bình đẳng, tiếp cận thông tin, sự tham gia, trách
nhiệm giải trình và tính bền vững cùng với các quy tắc: tính khả dụng, khả năng
tiếp cận, chấp nhận được, chất lượng và an toàn;
(ii) Pháp lý quốc gia: Phân tích 65 quyết định của 28 tòa án quốc gia châu
Phi, châu Mỹ, châu Á, châu Âu và châu Đại dương. Các tòa án đều công nhận
quyền tiếp cận nước và vệ sinh trên cơ sở sự đồng thuận của quốc tế, công nhận
hiến pháp về quyền tiếp cận nước và vệ sinh, cũng như liên quan đến các quyền
con người cơ bản khác mà các quốc gia này là thành viên;
(iii) Pháp lý khu vực, gồm 20 quyết định bảo vệ quyền tiếp cận nước và vệ

sinh trên cơ sở các văn bản quy phạm khu vực và quốc tế khác nhau như Hiến
chương Châu Phi về Nhân quyền, Công ước Châu Âu về Nhân quyền, Công ước
về Quyền Con người, Công ước về Quyền con người của Hoa Kỳ, cũng như các
hiến pháp quốc gia có liên quan đến thực thi quyền tiếp cận nước và vệ sinh. Phần
lớn các phán quyết của tòa án đều không liên quan đến bối cảnh xã hội, kinh tế và
chính trị hiện tại của mỗi quốc gia, khu vực mà chỉ dựa vào các quy định pháp luật
đã được thông qua. Vì vậy, các nguyên tắc nhân quyền đã được bảo đảm.
10


Có thể nói, đây là một tài liệu khởi đầu hữu ích cho các nhà luật học, các học
giả, các nhà quản lý, … trên cơ sở cái nhìn tổng quan về việc thực hiện quyền tiếp
cận nước và vệ sinh ở các cấp quản lý khác nhau [102, tr. 1-3].
Tương tự, David R.Boyd (2012), The right to water: A briefing note – Quyền
tiếp cận nước: Một ghi chú tóm tắt đã tổng quan khá đầy đủ về quan điểm, cơ sở
lý luận liên quan đến quyền tiếp cận nước của Liên hợp quốc đến những quan
điểm, nhận xét từ các công trình nghiên cứu khác nhau. Theo đó, việc thừa nhận
quyền tiếp cận nước đòi hỏi các quốc gia phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi đầy đủ
quyền. Trước hết, tôn trọng quyền đòi hỏi không được can thiệp trực tiếp hay gián
tiếp thực thi quyền (các chính phủ không thể từ chối các dịch vụ nước tới cá nhân
kể cả những người không có khả năng chi trả). Bảo vệ quyền có nghĩa là bảo đảm
rằng các bên tham gia không can thiệp hoặc vi phạm quyền (thông qua việc ban
hành và thi hành luật ngăn ngừa ô nhiễm nước). Thực thi quyền yêu cầu phải có
hành động tích cực của nhà nước như đầu tư vào cơ sở hạ tầng xử lý nước và phân
phối để bảo đảm rằng quyền được phổ biến rộng rãi. Để bảo vệ quyền tiếp cận
nước các quốc gia đã đưa ra nhiều biện pháp thực thi ở các mức độ khác nhau,
như: có ít nhất 18 quốc gia quy định rõ ràng hoặc thông qua việc thừa nhận quyền
tiếp cận nước trong các quyền con người khác; hàng chục quốc gia thừa nhận
trong luật pháp hoặc chính sách quốc gia; chằng hạn Pháp ban hành Đạo luật nước
năm 2006, trong đó công nhận rõ quyền sử dụng nước: Nước là tài sản quốc gia,

cần thiết phải bảo vệ và cải thiện phù hợp với sự cân bằng của tự nhiên; đồng thời
tất cả người dân đều có quyền tiếp cận nước uống theo những điều kiện chấp nhận
được về mặt kinh tế; chi phí sử dụng nước phải tính đến cả chi phí môi trường và
tài nguyên phù hợp với điều kiện địa lý, khí hậu.
Có thể nói, với sự thừa nhận này đã góp phần cải thiện điều kiện dịch vụ tiếp
cận nước của người dân bởi các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các
Chính phủ gia tăng và được ưu tiên. Ngoài ra, các quốc gia cũng ban hành các văn
bản điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế mà
mình thừa nhận để kiểm soát và trừng phạt các hành vi vi phạm quy định. Trong
đó, tòa án là nơi có phán quyết cao nhất giải quyết các tranh chấp của các bên có
liên quan. Các tòa án dựa vào các cam kết quốc tế mà nước mình là thành viên để
xem xét, theo đó tiếp cận nước uống an toàn là điều kiện tiên quyết cơ bản để
hưởng các quyền con người khác, bao gồm quyền sống và quyền sống trong một
môi trường lành mạnh
11


Thực tế, khi quyền được bảo vệ hợp pháp sẽ góp phần:
- Thúc đẩy luật, quy định và chính sách về tiếp cận nước tập trung hơn;
- Ưu tiên các nguồn lực để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, quản lý nước;
- Trao quyền cho công dân và cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết
định liên quan đến nước;
- Làm rõ các ưu tiên thích hợp trong việc phân bổ nguồn nước khan hiếm;
- Cung cấp các biện pháp điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhất là các biện
pháp ngăn chặn vi phạm thực hiện quyền;
- Bảo vệ nguồn nước khỏi ô nhiễm và các tác động tiêu cực khác;
- Ngăn ngừa sự phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội, nhất là nhóm yếu thế;
- Cung cấp phương tiện để các chính phủ và các công ty có trách nhiệm giải
trình tiến trình thực thi bảo đảm quyền bảo đảm độ tin cậy và minh bạch.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: cũng có những quốc gia chưa thừa nhận quyền

tiếp cận nước và vệ sinh là một quyền con người cơ bản. Cụ thể: Hiến pháp, hệ thống
pháp luật và tòa án Canada không công nhận quyền tiếp cận nước. Canada là nước
duy nhất bỏ phiếu chống lại nghị quyết công nhận quyền tiếp cận nước tại Ủy ban
Nhân quyền năm 2002, 2003, 2010 với hai lý do:
(i) Nhận thức về quyền tiếp cận nước sẽ làm giảm các quyền con người khác
bằng cách chuyển hướng các nguồn lực để thực thi, họ đưa ra câu hỏi: Điều gì có
thể được nhấn mạnh hơn nếu sức khỏe và phúc lợi của một tỷ người, kể cả người
Canada bị ảnh hưởng?
(ii) Quyền tiếp cận nước có thể buộc Canada phải xuất khẩu nước cho các
quốc gia nơi đang diễn ra tình trạng thiếu nước, như: Mỹ, Mexico.
Tuy nhiên, đây chưa phải là lý do quan trọng nhất mà lý do chủ yếu là
Canada chưa thực hiện tốt nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tiếp cận
nước giữa các cộng đồng dân cư. Hàng ngàn người dân Canada không tiếp cận
được nước uống an toàn, chủ yếu là người thổ dân sống ở các khu bảo tồn. Chính
phủ liên bang ước tính có khoảng 5.000 căn nhà của cộng đồng thổ dân (đại diện
cho khoảng 20.000 cư dân) thiếu các dịch vụ cơ bản về nước, do đó tỷ lệ mắc
bệnh do thiếu nước ở cộng đồng này cũng cao hơn nhiều lần so với dân số nói
chung. Ủy viên Môi trường và PTBV cho rằng sở dĩ: "Khi nói đến sự an toàn của
12


nước uống, cư dân của các cộng đồng bản địa không được hưởng lợi nhiều so với
những cộng đồng sống ngoài khu dự trữ. Điều này một phần do không có luật và quy
định điều chỉnh cung cấp nước uống trong cộng đồng bản địa, không giống như các
cộng đồng khác” [91, tr. 1-7].
Kết quả nghiên cứu của công trình: Water as a human right under
international human rights law: Implications for the privatisation of water
services- Nước là quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế: Ý nghĩa của việc
tư nhân hóa các dịch vụ nước đã phân tích tổng quan các vấn đề về tiến trình thực
thi quyền tiếp cận nước sạch được chia thành 6 chương, mỗi chương quan tâm đến

một chủ đề riêng liên quan đến quyền tiếp cận nước.
- Chương 1: Tổng quan các vấn đề cần nghiên cứu, cơ sở lý luận.
- Chương 2: Phân tích bản chất và phạm vi quyền tiếp cận nước theo luật
quốc tế; theo đó quyền tiếp cận nước là một trong những bước phát triển quan
trọng nhất trong thập kỷ qua; là sự gia tăng của các cách tiếp cận theo hướng nhân
quyền nhằm cải thiện, khắc phục khủng hoảng nước toàn cầu, nhất là đề xuất được
các công cụ thiết lập tiêu chuẩn giám sát thực thi quyền theo Bình luận số 15 đã
đánh dấu sự thay đổi quyết định hướng tới xây dựng cơ sở pháp lý về quyền.
- Chương 3: Phân tích mối quan hệ giữa tư nhân hóa và quyền tiếp cận nước.
- Chương 4: Phân tích nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm thực thi quyền
tiếp cận nước, tập trung đặc biệt vào bối cảnh tư nhân hoá các dịch vụ về nước.
Tác giả đưa ra 04 nghĩa vụ của Nhà nước: tôn trọng, bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy
quyền tiếp cận nước. Nghĩa vụ của Nhà nước để bảo vệ quyền con người chống lại
hành vi vi phạm bởi các chủ thể tư nhân là một phần không thể tách rời của các nghĩa
vụ của Nhà nước theo các hiệp ước về quyền con người và luật pháp quốc tế.
- Chương 5: Phân tích trách nhiệm của các đối tác phi chính phủ trong thực
hiện quyền, nhất là các tổ chức quốc tế hỗ trợ nguồn lực cả về tài chính, kỹ thuật,
kinh nghiệm giúp các quốc gia cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao điều kiện sống
của người dân. Tuy nhiên, nhiều tổ chức thông qua các hỗ trợ này can thiệp vào cơ
chế chính trị, vấn đề nội bộ quốc gia. Chính vì vậy, để hạn chế những mặt tiêu cực
Liên hợp quốc sớm ban hành các nghĩa vụ ràng buộc hay Quy tắc ứng xử của các
Tập đoàn xuyên quốc gia. Đây là nỗ lực của Liên Hợp Quốc đưa ra các định mức
ràng buộc để điều chỉnh hoạt động của các Tập đoàn xuyên quốc gia.
13


- Chương 6 phân tích và thảo luận các thực tiễn tốt từ các cơ quan pháp luật
khác nhau như khuôn khổ pháp lý, các sáng kiến chính sách quốc gia, các chiến
lược, kế hoạch hành động, các hệ thống quy định và các thể chế do các quốc gia
và các đối tượng khác sử dụng phù hợp với các tiêu chuẩn quy định do quyền sử

dụng nước.
Đóng góp đáng kể của công trình này là xây dựng mô hình trách nhiệm giải
trình nhằm bảo đảm rằng các quốc gia và các đối tượng phi chính phủ tham gia
cung cấp các dịch vụ về nước đã xác định rõ ràng vai trò và trách nhiệm để thực
hiện các nghĩa vụ của quyền con người đối với nước. Theo đó, Nhà nước có trách
nhiệm chấp nhận luật, chính sách, các quy định để bảo vệ lợi ích của quyền tiếp
cận nước khỏi sự can thiệp của các đối tác phi chính phủ. Đồng thời, Nhà nước có
trách nhiệm bảo đảm đề xuất và thực thi các giải pháp chống lại các vi phạm
quyền. Một trong những giải pháp quản lý các đối tác phi chính phủ: minh bạch
thông tin, thảo luận hợp đồng [98, tr.1-95].
Ngoài ra, các biện pháp kỹ thuật cũng được đưa vào áp dụng để giám sát tiến
trình cấp nước, như: Kết quả nghiên cứu của công trình: A confluence of new
technology and the right to water: experience and potential from South Africa’s
constitution and commons – Tích hợp công nghệ mới và quyền tiếp cận nước: kinh
nghiệm và tiềm năng từ hiến pháp Nam Phi, cho thấy: Hiến pháp của Nam Phi quy
định chi tiết về quyền tiếp cận nước (Section 27). Tuy nhiên, để đối mặt với những
“áp lực” từ thiếu nước, nhiều biện pháp của chính phủ đã được thực thi. Bên cạnh
các giải pháp quản lý tổng hợp tài nguyên nước, đầu tư cơ sở hạ tầng, Nam Phi ưu
tiên phát triển hệ thống giám sát hoạt động cấp nước từ xa, như: ứng dụng công cụ
Telemetry để tự động giám sát số lượng, chất lượng nước sử dụng, phát hiện rò rỉ,
lỗi kỹ thuật, xả thải nước sao cho bảo đảm từ 20 đến 50 lít / người / ngày đến tất
cả mọi người trong khoảng cách 200m. Các dữ liệu giám sát là “tức thời và thời
gian thực” từ hiện trường sẽ được truyền tải đến trung tâm lưu trữ, tới bộ phận
quản lý hoặc người dân qua tin nhắn SMS. Việc sử dụng công nghệ thông tin
trong quản lý tiếp cận nước đã giảm thời gian tìm kiếm các lỗi kỹ thuật, hạn chế số
lượng nguồn nhân lực tham gia vào hệ thống quản lý, do đó chi phí cung cấp dịch
vụ sẽ giảm, góp phần tạo nguồn lực cho đầu tư tái thiết và giảm giá thành sản
14



phẩm, qua đó giúp số lượng người dân được tiếp cận nước an toàn tăng lên. Hay
áp dụng công cụ FLOW (Field Level Operations Watch) trong giám sát các điểm
dịch vụ nước; dữ liệu sẽ được tải lên mạng Internet từ thực tế bởi các bên cơ quan
quản lý địa phương qua ứng dụng điện thoại Android, từ đó thực trạng của mạng
lưới phân phối nước sẽ xuất hiện trên Google Maps, những người quan tâm có thể
truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, có một thực tế là điện thoại thông minh có giá thành
cao, không phải người dân nào cũng có thể sở hữu nên việc theo dõi thông tin
không dễ dàng, đồng thời đòi hỏi phải có hệ thống cơ sở hạ tầng viễn thông tốt cần
có nhiều nguồn lực hơn [101, tr.1-16].
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về tiếp cận nước sạch ở nông thôn
Có sự khác biệt lớn giữa tiếp cận các dịch vụ nước ở khu vực nông thôn và
thành thị; trong đó người dân nông thôn khó tiếp cận các dịch vụ cấp nước sạch
hơn, do thu nhập thấp không đủ kinh phí để trang trải cho tất cả các nhu cầu đời
sống hàng ngày; theo thống kê có khoảng 5/6 người không tiếp cận được với
nguồn nước được xử lý sống ở vùng nông thôn; người dân nông thôn ít có tiếng
nói hơn trong các quyết định chính sách. Ngoài ra, các quy hoạch cấp nước thiếu
tính bền vững và năng lực về tài chính, quản lý, các yêu cầu kỹ thuật nên việc cải
thiện và duy trì các thành quả cấp nước rất hạn chế. Điều này được thể hiện trong
các công trình nghiên cứu sau:
Công trình nghiên cứu của Kerstin Danert and Cara Flowers (2012), People,
Politics, the Environment and Rural Water Supplies - Con người, Chính trị, Môi
trường và Cấp nước Nông thôn, tập trung phân tích khá toàn diện về quyền tiếp
cận nước, nhất là các thành tố liên quan đến cấp nước nông thôn. Cố gắng trả lời
các câu hỏi có liên quan, như: cấp nước nông thôn là gì? Tài chính thực thi như
thế nào? Ai là người chịu trách nhiệm chính để hiện thực hóa quyền này? Theo đó,
các tác giả cho rằng: Với việc tiếp cận nước và vệ sinh được Đại hội đồng Liên
hợp quốc công nhận là một quyền độc lập đã mở ra cơ hội mới để cải thiện nguồn
cấp nước. Đề xuất thuật ngữ “tiến trình hiện thực hóa” để các quốc gia có thời
gian xác định các chiến lược, hiện thực hóa quyền tiếp cận nước phù hợp với bối
cảnh trên cơ sở bộ tiêu chuẩn của Bình luận chung số 15 với các hình thức quản lý

linh hoạt. Đồng thời, kết luận rằng: Vẫn còn khoảng cách khá lớn trong tiếp cận
15


nguồn nước được cải thiện giữa đô thị và nông thôn; Nghèo đói là yếu tố chủ yếu
dẫn đến thiếu các dịch vụ cơ bản, nhất là ở vùng nông thôn của các quốc gia có
thu nhập thấp và trung bình. Nghiên cứu cho rằng, các chính phủ và nhà tài trợ
mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng và cải thiện các cơ sở cấp nước mà chưa chú
trọng đến tính bền vững. Liên hợp quốc ước tính rằng 1/3 chiếc bơm tay đầu tư ở
châu Phi không hoạt động; Thực tế, sau khi lắp đặt, chính phủ hoặc NGOs đã bàn
giao các thiết bị cấp nước cho cộng đồng, từ đó họ có trách nhiệm quản lý và duy
trì sự hoạt động của nguồn cung cấp. Tuy nhiên, chính phủ và các NGO thường
quan tâm, chú trọng đến việc mở rộng lắp đặt các thiết bị cấp nước mới, cải thiện
chất lượng nguồn nước mà không kèm theo nâng cao năng lực quản lý và nguồn
lực tài chính hỗ trợ duy tu, bảo dưỡng nên tính bền vững của các nguồn cung
thường không ổn định. Ngoài ra, cư dân nông thôn ít có tiếng nói trong các quyết
định về chương trình, kế hoạch và lựa chọn mô hình quản lý sau đầu tư hiệu quả.
Vì vậy, để cải thiện nguồn cấp nước nông thôn cần tập trung vào các giải pháp kỹ
thuật, công nghệ, nhất là nâng cao trình độ quản lý và tìm phương pháp quản lý
bền vững hướng tới hoàn thành mục tiêu Thiên niên kỷ số 7, khoản c: Giảm một
nửa số người không tiếp cận bền vững với nước uống an toàn và vệ sinh cơ bản
thông qua các chính sách, tài chính và phương pháp tiếp cận cung cấp nước sinh hoạt
kể từ năm 2000 [97, tr.2-17].
Trong công trình nghiên cứu: “On the right track: Good practices in
realising the rights to water and sanitation – Đi đúng hướng: Bài học hay về thực
hiện quyền nước và vệ sinh” của chuyên gia độc lập Liên hợp quốc về quyền tiếp
cận nước và vệ sinh đã tổng quan nhiều hướng tiếp cận và các giải pháp của các
quốc gia đã áp dụng để thực thi quyền, như: tiếp cận nước theo hướng cung ứng
hoặc theo nhu cầu đối với cung cấp các dịch vụ nước, trong đó tiếp cận cung ứng
được xem là giải pháp từ trên xuống, chính phủ (hoặc các cơ sở cung cấp được ủy

quyền) cung cấp dịch vụ nước với sự tham gia hạn chế của người sử dụng, đây
được xem là cách tiếp cận phổ biến ở các khu vực phát triển bởi không có sự lựa
chọn về loại hình và giá cả dịch vụ; tiếp cận theo nhu cầu là loại hình người sử
dụng tham gia đầy đủ các quyết định liên quan đến loại hình dịch vụ và mức giá
phải trả; tiếp cận theo cung ứng phù hợp với nguyên tắc các chính phủ có trách
16


nhiệm bảo đảm rằng các quyền về nước được thực hiện cho tất cả mọi người, tuy
nhiên, nếu bỏ qua sự tham gia của người dân và cộng đồng có thể các dịch vụ cung
cấp không đáp ứng các nhu cầu và mong muốn cụ thể của cộng đồng. Từ các kết quả
tổng quan này, cho thấy để thực thi hiệu quả quyền tiếp cận nước cần có sự tham gia
của tất cả các bên có liên quan đến dịch vụ cung cấp, điều này đã được minh chứng ở
hàng loạt các chương trình, dự án ở quốc gia, chẳng hạn [88, tr.26-40; 113-118]:
Tại Tanzania, với sự hỗ trợ của tổ chức phi chính phủ ONGAWA, Ingenieria
Para el Desarrollo Humano đã khắc phục được những khó khăn về năng lực quản
lý và tính bền vững của các điểm cấp nước. Các tổ chức và chính quyền địa
phương đã áp dụng phương pháp tiếp cận có sự tham gia của tất cả các bên có liên
quan, không phân biệt đối xử để bảo đảm rằng mọi khía cạnh liên quan đến tiếp
cận các dịch vụ về nước đều được xem xét, đánh giá về kỹ thuật, lợi ích về sức
khỏe, bảo đảm về môi trường, khả năng của người sử dụng, từ các thảo luận, phân
tích đó đã tìm ra giải pháp hợp lý, phù hợp với năng lực và mong muốn của người
sử dụng, đó là: thành lập ủy ban thực hiện quản lý, điều hành các điểm cấp nước
với sự hỗ trợ nâng cao nhận thức và năng lực quản lý của các tổ chức phi chính
phủ; đến nay các điểm cấp nước đã bảo đảm được tính bền vững về kỹ thuật và tài
chính. Chương trình quản lý nguồn tài nguyên nước (WARM-P) ở Nepal: đã được
thiết kế để sử dụng các nguồn nước giới hạn ở mức tối đa của cộng đồng với việc
ưu tiên cho mục đích sử dụng cá nhân và sinh hoạt. Chương trình đã làm việc với
cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ địa phương, chính quyền địa phương, đại
diện các hộ gia đình để cùng thảo luận đưa ra danh sách ưu tiên sử dụng nước ,

đánh giá tính khả thi của các dự án nước và đề xuất giải pháp kỹ thuật phù hợp
nhất cho việc quy hoạch tổng thể sử dụng nước. Hai hoạt động trên đây đã thúc
đẩy sự tham gia của cộng đồng với chính quyền địa phương để tăng khả năng các
dịch vụ về nước sẽ được bền vững và tăng trách nhiệm giải trình của chính quyền
địa phương trong việc cung cấp, vận hành và duy trì các dịch vụ này.
Có 03 nguồn cấp nước sinh hoạt chính cho dân cư nông thôn, đó là nước bề
mặt, nước ngầm và nước mưa với các công nghệ dịch vụ cấp cũng đa dạng phù
hợp với điều kiện của từng lãnh thổ. Theo Khung đánh giá kỹ thuật (TAF) đề xuất 07
kỹ thuật cấp nước: Khai thác nước ngầm: công nghệ khoan, đào giếng; Khai thác
17


nước mưa: bể chứa trên mái nhà và đập,…; Nâng mức nước: bơm tay - bao gồm máy
bơm tay và chân, máy bơm cơ giới - bao gồm động cơ diesel, xăng, năng lượng mặt
trời và bơm gió; Phân phối nước: bơm cung cấp nước bằng đường ống và cung cấp
nước trọng lực; Dự trữ nước: tại các hộ gia đình/cộng đồng, như: bể chứa nước mưa;
một phần của hệ thống phân phối đường ống (bể nâng hoặc trên mặt đất); Xử lý
nước: tại các hộ và một phần hệ thống phân phối; Khác: nước đóng chai.
Để cải thiện và bảo đảm tính bền vững của các công trình cấp nước, các quốc
gia đã ban hành khung thể chế và phương thức thực thi chính sách riêng phù hợp
với bối cảnh và từng giai đoạn phát triển, trong đó một cơ quan chính phủ sẽ được
giao trách nhiệm thực thi, tư vấn và giám sát tiến trình thực hiện. Chương trình
nước sạch nông thôn quốc gia Ấn Độ (sửa đổi), 2013 là một ví dụ điển hình, với
mục tiêu bảo đảm tính bền vững của nguồn nước sẵn có về năng suất, cung cấp
đầy đủ về số lượng, chất lượng, liên tục, phù hợp và công bằng với tất cả các đối
tượng trên cơ sở tiếp cận quản lý phân cấp và cộng đồng. Kế hoạch 5 năm của
chương trình tập trung tăng áp lực nước cho hệ thống đường ống, gia tăng kết nối
vòi nước, tăng chỉ tiêu cấp nước từ 40 lít/người/ngày lên 55 lít/người/ngày. Mục
tiêu của năm 2017, có ít nhất 50% dân cư nông thôn được tiếp cận mức nước 55
lít/người/ngày trong bán kính 100m; 35% được kết nối tới gia đình tăng 23% so

với năm 2013, dưới 20% sử dụng vòi nước công cộng và 45% sử dụng bơm tay
hoặc các nguồn cấp nước khác; tất cả các dịch vụ đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng
và số lượng theo giờ cung cấp mỗi ngày; 60% các cơ sở cấp nước được quản lý
bởi cộng đồng địa phương. Mục tiêu đến năm 2020, bảo đảm ít nhất 90% hộ được
cung cấp nước bằng đường ống; ít nhất 80% được kết nối tới hộ gia đình, 10% kết
nối tới vòi nước công cộng và nhỏ hơn 10% sử dụng bơm tay hay các nguồn khác;
100% các cơ sở cấp nước được quản lý bởi cộng đồng địa phương. Để thực hiện
được mục tiêu này, chương trình cũng hướng dẫn nhiều giải pháp cụ thể, như: tất
cả các kế hoạch cung cấp nước sạch mới được thiết kế, đánh giá và thực thi cần
tính đến chi phí cho cả chu kỳ tồn tại; xử lý nước thải và tái chế cần được lồng
ghép trong các dự án cấp nước; ưu tiên các địa phương khó khăn trong cấp nước;
xây dựng kế hoạch theo tiếp cận có sự tham gia và thực hiện quản lý tổng hợp tài
nguyên nước; …. [92, tr.v-3]
18


Trong nghiên cứu của Jorge Guardiola et al. (2013), The Influence of Water
Access in Subjective Well-Being: Some Evidence in Yucatan, Mexico - Ảnh hưởng
của việc tiếp cận nguồn nước đối với sự hài lòng: Một số bằng chứng ở Yucatan,
Mexico, cho thấy: người dân có 3 cách tiếp cận nước chủ yếu: trong nhà hoặc
ngoài nhà từ vòi nước hoặc giếng. Tuy nhiên, họ thường xuyên bị cắt nước từ vòi
do đường ống cũ và áp lực kém. Để khắc phục tình trạng thiếu nước, người dân
thường tiếp cận nước tại các giếng hoặc mua nước đóng chai; theo thống kê mua
nước đóng chai là hình thức tiếp cận ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người dân,
cụ thể: có 11% các hộ không mua nước đóng chai, 7,3% dành hơn 10% thu nhập
để mua nước đóng chai; trung bình dành 4,2% thu nhập cho nhu cầu này. Tiền
dành cho mua nước có thể được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu khác cho cuộc
sống. Do đó, chi phí cho nước đóng chai vừa là dấu hiệu chất lượng nước thấp vừa
là dấu hiệu làm tăng chi phí cơ hội dẫn tới những hiệu ứng tiêu cực cho cuộc sống.
Vì vậy, khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách địa phương cần nâng cao các

dịch vụ cấp nước, bảo đảm đầy đủ về chất lượng, số lượng và không ảnh hưởng
đến các nhu cầu khác của cá nhân và gia đình [96, tr.212-217].
Đánh giá chung
Các công trình kể trên đã cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử hình thành,
nguồn gốc xuất hiện quyền tiếp cận nước sạch ở quy mô toàn cầu, quan niệm, mục
tiêu và cơ sở lý thuyết về nội hàm tiêu chuẩn theo Bình luận chung số 15 - cơ sở
đối chiếu thực thi đánh giá, giám sát tại các quy mô lãnh thổ khác nhau trong tiến
trình thực thi quyền. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mức độ công nhận
quyền ở các quốc gia cũng như các biện pháp được đề xuất nhằm bảo đảm quyền.
Theo đó, khoảng cách tiếp cận các dịch vụ cấp nước được cải thiện giữa dân cư
nông thôn và dân cư đô thị đang ngày càng mở rộng, bởi nhiều nguyên nhân, như:
gia tăng nghèo đói, thiếu sự tiếp cận với các dịch vụ cơ bản ở nhiều vùng nông
thôn của các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp; ngoài ra người dân nông
thôn cũng thiếu tiếng nói chính trị, ít được tham gia vào tiến trình ra quyết định.
Để khắc phục thách thức trên Liên hợp quốc, các tổ chức NGOs và các chính phủ
đang nỗ lực phối hợp để xây dựng và thực thi các chương trình cấp nước sạch, an
toàn cho người dân nông thôn nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch với người
19


×