Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

tư liệu văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.92 KB, 47 trang )

Tư liệu Văn học lớp 7
Nam quốc sơn hà:
“Nam quốc sơn hà” là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam,
được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Nguồn gốc:
Từ trước, bài thơ được cho là sáng tác của Lý Thường Kiệt trong lần chống quân xâm lược
Tống tại sông Cầu năm 1077. Tuy nhiên mới đây, trong cuốn sách Bối cảnh định đô Thăng
Long và sự nghiệp của Lê Hoàn do Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 2006, nhiều nhà
nghiên cứu khẳng định bài thơ này ra đời từ thời Tiền Lê và cũng được sử dụng trong trận
đánh chống quân Tống, nhưng là lần đầu vào năm 981.
Các tác giả cho rằng: Sử sách (Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Việt
điện u linh...), đều chép Lý Thường Kiệt sai người vào đền thờ anh em Trương Hống,
Trương Hát (tướng của Triệu Việt Vương) ngâm bài thơ này nhưng không nói rõ ông là tác
giả. Như vậy, các tác giả kết luận: Lý Thường Kiệt chỉ là người vận dụng bài thơ này để đuổi
quân Tống.
Bằng nhiều dẫn chứng
[1][2]
các tác giả khẳng định bài thơ được sáng tác thời Tiền Lê và cũng
được Lê Hoàn vận dụng, trong đó bài thơ có một vài chữ sai khác với văn bản mọi người
thường biết.
Trên thực tế, tư liệu để lại xác đáng hơn cả viết bài thơ này được Lê Hoàn sử dụng là sách
Lĩnh Nam trích quái, khoảng trang 72-74 có ghi: “Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần
nhân cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa
to, gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng
ngâm rằng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”. Quân Tống nghe thơ, xéo đạp vào nhau mà
chạy tan… Lê Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị
thần nhân… sai dân phụng thờ… nay vẫn còn là phúc thần”.
Bản chuẩn:
Bản phiên âm Hán-Việt:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,


Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản dịch thơ:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách Trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Dị bản khác:
Phiên âm Hán - Việt:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng Thiên dĩ định tại Thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Bạch nhận Thiên hành phá trúc dư
Bản dịch thơ:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam,vua Nam ngự
Sách Trời định phận rõ non sông
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Thượng tướngTrần Quang Khải:
Trần Quang Khải (1241–1294), con thứ ba của Trần Thái Tông, là đại tướng đời nhà Trần,
làm đến chức Tướng quốc đời Trần Thánh Tông, coi cả mọi việc trong nước. Sang đời Trần
Nhân Tông, năm Thiệu Bảo tứ tư, khi quân Nguyên xâm lăng bờ cõi nước Nam, ông được
phong chức Thượng tướng Thái sư, lãnh binh trấn giữ mặt Nam đất Nghệ An, lập công lớn
tại Chương Dương Độ. Khi dẹp tan quân Nguyên, triều đình xét công, ông đứng vào bậc
nhất.
[2]

Trần Quang Khải được người dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình làng
Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phương Bông cũng lưu lại điệu múa
"bài bông" được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi Trần Quang Khải trong tiệc "thái
bình diên yến" do Trần Nhân Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.
[3]
Tiểu sử:
Trần Quang Khải sinh tháng 10 âm lịch năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 10 (1241) đời Trần
Thái Tông, mất ngày 3 tháng 7 âm lịch năm Hưng Long thứ hai (1294) đời Trần Anh
Tông. Là em cùng mẹ với Trần Thánh Tông (nghĩa là con thứ hai của hoàng đế Trần
Thái Tông với Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu Lý thị), ông là người học rộng
tài giỏi, biết nhiều thứ tiếng. Năm Thiệu Long thứ nhất (1258) đời Trần Thánh Tông,
ông được phong tước Chiêu Minh Đại vương, nắm chức Thái sư.
Trận Nghệ An
Năm Ất Dậu 1285 Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn công quân
Nam, có Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Hưng Đạo Vương tâu
vua xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ An, và cho
Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương. Trần Quang Khải
vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ. Thấy thế giặc quá mạnh, ông cho lui quân ra
mặt biển và giữ các nơi hiểm yếu. Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương,
bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc. Trần Quang Khải hay tin cho
người về Thanh Hóa cấp báo. Vua cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cùng Trần
Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc
huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.
Trận Chương Dương Độ, khôi phục Thăng Long
Lúc bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến
Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được lệnh vua, cùng
Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra
đến bến Chương Dương tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên địch không
nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân lên bờ đuổi đánh về đến chân
thành Thăng Long, nhưng ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngoài thành. Thoát Hoan

đem quân ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại bại phải bỏ thành Thăng Long
vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay).Trần Quang Khải cho quân vào
thành chiếm lại Thăng Long, và cho quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai tháng, đại
phá quân Nguyên hai lần tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân nhà Trần trở nên
rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp và đuổi được Thoát Hoan về Trung Quốc.
Tác phẩm
Trần Quang Khải, cũng như một số đại tướng đời Trần, là người học rộng và có viết văn,
làm thơ. Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ông nay còn lại một số bài thơ, liệt kê dưới
đây:
• Tòng giá hoàn kinh
• Phúc hưng viên
• Lưu gia độ
• Dã thự
• Xuân nhật hữu cảm
Cảm nghĩ khi đọc Phò giá về kinh của Trần Quang Khải
Hào khí Đông A (chiết tự chữ Trần viết theo Hán tự) khởi phát bởi chiến thắng đế
quốc Nguyên - Mông lần thứ nhất - 1258 đã được khẳng định rực rỡ, hùng hồn
bằng các chiến công vang dội trong hai lần đại thắng 1285, 1287 sau đó. Con cháu
của những “Người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong” đã làm cho kẻ
xâm lược hãi hùng ngay cả khi chúng yên ổn về nước - “Nghe tiếng trống đồng mà
tóc trên đầu bạc trắng” (Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh). Đó là sức mạnh
toàn diện của dân tộc dưới thời nhà Trần trên cơ sở ý thức tự cường, tự chủ.
Khí phách hào hùng ấy đã vang động thành cảm hứng yêu nước được biểu hiện
một cách tập trung, đa dạng trong thơ văn. Từ một lời hịch thiết tha trước khi lâm
trận, bài phú hào sảng, hồi quang mấy chục năm sau đến những tứ tuyệt, những
ngũ ngôn 4 câu, 20 chữ ngay trong cuộc chiến. Phò giá về kinh của Trần Quang
Khải là một trong những bài như thế.
Cuối năm 1284 đầu năm 1285, quân Nguyên- Mông ào ạt tấn công nước ta lần
thứ hai. Tình thế đất nước hiểm nghèo, các vua Trần phải dời kinh đô tìm phương
kế chống đỡ. Nhưng chỉ qua mùa xuân năm 1285, quân ta đã chuyển thế tấn công.

Tháng tư, trong trận đánh tại Hàm Tử, một địa điểm trên sông Hồng tại huyện
Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên ngày nay) tướng Trần Nhật Duật đã phá tan đạo quân
Thát Đát, bắt sống giặc Ô Mã Nhi. (Trong Đại cáo bình Ngô sau này Nguyễn Trãi
nhầm sự việc nên viết “Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tươi Ô
Mã”). Tháng 6, Trần Quang Khải thắng tiếp trận Chương Dương, đuổi đạo quân
chủ lực của Thoát Hoan chạy dài lên phía bắc, giải phóng Thăng Long, rước vua
Trần trở lại kinh thành. Trong không khí ấy, ông ngẫu hứng cao độ làm nên Tụng
giá hoàn kinh sư (Phò xa giá nhà vua về lại kinh đô) danh bất hư truyền. Cùng
khoảng thời gian này, vua Trần khi đến tế ở nhà Thái miếu cũng ứng khẩu hai
câu : "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã / Sơn hà thiên cổ điện kim âu". Nghĩa là "Đất
nước hai phen bon ngựa đá /Non sông nghìn thủa vững âu vàng", cùng một mạch
cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc.
Bài thơ chỉ bốn câu, theo lối năm chữ mạch lạc, gọn gàng. Hai câu đầu kể lại hai
chiến công hiển hách vừa mới đó, đang còn tươi nguyên không khí chiến thắng. Có
nét đặc biệt là trình tự các chiến công không được nêu theo diễn biến thời gian
trước sau. Chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Cách trình bày như
thế là theo cái lô-gíc của cảm hứng. Trận sau mới hơn và cũng vang dội hơn. Chính
nhờ chiến thắng Chương Dương mà Thoát Hoan phải bỏ chạy, Thăng Long được
giải phóng. Chính nhờ chiến tháng Chương Dương mà có cái không khí rạo rực
phấn chấn trong ngày “về lại thủ đô” này. Lời thơ rất cô đúc, vẻn vẹn mười chữ,
nêu hai sự việc là “cướp giáo giặc” và “bắt quân thù”. Song qua hai hình ảnh này
người đọc cảm nhận được niềm phấn chấn, hân hoan. Đúng là câu thơ đăng đối
bên ngoài đanh chắc, bên trong chứa chan xúc cảm. Cảm xúc theo kiểu cô lại. Sự
cô đúc này tạo ra một thế năng, khả năng khơi gợi người đọc suy ngẫm. Một trong
những đặc trưng thẩm mĩ của thi pháp cổ là gợi, ít chú trọng kể, tả.
Hai câu thơ sau là lời động viên, quyết tâm xây dựng,bảo vệ nền thái bình của
giang sơn, đất nước.
Nguyên văn :
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san

Vẫn trình bày theo lối ngũ ngôn như trước nhưng lại đặt ra một nhiệm vụ, một
yêu cầu hoàn toàn mới. Thông thường, sau chiến thắng người ta dễ thoả mãn, dễ
say sưa với vinh quang, bỏ lỡ một khoảng thời gian cần thiết chuẩn bị cho tương
lai. Trần Quang Khải đã có nhận thức hoàn toàn đúng và đặt vấn đề một cách kịp
thời về những công việc thời hậu chiến. Ông hiểu rằng những công việc của một
đất nước sau chiến tranh là hết sức bộn bề. Thái độ và hành động ở thời kì thái
bình rất cần phải tập trung là “tu trí lực”. “Tu” là học tập, bồiđắp, “trí lực” là trí
tuệ, khả năng. Ý thơ vẫn tiếp tục gợi cho người đọc hiểu thêm rằng, đất nước vẫn
đang đòi hỏi, còn yêu cầu những con người chiến thắng này nhiều cống hiến hơn
nữa. Có như vậy mới có sự yên bình, vững chãi muôn năm. Một ý thơ đầy tinh
thần trách nhiệm.
Bài thơ có cái hồ hởi, phấn chấn tột cùng trước những chiến thắng, những chiến
công. Niềm tự hào, niềm say mê, tinh thần lạc quan thật bay bổng phù hợp với hào
khí Đông A thủa ấy. Nhưng đây cũng là một niềm vui rất lí trí, rất tỉnh táo sáng
suốt của con người ý thức được giá trị trọn vẹn của niềm vinh quang. Mặt khác
phù hợp với phong cách ngôn ngữ, uy thế của vị tướng quốc đầu triều.
Kết cấu chặt chẽ, có sức khái quát cao, cảm xúc cô đọng lại vừa có khả năng gợi
mở ý tưởng đã tạo ra một sự thống nhất nội dung và hình thức theo kiểu tuyên
ngôn riêng biệt. Đấy chính là nét đặc sắc của Phò giá về kinh.
Cho đến hôm nay bài thơ vẫn sống trong niềm tự hào dân tộc, vẫn giữ nguyên
giá trị thời sự nóng hổi, vẫn là một bài học. Bài học về ý thức, trách nhiệm xây
dựng đất nước vững mạnh sau chiển tranh.
Nguồn: Lưu Đức Hạnh, Sách Những bài văn chọn lọc lớp 10
Nguyễn Trãi:
Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, 1380–1442, là đại thần nhà Hậu Lê, một nhân vật vĩ đại
về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Công lao sự nghiệp của ông rất lớn. Đạo đức phong
cách của ông rất cao đẹp. Ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà
chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà
sử học, nhà địa lý học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Năm 1980, ông được
UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỉ niệm 600 năm ngày sinh của

ông.
Ngay từ khi còn sống, Nguyễn Trãi đã được những người đương thời khen ngợi là:
Kinh bang hoa quốc, cổ vô tiền
Nghĩa là:
Dựng nước và làm vẻ vang tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông.
Thân thế:
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), tên tự là Ức Trai, sống vào một giai đoạn lịch sử sôi động, từ
cuối đời Trần, trải qua đời Hồ thời đấu tranh chống ách Minh thuộc (của nhà hậu Trần, của
các phong trào nhân dân khắp nước, của nghĩa quân Lam Sơn) cho tới đầu đời Lê. Cha
Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi Khanh, tên hiệu là Nhị Khê, vốn gốc làng
Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn (nay thuộc Chí Linh Hải Dương), nhưng đã di cư sang làng
Ngọc Ổi (sau đổi tên thành Nhị Khê) huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín Hà Tây
cũ).
Lúc còn là thư sinh, Nguyễn Ứng Long vì nổi tiếng hay chữ cho nên được Trần Nguyên Đán,
tể tướng và là tông thất nhà Trần gả con gái cho. Năm 1374, Nguyễn Ứng Long đi thi, đậu
Bảng Nhãn. Nhưng vì là con nhà thứ dân mà dám lấy con gái nhà hoàng tộc cho nên không
được Trần Nghệ Tông cho làm quan và đành trở về quê dạy học.
Thời trẻ:
Lúc ông lên 5 tuổi mẹ ông mất.Nguyễn Trãi lúc nhỏ ở với cha là Trần Nguyên Đán. Năm
1385, Trần Nguyên Đán về trí sĩ ở Côn Sơn, đem theo cả Nguyễn Trãi về đấy. Côn Sơn lại
chính là nơi quê tổ của họ Nguyễn vì cả dãy núi này thuộc vào địa phận xã Chi Ngại, huyện
Phượng Nhãn. Từ năm 1390, sau khi ông ngoại mất, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha.
Thời Hồ:
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm đó cũng là năm mở khoa thi đầu tiên của
nhà Hồ. Nguyễn Trãi đi thi và đậu thái học sinh. Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là
Nguyễn Phi Khanh và được nhà Hồ vời ra làm quan, lĩnh chức Quốc tử giám tư nghiệp. Còn
Nguyễn Trãi thì sau khi thi đỗ được nhà Hồ cử giữ chức Ngự sử đài chính chưởng. Như vậy
là hai cha con Nguyễn Trãi thuộc số những người ra làm quan với nhà Hồ ngay từ đầu.
Năm 1407, nhà Minh đánh Đại Ngu. Cha con Hồ Quý Ly bị bắt đưa về Kim Lăng. Một số
triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt đi cùng với Hồ Quý Ly. Nguyễn Trãi

muốn trọn đạo hiếu bèn đi theo cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con nên trở về Tìm
cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới là đạo hiếu.
[2]
Trên đường trở về Nguyễn Trãi bị người Minh bắt và đem giam lỏng ở thành Đông Quan
(Hà Nội) và mặc dù bị đe dọa, mua chuộc, ông cũng không chịu ra làm quan với nhà Minh.
Năm 1417, ông trốn khỏi Đông Quan, rồi sau đó tìm đường vào giúp Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã
dâng lên Lê Lợi tập Bình Ngô sách
Theo Ngô Thế Vinh (nửa đầu thế kỉ thứ 19), viết trong tựa sách Ức Trai thi văn tập thì
phương châm cơ bản nêu trong Bình Ngô sách "không nói đánh thành mà giỏi bàn về cách
đánh lòng" . Tư tưởng chiến lược này chính là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
của nghĩa quân. Trong thời gian kháng chiến, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi trù hoạch quân
mưu. Ông lại góp phần xây dựng chính quyền dân tộc đối lập với chính quyền xâm lược.
Nguyễn Trãi đã nhân danh Lê Lợi viết những thư từ giao thiệp với tướng Minh. Những bức
thư đó (về sau được tập hợp dưới cái tên Quân trung từ mệnh tập) có tính chiến đấu mạnh
mẽ và có tác dụng lớn trong việc đánh vào tinh thần địch quân.
Tướng văn trong khởi nghĩa Lam Sơn
Từ xa, Nguyễn Trãi đã nhận thấy ở Lê Lợi một người anh hùng lỗi lạc có thể đưa sự
nghiệp giải phóng dân tộc đến thành công, nên Nguyễn Trãi đã bỏ qua nhiều phong trào khởi
nghĩa ở các địa phương gần, để lặn lội vào miền núi rừng Thanh Hoa, tìm gặp Lê Lợi và gia
nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Đó là những ngày ở Lỗi Giang, nhưng tên tuổi, sự
nghiệp của ông ghi lại trong lịch sử của dân tộc, chỉ là từ sau khi nghĩa quân Lam Sơn rút về
núi Chí Linh lần thứ ba, tức là từ năm 1423.
Từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, thì theo Trần Khắc Kiệm chép trong {(lời tựa Ức Trai thi
tập) Ức Trai di tập quyển 5} Phàm những việc quân, việc nước quan trọng đều trao cho ông
cả. Nguyễn Trãi đã vận dụng Bình Ngô sách của ông để trù tính giải quyết mọi việc quân,
việc nước quan trọng. Ông đã thành công trong việc mở rộng phong trào Lam Sơn từ một
cuộc khởi nghĩa địa phương, bó hẹp trong vùng rừng núi phủ Thanh Hoa thành chiến tranh
cả nước đánh giặc và đưa phong trào, từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba, sang một giai
đoạn phát triển mới, giai đoạn tiến công liên tục, mãnh liệt càng đánh càng được, đi đến đâu
đánh tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô

Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành
trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng
hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.
Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản công việc ở
Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương
Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc
Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng
trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra.
Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người,
quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất
4 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau
đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.
Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội
ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó.
Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của
ông nói với các tướng rằng:
"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng
năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của
địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy
nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân
trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."
Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên
đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương
Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi
thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.
Bài chi tiết: Khởi nghĩa Lam Sơn
Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết
về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài
thơ Nam quốc sơn hà).
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, ban thưởng cho 227 công thần, Nguyễn Trãi được phong là

Triều đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư, tước Quan phục hầu. Trong công
cuộc xây dựng đất nước vừa được giải phóng, Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp lớn, tuy
chức vụ của ông chưa phải là chức vụ chủ chốt nhất trong triều để có thể làm cho ông thi thố
hết tài năng. Ông đã khuyên Lê Lợi kêu gọi những người "hiền tài" ra giúp nước, và năm
1429 thay nhà vua viết tờ Chiếu cầu hiền. Năm 1430, ông thay nhà vua viết Chiếu cấm các
đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam lười biếng. Năm 1431, ông
thay nhà vua viết tờ Chiếu cho Tư Tề quyền nhiếp quốc chính. Năm 1433, Tư Tề vì cuồng
dại, ngớ ngẩn không đương nổi việc nước, bị giáng xuống làm quận vương, ông thay nhà vua
viết tờ Chiếu giáng Tư Tề làm quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối nghiệp. Ông
cũng lại thay nhà vua làm tờ Chiếu về việc làm bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử và Chiếu
bàn về phép tiền tệ, v.v...
Vụ án Lệ Chi Viên
Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những
năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua
mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:
"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng
không có tiếng oán hận sầu than".
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự
hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.
Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn
Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi nhưng không dễ trở thành
vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh
triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng
dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ,
kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả
nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài
năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.
Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ
tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu

Dương Thị Bí và ngôi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm
hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó
một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ
đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ
thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử
Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).
Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh,
Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo "hầu" vua. Trên đường về
kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn
Trãi bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ
(tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của người
bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài những người
họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ
ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người trong họ của các
bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.
Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân
Tông.
Gia quyến lưu tán
Theo gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Trãi có năm người vợ:
• Bà họ Trần: Sinh ra Nguyễn Khuê, Nguyễn Ứng, Nguyễn Phù.
• Bà họ Phùng: Sinh ra Thị Trà, Nguyễn Bảng, Nguyễn Tích.
• Bà Thị Lộ: Không có con.
• Bà Phạm Thị Mẫn: Sinh ra Nguyễn Anh Vũ (sau vụ án Lệ Chi Viên).
• Bà họ Lê: Sinh ra con cháu ở chi Quế Lĩnh, Phương Quất - huyện Kim Môn, Hải
Dương.
Sau vụ án Lệ Chi Viên, dòng họ Nguyễn Trãi ở Chi Ngại, Nhị Khê gần như bị thảm sát hết.
Trong các phả hệ ghi lại số ít thoát nạn là:
• Nguyễn Phi Hùng , em thứ ba của Nguyễn Trãi chạy về Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh;
• Nguyễn Phù con Nguyễn Trãi chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn.
• Bà họ Lê vợ thứ năm của Nguyễn Trãi mang thai chạy về Phương Quất, huyện Kim

Môn, Hải Dương.
• Bà Phạm Thị Mẫn vợ thứ tư của Nguyễn Trãi có mang ba tháng, được người học trò
cũ của Nguyễn Trãi là Lê Đạt đưa bà chạy trốn vào xứ Bồn Man (phía Tây Thanh
Hóa); sau lại về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại đây,
bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi
sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ.
Được minh oan
Theo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông chính là
hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn
10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để
giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông
là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi
cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.
Năm 1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Con cháu ông được
tìm lại và bổ dụng. Người con út sinh ra sau khi ông qua đời là Nguyễn Anh Vũ được Lê
Thánh Tông phong cho chức Đồng Tri Phủ huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa), cấp cho 100 mẫu
ruộng gọi là "Miễn hoàn điền" (ruộng không phải trả lại) con cháu đời đời được hưởng.
Nguyễn Anh Vũ xây dựng mộ chí của Nguyễn Trãi tại xứ đồng Tai Hà, làng Dự Quần, lấy
sọ dừa, cành dâu táng làm cốt; lấy ngày mất của Nguyễn Trãi - 16 tháng 8 là ngày giỗ họ
[6]
Năm 1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi
Nguyễn Trãi là Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù Bá, ban cho con
là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn
Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn
hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.
Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" là "Lòng
Ức Trai sáng tựa sao khuê", dịch chính xác phải là "Ức Trai lòng soi sáng văn chương"
Nguyên ăn bài thơ


Cao Đế anh hùng cái thế danh
Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành
Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử bội ân vinh
Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự
Bát bách Cơ Chu lạc thái bình

Dịch nghĩa

Đức Cao Đế (Lê Thái Tổ) là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ

Đức Văn Hoàng (Lê Thái Tông) trí dũng kế thừa cơ nghiệp
Ức Trai (Nguyễn Trãi) lòng soi sáng văn chương
Vũ Mục (Lê Khôi) bụng chứa đầy binh giáp
Mười anh em họ Trịnh (con thái uý Trịnh Khả) tất thảy đều vẻ vang phú quý
Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh
lớn
Cháu hiếu là Hồng Đức (Lê Thánh Tông) nay kế thừa nghiệp lớn
Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm
Dù vậy, các nhà nghiên cứu vẫn băn khoăn chưa rõ vì sao một vị vua được coi là anh
minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông, đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần
sáng lập vương triều Lê, người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con
nhà vua lúc gian nan, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn cả tước hầu vốn được Lê Thái Tổ
ban phong khi ông còn sống. Các công thần khác của nhà Hậu Lê thường được các vua đời
sau truy tặng tước cao hơn, như công và sau nữa lên vương.
Năm 1512, vua Lê Tương Dực sai làm chế văn truy tặng ông tước Tế Văn hầu, trong đó
có câu
"Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên;

"Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế"
Dịch là:
"Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ"
"Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau"
Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận
ông là danh nhân văn hóa thế giới.
Những đánh giá
• Lê Thánh Tông trong bài Minh lương viết trong Quỳnh uyển cửu ca có câu: Ức Trai
tâm thượng quang Khuê tảo (Tâm hồn Úc Trai trong sáng như sao Khuê buổi sớm),
và Lê Thánh Tông đánh giá ông trên tất cả các văn thần võ tướng có danh vọng nhất
của thời Lê.
• Người thế Kỉ 16, như Hà Nhậm Đại, đã nói về công lao sự nghiệp của ông:
Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương
[8]
• Người thế kỉ 17 còn đánh giá ông cao hơn nữa. Đỗ Nghi cũng là người triều Lê,
nhưng ông đã nói thẳng: Nhà Lê sở dĩ lấy được thiên hạ đều do sức ông cả và Đỗ
Nghi tiếc rằng: Tiếc thay trời chưa muốn bình trị thiên hạ, cho nên cuối cùng ông
vẫn chỉ làm chức hành khiển Đông đạo, không được giở hết hoài bão của mình; việc
đó không phải là không may cho ông, mà chính là không may cho sinh dân đời Lê
vậy.
[9]
• Sang thế kỉ 18 Dương Bá Cung cũng phải thừa nhận công lao của ông trùm khắp
trên đời
[10]
• Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về ông: "đứng vào bậc nhất một đời,
chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết
lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu
khuất... nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành,
thật đáng thương xót!... Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn

năm cũng không thể mai một được"
[11]
.
• Cho tới 400 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, người Việt Nam ở thế kỷ 19 vẫn rất mực
tôn quý ông và khẳng định: Nước Việt ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ
nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có các tướng tá giúp sức, nhưng tìm được người
toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật là ít lắm
[12]
• Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: Nguyễn Trãi, người anh hùng
của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị
ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự:
chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều ... thắng hung tàn bằng đại
nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: "viết thư thảo
hịch tài giỏi hơn hết một thời" (Lê Quý Đôn), "văn chương mưu lược gắn liền với sự
nghiệp kinh bang tế thế" (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt
trong lịch sử nước ta
• Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả
thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự
nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự
nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của ông. Ông đã đem hết tâm hồn, trí
tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư
tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của ông đã dẫn đường cho
phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi.
[14]
Thiên tài của Nguyễn Trãi là sản
phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử.
Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục
tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về
mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan
trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn học.

Bài thơ” Côn Sơn ca”
CÔN SƠN CA
KHÚC CA HÀI HÒA GIỮA MINH TRIẾT VÀ NHÂN ÁI
Đoàn Thị Thu Vân
Cũng thật lạ khi trong con người suốt đời tự nguyện dấn thân tích cực ấy lại vẫn
luôn mang niềm khao khát "trở về". Trở về với núi cũ Côn Sơn – không gian xanh của
thời thơ ấu – là hoài vọng thường xuyên trong tâm khảm, khi Nguyễn Trãi đang còn
trên bước đường lưu lạc cũng như khi đã lập công danh. Tuy nhiên sẽ không là mâu
thuẫn nếu nhận ra rằng "dấn thân" và "trở về" thuộc hai bình diện khác nhau, một là
nhu cầu của con người xã hội, con người công dân và một là nhu cầu của con người cá
nhân cùng hiện diện trong nhân cách đặc biệt ấy. Điều đó đã tạo cho Nguyễn Trãi một
phong thái xưa nay ít thấy – một ông quan mà giống một "ông tiên" (theo lời nhận xét
của Nguyễn Mộng Tuân, người cùng thời).
Bài ca Côn Sơn mở ra một khoảng không xanh tươi, trong trẻo, mát mẻ. Núi rừng
hùng vĩ nhưng không bí ẩn, xa cách. Thiên nhiên mang vẻ đẹp hoang sơ, nguyên thủy
mà thật ấm áp, thân tình. Con người đến đó không lắng nghe, nhìn ngắm bằng tai
thường, mắt thường mà bằng cái tâm đã lọc sạch bụi bẩn và rộng mở. Nhờ trống
không và rộng mở nên đã tiếp nhận được toàn bộ cái "chân" của tạo vật. Thiên nhiên
là một thế giới riêng có tâm hồn. Đem cái tâm của mình hòa đồng cùng vạn vật,
Nguyễn Trãi đã vận dụng được nguyên lý "vạn vật đồng nhất thể" của triết học phương
Đông để vui niềm vui khám phá và phát hiện. Côn Sơn thực sự trở thành ngôi nhà thân
thuộc khi nhà thơ nghe được tiếng nói của suối, đá, thông, trúc, có thể cùng nhau trò
chuyện, cảm thông, có thể lấy nó làm đàn cầm, làm đệm chiếu êm mượt, làm lọng
biếc che mát để nằm nghỉ ngơi, làm tấm bình phong xanh để ngồi bên ngâm vịnh.
Thiên nhiên luôn hào phóng dành sẵn những hương sắc, thanh âm, xúc cảm giản dị
mà diệu kỳ đối với ai biết mở rộng giác quan của tâm hồn trước nó. Khi con người mở
cửa tâm hồn, thiên nhiên cũng mở cửa kho tàng vô tận. Giọng thơ thật hào hứng khi
nói "Côn Sơn có suối", "Côn Sơn có đá", "trong núi có thông", "trong rừng có trúc".
Giàu có biết bao! Ta là một phần trong tất cả, và tất cả cũng chính là ta! Thực hiện
được sự hội nhập lớn lao này, con người đã mang được cái hồn vũ trụ, sự phong phú

và vĩnh cửu của vũ trụ. Cũng từ đó giải phóng khỏi mọi loại tù ngục của qui ước, giáo
điều, thiên kiến trong cách nhìn, cách nghĩ thông thường để dùng con mắt nhìn của trẻ
thơ ghi nhận cảnh vật và tái hiện lại trong một thế giới thơ trong trẻo mà quyến rũ lạ
thường.
Từ góc độ của cái "chân" và sự vĩnh cửu của cả không gian, thời gian và tâm linh
này, nhìn lại mọi vật, mọi việc mới thấy hết những gì là giả tạm. Những ai "nửa đời
giam buộc mãi trong cát bụi" của cuộc sống đua chen danh lợi thực quả giống như kẻ
lạc lối xa nhà mà lời gọi "Hỡi người, sao chẳng về đi?" kia đã làm sực tỉnh. Hỏi người
mà cũng là tự hỏi mình. Thương mình mà cũng là thương xót biết bao con người cùng
cảnh ngộ. Hiểu được hạnh phúc đích thực, cũng như một thiền gia trong khoảnh khắc
"đốn ngộ", nhà thơ của Côn Sơn chợt cảm thấy "vạn chung cửu đỉnh" mới vô nghĩa làm
sao và tất cả niềm vui mà bầu nước lã, bát cơm rau mang lại cho con người. "Uống
nước trong, ăn cơm rau, tùy theo hoàn cảnh mà tự thấy đủ" là lời sẻ chia kinh nghiệm
chân tình đầy lòng nhân ái. Một kinh nghiệm giản dị như chân lý bao giờ cũng giản dị
nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận ra. Mục đích của đời người là đi tìm hạnh phúc
cho cuộc sống, tuy cách quan niệm về hạnh phúc có khác nhau. Và trong khi mọi
người mải đi tìm những đường vòng đến có lúc quên mất cả mục tiêu cần tới thì
Nguyễn Trãi đã chỉ ra cho họ con đường ngắn nhất: hạnh phúc ở ngay trong thực tại,
trước mắt, nơi những gì ta đang có. Thật nhân văn là ở chỗ này: quý trọng từng giây
phút mà ta đang sống, biết sống vui để không lãng phí cuộc đời. Nhân văn còn ở thái
độ đối với bản thân mình, không dày vò lao nhọc tâm trí và thân xác để đi tìm những
vật ngoài thân như "vàng đầy thành", "hồ tiêu tám trăm hộc", kể cả cái danh "tôi
trung không thờ hai chúa" mà Bá Di, Thúc Tề theo đuổi. Xét về mặt dưỡng sinh, sống
gần gũi thiên nhiên, trí ít lo âu toan tính, lòng trong sáng cởi mở, ăn uống thanh đạm
những gì sức mình lao động kiếm được là cách sống đem lại sức khỏe, tuổi thọ và sự
yêu đời. Đó cũng là khía cạnh thiết thực nhất của quan niệm sống giàu chất nhân văn
này.
Khi nghe qua ví dụ về Đổng Trác, Nguyên Tải rồi tiếp đến là Bá Di, Thúc Tề, dễ có
cảm tưởng như một bên đưa ra là để phê phán, còn một bên là để ngợi ca. Thực ra,
theo Nguyễn Trãi, "hiền ngu hai đàng không so sánh được với nhau", nhưng "mỗi đàng

đều tự tìm theo ý muốn riêng của mình". Kẻ "ngu" dĩ nhiên không hiểu được chân lý
của cuộc sống, nhưng người thường được gọi là "hiền" kia cũng chưa hẳn đã là biết
sống. Chẳng phải họ đều chạy theo cái lợi hão hoặc bị trói buộc bởi cái danh hão để
phải làm tổn thương đến hình hài và chân tính của mình sao? Trong khi "đời người chỉ
trong khoảng trăm năm, rốt cục đều nát cùng cây cỏ". Ở chỗ này, cũng như khi nói
"mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến; tốt tươi rồi khô héo cứ nối tiếp nhau",
Nguyễn Trãi gợi nhớ đến câu thơ của Vạn Hạnh đời Lý: "Thân như điện ảnh hữu hoàn
vô; Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô". Quan niệm này vừa ảnh hưởng từ Phật giáo –
con người cùng vạn vật do "tứ đại" duyên hợp mà thành, duyên hết lại trở về với
những yếu tố vật chất ban đầu ấy; mọi sự tuần hoàn, chuyển biến liên tục – mà cũng
là từ triết học phương Đông nói chung, trong đó có Dịch lý uyên áo. Do vậy mà "núi gò
hoang sơ" hay "cửa nhà lộng lẫy" đều là "ngẫu nhiên", không có gì bền chắc; sau khi
chết, sang và hèn đều trở thành vô nghĩa. Sự vận dụng quan niệm này sẽ trở nên
phiến diện, thậm chí có phần tiêu cực nếu phát xuất từ một người vốn thích an nhàn
cho riêng thân, không quan tâm đến xã hội, không có chí giúp đời hay vì bất đắc chí
mà trở thành yếm thế, bi quan. Với Nguyễn Trãi, khi ngẫm suy những điều này, ông đã
đứng trên tất cả những thất bại và thành công vinh quang nhất mình đã trải qua trong
đời. "Đời người trăm năm", nửa đời đã từng "mặn lạt no mùi thế tình" (Tự thán X)
nhưng vẫn kiên định một "tấc lòng ưu ái cũ" (Thuật hứng V), con người ấy khi triết lý
về cuộc sống, chắc không phải chỉ là những lời rỗng suông hay bắt chước. Chiều sâu
của tri thức, bề dày của kinh nghiệm, độ chín của trí tuệ và sự linh mẫn của tâm hồn
đã làm nên chất minh triết cho quan niệm ấy.
Tương xứng với không gian mang tầm vũ trụ ở Côn Sơn ca là thời gian cũng không
hạn mức. Có khoảnh khắc của thực tại mà cũng có mở rộng ra cả một đời người và của
cả nhân gian. Những hình ảnh được gọi về từ những khoảng cách thời gian còn hình
dung được (Đổng Trác đời Hán, Nguyên Tải đời Đường), rồi xa hơn nữa (Bá Di, Thúc Tề
đời Ân), và xa hơn nữa (Sào, Do đời Nghiêu, cổ đại)… Từ những đơn cử cụ thể đã đi
dần đến những đúc kết khái quát nhất mang tính quan niệm. Trên những qui luật
chung nhất này, và trong cõi nhân gian thật phù du ngắn ngủi, thiên niên kỷ chỉ như
cái chớp mắt, thì Sào, Do cách mấy ngàn năm và Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV thật xiết

bao gần gũi, có thể kết bạn tri kỷ hoặc tranh luận cùng nhau về quan niệm sống, vì
những vấn đề thuộc về con người đều là muôn thuở. Bối cảnh không – thời gian trong
khúc ca Côn Sơn mở rộng không giới hạn, nội dung bài ca giản dị, nhẹ nhàng nhưng là
những chân lý tối hậu. Cái lớn của Côn Sơn ca là ở đó. Một khúc ca chứ không phải bài
thơ, lại càng không phải là một áng văn lý luận đạo mạo. Nguyễn Trãi viết để ca lên,
để làm vui mình,và mời người cùng chia sẻ niềm an lạc của tâm hồn. Nhưng với đời
sau, Côn Sơn ca lại là một tổng hòa chất minh triết của trí tuệ, lòng nhân ái nồng hậu
với con người và chất thơ bay bổng, thanh thoát của một tâm hồn nghệ sĩ. Ở đó, còn
thấy được một ngòi bút nghệ thuật tài hoa. Bài ca được viết thật tự do, sảng khoái.
Những ý nghĩ có thể dồn đuổi nhau thành những câu hỏi liên tục đẩy những vấn đề về
nhân sinh lên đến mức bức xúc nhất, để rồi giản ra sâu lắng thâm trầm sau lời lý giải
giản dị và điềm đạm.
Đàng sau Côn Sơn ca là cái nền của triết học và mỹ học phương Đông được tổng
hợp một cách linh hoạt từ cả Nho, Phật và Đạo. Dung hòa được những nguồn tư tưởng
này đã là sáng tạo. Nhưng nếu chỉ có thế thì chưa đủ để bài ca Côn Sơn có sức hấp
dẫn bền lâu đến thế. Điều đáng nói chính là cốt cách Việt Nam toát ra từ đó. Đó cũng
là cốt cách của Nguyễn Trãi: luôn quan tâm đến hạnh phúc của con người. "Cần gì phải
muôn chung chín đỉnh; uống nước lã, ăn cơm rau, tùy theo phận mình cũng cảm thấy
đủ". Trong một bài thơ khác, Nguyễn Trãi từng khuyên: "Nằm có chiếu chăn cho ấm
áp; Ăn thì canh cá chớ khô khan. Phúc dầu hay đến trăm tuổi; Mình thác thì nên mọi
của tan" (Bảo kính cảnh giới VII). Hai lời khuyên tuy có khác nhau nhưng cùng một ý
tứ: Nên biết quý và vui hưởng những gì mình có, không nên bỏ phí đời sống thực tại
để chạy theo những cái ngoài tầm tay. Hạnh phúc đích thực của đời người là điều nhà
thơ luôn muốn nhủ khuyên, cảnh tỉnh mọi người.
Tầm cao của Côn Sơn ca không chỉ ở sự thâm uyên về cái nhìn triết học, sự thực
hiện đại hòa điệu giữa "ta" và "vật" hồn nhiên đầy minh triết. Đàng sau bài ca Côn Sơn
còn là vô hạn một tấm lòng. Nét riêng của dân tộc, của Nguyễn Trãi trong cái chung
của phong cách phương Đông là ở đó.
Hồ Xuân Hương:
Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà

đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh
danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu
biểu của văn học Việt Nam..
Tiểu sử:
Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có
một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do
nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài
liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu
đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
• Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời
Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.'
• Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương
Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Ðôi, huyện
Quỳnh Lưu, Nghệ An (*). Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà
nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại
đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả
của mối tình duyên đó.
[1]
• Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.
Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng
và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
• Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã
giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp
xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
• Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện "cổ
nguyệt đình"?. Bà không dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng
của nho giáo, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một minh
chứng cho xã hội thời đó về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn
chương.

• Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm,
bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà
nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
• Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ
Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai
đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn
và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông
Phủ Vĩnh – tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến
mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
Các tác phẩm:
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ
chữ Nôm truyền miệng.
Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo
Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên
cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh,
Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san
Khoa học xã hội, tại Paris vào năm 1984.
Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương
ký , theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của
Hồ Xuân Hương. Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không
thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ
Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.
Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan (? -?), tên thật: Nguyễn Thị Hinh, là một trong những nhà thơ nữ
nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam
Tiểu sử:
Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội
Cha bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông. Bà là
học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825), và là vợ Lưu Nghị(1804 -1847), người

làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ cử nhân năm
1821 (Minh Mệnh thứ 2), từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh, tỉnh Thái
Bình), nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Chồng bà làm quan trải đến
chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm (43 tuổi).
Dưới thời vua Minh Mạng, bà được vời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy
học cho các công chúa và cung phi.
Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn bốn con về
lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.
Năm 1870, ở Nghi Tàm nổ ra cuộc đấu tranh chống lệ nộp chim sâm cầm, một đặc sản
của vùng này. Theo Ngọc phả (ghi nhận công đức của những người có công với dân làng),
thì chính Bà Huyện Thanh Quan đã thảo đơn cho dân gửi lên vua, nhưng vì phục tài đức của
bà nên quan huyện Hoàn Long đã phớt lờ đi.
Tác phẩm:
Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường
luật. Hiện gồm những bài sau:
1. Thăng Long thành hoài cổ
2. Qua chùa Trấn Bắc
3. Qua Đèo Ngang
4. Chiều hôm nhớ nhà
5. Nhớ nhà
6. Tức cảnh chiều thu
7. Cảnh đền Trấn Võ
8. Cảnh Hương sơn
Nhưng theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy thì 4 bài đầu là hoàn toàn chính xác của Bà Huyện
Thanh Quan bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật. Bài thứ 5 (Nhớ
nhà), như là một dị bản của Chiều hôm nhớ nhà. Hai bài 6, 7, xét từ phong cách thì không
giống phong cách Bà Huyện Thanh Quan mà giống phong cách Hồ Xuân Hương nên ông
cho là của Bà Chúa Thơ Nôm (xem thêm chuyên luận Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực
của ông). Cuối cùng bài 8 cũng không giống với tư tưởng và phong cách Bà Huyện Thanh
Quan.

Nhận xét
Trích:
• Dương Quảng Hàm :
Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tả tình, nhưng bài nào cũng hay
và tỏ ra bà là một người có tính tình đoan chính, thanh tao, một người có học thức
thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhã, điêu luyện.
[8]
• Thanh Lãng :
Thơ Bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ. Lời thơ của bà điêu luyện, gọt giũa, đẹp
như một bức tranh cổ
• Phạm Thế Ngũ :
Nhiều nhà phê bình đã đưa ra thuyết Bà Huyện Thanh Quan mang nặng tấm lòng
thương tiếc nhà Lê, thuyết ấy không phải là vô căn cứ. Cái tâm trạng hoài Lê ấy,
cũng là tâm trạng chung của nhiều nho sĩ Bắc Hà sau ngày thống nhất...Nhưng nói
là nhớ tiếc cái chính trị của mấy ông vua thời Lê mạt thì không đúng. Bà hướng về
một quá khứ mà có lẽ bà cũng không tường tận lắm, và bà cũng chưa thọ hưởng
được ân huệ gì; nhưng đó là quá khứ của tiền bối, của gia đình...Vì thế thái độ hoài
Lê của bà cũng như nhiều nho sĩ đồng thời không có tính cách chính trị, mà chỉ có
tính cách tâm tình...
Về mặt nghệ thuật: chữ dùng khéo, chọn lọc, thích đáng, đối rất chỉnh, rất thần tình,
ý hàm súc, lời trau chuốt, gọn, đẹp...Cho nên thơ bà rất được các nho gia xưa yêu
chuộng, ngâm nga...
Thơ luật đời Nguyễn Sơ, ở tác phẩm của hai nữ sĩ là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện
Thanh Quan, như vậy quả đã tiến đến cao độ mỹ diệu. Thơ Hồ Xuân Hương thiên về
Nôm mà bóng bẩy, duyên dáng. Thơ Bà Huyện Thanh Quan thiên về Hán mà thanh
thoát, nhẹ nhàng. Hồ Xuân Hương đại biểu cho cái tinh thần trào phúng bình dân
vươn lên thể hiện một hình thức bác học. Bà Huyện Thanh Quan đại biểu cho cái
tinh thần tao nhã nho sĩ kết tinh lại, cùng với tinh túy của Đường thi...
• Từ điển Văn học (bộ mới):
Thơ bà thường viết về thiên nhiên, phần lớn là vào lúc trời chiều, gợi lên cái cảm

giác vắng lặng và buồn bã. Cảnh bà miêu tả trong những bài thơ giống như những
bức tranh thủy mặc, chấm phá…Hơn nữa, nói cho đúng thì cảnh trong thơ bà thực tế
cũng không phải là cảnh, mà là tình. Tình cảm của bà thường là sự nhớ thương da
diết đối với quá khứ vàng son đã một đi không trở lại. Do vậy, người ta gọi bà là nhà
thơ hoài cổ. Thơ bà còn được chú ý vì một lẽ nữa, đó là nghệ thuật hết sức điêu
luyện. Ở đó, niêm luật đều luật đều chặt chẽ mà không gây cảm giác gò bó, xếp đặt.
Câu thơ của bà trang nhã, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu
Thơ Đường

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×