Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ trong cách mạng tháng tám 1945 (2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.11 KB, 44 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn ThS Phan Xuân Dũng đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn em hoàn thành khóa luận.
Em xin được chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các cán bộ, giảng viên
Trung tâm GDQPAN Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại Trung tâm và hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin được cảm ơn sự giúp đỡ, động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè,
người thân trong quá trình học tập, rèn luyện và thực hiện khóa luận.
Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, nên khóa luận không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô
và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 3 tháng 5 năm 2017
Tác giả

Đỗ T hị Vịnh


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu
của riêng em, dưới sự hướng dẫn của ThS Phan Xuân Dũng.
Nếu sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 3 tháng 5năm 2017
Tác giả đề tài

Đỗ Thị Vịnh


MỤC LỤC


Trang
1

MỞ ĐẦU
Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời

Chương

4

cơ trong đấu tranh cách mạng.
Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ

4

1.1.1

Khái niệm tạo thời cơ

4

1.1.2

Tạo thời cơ, nắm thời cơ và chớp đúng thời cơ

6

Bối cảnh lịch sử diễn ra Cách mạng tháng Tám n m 945

9


1.2.1

Tình hình thế giới

9

1.2.2

Tình hình trong nước

11

1.1

1.2

Tiểu kết chương

Chương
2

14

Nghệ thuật tạo và nắm thời cơ trong tổng khởi nghĩa ách

17

mạng tháng ám năm


2.1.

Nghệ thuật tạo thời cơ trong Cách mạng tháng Tám

17

2.1.1

Chuẩn bị đường lối cách mạng và lực lượng cách mạng

17

2.1.2.

Xây dựng c n cứ địa cách mạng và tập dượt đấu tranh

19

2.1.3.

Chuẩn bị bố máy lãnh đạo Tổng khởi nghĩa

23

Nghệ thuật nắm thời cơ và chớp thời cơ trong Cách mạng

24

2.2.


tháng Tám n m 945

2.2.1.

Nhận thức đúng thời cơ

24

2.2.2.

Quyết tâm chớp thời cơ

29

Những yêu cầu trong vận dụng nghệ thuật tạo thời cơ và nắm

31

2.3

thời cơ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

2.3.1

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc

31

trong tình hình mới


2.3.2.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

34


2.3.3.

T ng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của

35

Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc

2.3.4.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh

36

Tiểu kết chương 2

37

Kết luận


38

Tài liệu tham khảo

39


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám n m 945 thành công là một sự kiện vĩ đại trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Cách mạng tháng Tám đã đập tan ách thống trị của
thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật đổ chế độ quân chủ, lập ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Đó là nhà nước kiểu mới, nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, đại
biểu cho quốc gia, dân tộc, mang bản chất của giai cấp công nhân do Đảng
lãnh đạo. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập tự do và xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trở thành mốc son chói lọi trong
lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam, mở ra một kỉ nguyên mới trong sự phát triển lịch sử
dân tộc: Kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên đôc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Chỉ trong vòng 20 ngày, từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày
15-08-1945) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật đất
nước ta theo hiệp định Pôtxđam (ngày 05-09-1945) đã có một bước ngoặt
quyết định, cuộc khởi nghĩa diễn ra rất nhanh, rất gọn và rất mạnh. Nếu phát
động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-81945 thì quân Nhật còn mạnh và sau ngày 05-9-1945, trên đất nước có nhiều
kẻ thù, cách mạng sẽ gặp rất nhiều khó kh n. Tổng khởi nghĩa đã diễn ra từ

4 đến 28-8-1945 trong bối cảnh Cao trào kháng Nhật cứu nước đã lên đến
đỉnh cao, Nhật Bản đã thua trận và đầu hàng, chiến tranh thế giới vừa kết
thúc, chính quyền tay sai của Nhật ở Đông Dương không còn chỗ dựa, quân
Đồng minh chưa kịp kéo vào nước ta. Đảng và nhân dân ta đã chớp thời cơ,

1


tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời
gian đó.
Như vậy, thành công của Cách mạng tháng Tám n m

945 chứng tỏ,

Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian,
xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sang chủ động,
chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
Đây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và
cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
Ngoài ra, nghệ thuật tạo thời cơ và chớp thời cơ của Cách mạng tháng Tám
còn được vận dụng trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay.
Để góp phần làm sâu sắc hơn về nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách
mạng tháng Tám n m 945, tác giả đã chọn đề tài “Nghệ thuật tạo thời cơ và
nắm thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945”, làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, làm rõ những vấn đề cơ bản của nghệ thuật tạo thời cơ và
nắm thời cơ trong Cách mạng tháng Tám n m 945. Trên cơ sở đó xác định
các yêu cầu trong việc vận dụng nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ trong

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề cơ bản về nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời
cơ trong đấu tranh cách mạng.
- Phân tích, làm rõ nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ trong Cách
mạng tháng Tám n m 945.
- Xác định các yêu cầu trong việc vận dụng nghệ thuật tạo thời cơ và
nắm thời cơ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


. Đối tư ng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

it

ng nghi n c u

Nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ trong trong Cách mạng tháng
Tám n m 945.
4

hạm vi nghi n c u

Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám n m 945.
. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu lịch sử, phương pháp lôgíc, phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp
tổng kết kinh nghiệm.
6. Kết cấu của khóa luận
Kết cấu của khóa luận gồm: Mở đầu, 2 chương, kết luận và danh mục

tài liệu tham khảo.


hương
N ỮN
N M

ẤN ĐỀ

ẢN Ề N



O



; BỐI CẢNH LỊCH SỬ DIỄN RA CÁCH M NG
N

MN M

1.1. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ
1.1.1. hái niệm v thời cơ
Theo từ điển Bách khoa toàn thư: Thời cơ là thời gian, điều kiện, hoàn
cảnh chủ quan, khách quan thuận lợi để tiến hành thắng lợi một việc gì đó.
Trong chiến tranh, thời cơ là một vấn đề có ý nghĩa then chốt. Hiểu được
thời cơ, nắm được vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của thời cơ và biết vận
dụng linh hoạt nó sẽ có tác dụng xoay chuyển và đảo lộn toàn bộ cục diện của
cuộc chiến. Nói như Nguyễn Trãi: “Được thời có thế thì mất biến thành còn,

nhỏ hóa ra lớn. Mất thời không thế thì mạnh hóa ra yếu, yên thành nguy. Sự
thay đổi ấy chỉ ở trong khoảng trở bàn tay”. Trong một bức thư viết cho Đô
Đốc Thái Phúc, Nguyễn Trãi cũng nói: “Ngày xưa, Bách Lý Hề ở Ngu thì
Ngu mất nước, mà sang Tần thì Tần làm nên nghiệp bá, Lý Tả Xa ở Triệu thì
Triệu bị diệt mà theo Hán dấy nghiệp vương. Nào phải ở nơi này thì ngu, nơi
kia thì trí đâu, chỉ tại gặp thời hay không gặp thời mà nên thời”. Ông lại viết:
“Tôi từng xem kinh dịch 384 hào, mà cốt yếu ở chữ thời. Cho nên, người
quân tử theo thời không biến, nghĩa chữ thời to tát sao”. Trong bài “Sơn Phú”
Chí Linh nổi tiếng. Nguyễn Trãi một lần nữa nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng
của chữ thời. Ông viết:
“Đã do trời mà biến thành thời
Lại có chí để công thành”
Ở một chỗ khác của bài phú ấy Nguyễn Trãi viết:
“Bởi biết người, biết mình, hay yếu, hay mạnh
Đợi thời chờ dịp


Giấu sức, giấu tài Ăn
thường nếm mật Ngủ
thường nằm gai”
Theo Nguyễn Trãi, người chí giả phải là người biết thời, nắm được thời
“Người quân tử theo thời thông biến”
Xưa nghe chuyện Lã Vọng ngồi câu cá chờ thời, rồi sau lập nên nghiệp
lớn. Nay được thấy Nguyễn Trãi và nghĩa vụ Lam Sơn phải chịu “Nếm mật
nằm gai” khi quân thù đang mạnh để đợi thời chờ dịp thuận lợi thì giáng
những đòn chí tử vào đầu giặc:
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Rõ ràng, chữ thời ấy đâu phải lý luận suông, mà được chứng minh bở
thực tế.

Chân lý luôn là điểm dừng của mọi sự nhận thức và hành động đúng đắn.
Ví như việc nhìn nhận về chữ thời, không phải chỉ Nguyễn Trãi, chỉ người
Việt Nam nói riêng hay phương Đông nói chung mới nhìn thấy tầm quan
trọng của nó, mà cả phương Tây, đại biểu là Mác cũng khẳng định vai trò của
chữ thời. Trong một bức thư gửi Cughenman, Mác viết: “Tất nhiên là sẽ rất dễ
dàng làm ra lịch sử thế giới, nhưng cuộc đấu tranh chỉ tiến hành trong điều
kiện có những thời cơ chắc chắn”. Mặt khác, nếu những sự ngẫu nhiên không
có tác dụng gì cả thì sự sáng tạo ra lịch sử sẽ mang một tính chất rất thuần
túy. Đương nhiên, những sự ngẫu nhiên này là một bộ phận trong quá trình
phát triển chung và được những sự ngẫu nhiên khác bù trừ lại. Nhưng phát
triển nhanh hay chậm là phụ thuộc rất nhiều vào những sự ngẫu nhiên như
vậy. Kể cả sự ngẫu nhiên như tính cách những người lãnh đạo phong trào.
Bác Hồ cũng thường dặn bộ đội: “Phải luôn luôn có sáng kiến để lợi
dụng thời cơ”.


Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, đảm
bảo một việc nào đó có thể tiến hành có kết quả.
1.1.2. Tạo thời cơ, nắm thời cơ và chớp đúng thời cơ
1.1.2.1. Tạo thời cơ
Thời cơ không tự nhiên mà tới mà phải do ta tạo ra. Vì vậy phải có
quyết tâm cao, nỗ lực lớn, có phương hướng biện pháp đúng đắn, sáng tạo để
phát triển những điều kiện thuận lợi cho thời cơ sớm xuất hiện.
Muốn tạo thời cơ trước hết phải biết đoán trước thời như Nguyễn Trãi
từng nói: “Người trí giả thấy việc từ lúc việc chưa phát”. Đoán trước không
có nghĩa là tính được cụ thể ngày, tháng nổ ra thời cơ mà là nhìn thấy trước
xu thế phát triển của tình hình, dự kiến được các khả n ng, từ đó xác định
được phương hướng, mục tiêu và những công việc cần thiết để tạo thời cơ và
sẵn sàng nắm lấy thời cơ khi nó nổ ra.
Dự đoán thời cơ rồi thì phải đánh giá những điều kiện cần thiết của thời

cơ đã đạt được tới đâu, chỗ nào còn thiếu để có kế hoạch, biện pháp bổ sung
và phát triển các điều kiện đó đến độ chin muồi nhằm thúc đẩy thời cơ nổ ra
sớm hay đúng vào lúc ta mong muốn. Vì vậy tạo thời cơ thường phải tiến
hành các việc sau đây:
- Xây dựng và phát triển lực lượng của ta có đủ sức hành động khi thời
cơ đến. Dùng mọi biện pháp tiêu hao, làm suy yếu lực lượng của địch.
- Xây dựng, bố trí, điều chỉnh thế trận của ta, tiến hành các hoạt động
tác chiến tạo thế khi cần thiết. Hạn chế các thế lợi của địch.
- Cải tạo môi trường tác chiến và thiết bị chiến trường phù hợp với yêu
cầu của tác chiến khi thời cơ đến.
- Đẩy mạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao phối hợp với đấu tranh quân
sự. Tiến hành mọi việc cần thiết để góp phần thúc đẩy các điều kiện bên ngoài
phát triển thuận lợi.


1.1.2.2. Nắm thời cơ
Tạo thời cơ mới chỉ là thúc đẩy sự phát triển những yếu tố điều kiện
của thời cơ và chuẩn bị về mọi mặt để sẵn sàng đón nhận thời cơ khi nó nổ ra.
Còn thời cơ đến lúc nào, ở đâu, có tính chất, phạm vi cụ thể như thế nào thì
phải đến khi nào thì phải đến khi nó xuất hiện mới có thể nhận biết được.
Thời cơ thường diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có khi chỉ trong
khoảng khắc. Sách Binh thư yếu lược viết: “Thời là cái đến không đầy chớp
mắt; trước thì thái quá sau thì bất cập”. Nắm thời cơ đúng lúc nó chín muồi
thì hành động mới kịp thời, chính xác. Nhận định thời cơ không đúng, dẫn
đến hành động sớm hay muộn đều không đạt được kết quả và còn bị tổn thất.
Vì vậy nắm thời cơ là việc hệ trọng liên quan đến thành bại của tác chiến, đến
việc giữ vững và phát triển những thành quả đã đạt được, đến xương máu của
bộ đội và nhiều khi của cả nhân dân. Nó đòi hỏi người lãnh đạo và chỉ huy
phải có ý chí, trách nhiệm rất cao, có tầm nhìn sắc sảo nhạy bén, có phương
pháp xem xét khách quan, toàn diện và cả lòng dũng cảm nữa.

Nhận định thời cơ phải dựa trên sự phân tích, tổng hợp tất cả các yếu
tố, điều kiện chủ quan và khách quan tạo nên thời cơ, đặc biệt là đánh giá
đúng đắn so sánh thế và lực giữa ta và địch. Phải có quan điểm biện chứng
trong việc phân tích, đánh giá, không chỉ nhìn hiện tượng mà phải nhìn vào
bản chất, không xem xét các yếu tố một cách tách biệt, cứng chắc, cố định
mà phải xem xét chúng trong mối quan hệ tác động lẫn nhau và trong sự vận
động, phát triển. Có như vậy mới xác định được đúng thời cơ và hạ quyết
tâm hành động chính xác.
1.1.2.3. Chớp đúng thời cơ
Thời cơ cách mạng chín muồi, lực lượng cách mạng đã chuẩn bị chu đáo
cộng với sự lãnh đạo đúng lúc, kết hợp với chính trị và vũ trang, lấy lực lượng
chính trị của quần chúng giữ vai trò quyết định, kết hợp nông thôn thành
thị,


kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng
phần lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Theo đại tướng Nguyễn
Quyết. “Thời cơ lớn là lúc địch ở vào thế suy yếu nhất, ta đang lúc mạnh
nhất”.
Tạo thời cơ và nắm thời cơ là để hành động. Thời cơ có trở thành sức
mạnh, có tạo nên chiến thắng hay không là do hành động của người quyết
định . Nắm được thời cơ rồi mà không hành động hoặc hành động chậm thì
thời cơ không có ý nghĩa gì, thậm chí có khi làm đảo ngược tình thế: đang
mạnh hóa yếu, đang thắng hóa thua. Binh thư yếu lược viết “Ta có chí mà
chậm thì người sẽ tính trước ta; thấy mà không quyết định thì ngươi sẽ phát
trước ta. Ta phát mà không nhanh thì người sẽ thắng trước ta. Khó được ấy là
thời, dễ mất ấy là cơ, nên phải làm nhanh vậy”.
Hành động đúng thời cơ là phải hành động kịp thời và có phương án
hành động chính xác. Cần tuân thủ các bước sau đây:
- Xác định đúng những mục tiêu mà thời cơ và khả n ng thực tế của ta

cho phép, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị cho phương hướng hành động nhằm
những mục tiêu lớn hơn. Chọn những biện pháp hành động đạt hiệu quả cao
mà ít tốn lực lượng nhất.
- Vừa dồn sức vào các mục tiêu then chốt, bảo đảm chắc chắn giành
thắng lợi, vừa chú ý phối hợp đồng đều và có lực lượng dự bị thích hợp.
- Hành động táo bạo, bất ngờ nhanh chóng, thần tốc vượt lên những
tính toán thông thường.
- Không ngừng phát triển kết quả đã giành được, mở rộng thế và lực của
ta, làm suy yếu thế và lực của địch, không để chúng kịp khôi phục, củng cố.
- Chỉ huy chặt chẽ liên tục, tiến hành tốt mọi mặt đảm bảo cho tác
chiến. Đồng thời phát huy cao độ tính chủ động, độc lập tác chiến, tự lực khắc
phuc khó kh n của từng bộ phận.


Vì vậy, nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ đòi hỏi người lãnh đạo
chiến tranh cũng như chỉ huy tác chiến phải rất n ng động nhạy bén, nhưng
cũng rất tỉnh táo, sang suốt, hiểu địch nhưng cũng lượng đúng sức mình, đón
thời cơ nhưng cũng phải biết chờ thời cơ, tìm chọn con đường ngắn nhất
nhưng cũng ít tốn tổn thất nhất để đi đến thắng lợi. Trong quá trình nắm bắt
thời cơ phải bám sát mọi tình hình, thấy có thời cơ mới thì kiên quyết dẫn lên
giành thắng lợi tối đa, nhưng nếu thấy thời cơ không còn nữa thì phải biết kết
thúc hay chuyển hướng hành động một cách kịp thời để tạo thời cơ mới.
1.2. Bối cảnh lịch sử diễn ra Cách mạng tháng ám năm
1.2.1. Tình hình thế giới
Từ những n m 30, các thế lực phát xít quốc tế t ng cường các hoạt
động bành chướng xâm lược. N m 935, Đức chiếm đóng vùng Xarơ (Sarre)
do Hội Quốc Liên quản trị. Tháng 10- 935, Italia xâm lược Êtiôpi. Mùa hè
936, Đức và Italia can thiệt quân sự vào Tây Ban Nha, giúp bọn phát xít
Phơrancô (Franco) chống chính quyền cộng hòa. Cũng trong n m 936, Đức
chiếm đóng vùng Rênani do Hội Quốc Liên quản trị.

N m 937, Nhật gây ra sự kiện Lư Cầu Kiều và mở rộng chiến tranh
xâm lược Trung Quốc.
N m

938, Nhật Bản khiêu khích ở khu vực hồ Khátxan (Mông Cổ).

Tháng 3 - 938, Đức chiếm đóng Áo.
Cuối cùng, ngày 01- 9- 939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai. Ngày 03-9-1945, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức
Từ tháng 4 - 940, Đức tập trung lực lượng đánh chiếm các nước Tây
Âu: Na uy, Đan Mạch, Bỉ, Hà Lan, Lucxembua.
Tiếp đó, quân Đức vượt qua “chiến lũy Magino” ( Manginot) tiến đánh
Pháp. Ngày 14-6-1940, Pari bị chiếm đóng.


Ngày 22-6- 940, quân đội Pháp đầu hàng. Chính phủ Petanh rút về
Visi ở miền Nam nước Pháp, trở thành bù nhìn.
Lợi dụng cơ hội nước Pháp bị Đức chiếm đóng, Nhật Bản t ng sức ép
với chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, từng bước thực hiện ý đồ xâm
chiếm Đông Dương.
Cuối n m 944 đầu n m 945, quân phát xít liên tiếp thất bại trên nhiều
mặt trận. Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Quân dội
Hồng Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một
loạt nước Trung, Đông Âu được giải phóng.
Tháng 8- 944, Pari được giải phóng. Tướng Đờ Gôn lên cầm quyền. Ở
mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, quân Đồng minh giáng cho phát xít Nhật
những đòn nặng nề. Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo
riết hoạt động, chờ thời cơ phản công Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật - Pháp trở
nên hay gắt.
Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20 giờ

ngày 09-3-1945, Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp trên toàn Đông
Dương. Quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài nơi rồi mau chóng đầu hang.
Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyên bố:“Giúp các dân tộc Đông
Dương xây dung nền độc lập”. Chúng dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim
và đưa Bảo Đại lên làm “Quốc trưởng”. Nhật Bản đã hoàn toàn độc chiếm
Đông Dương, t ng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và đàn áp
dã man những người cách mạng.
Đầu tháng 08- 945, quân Đồng minh tiến công mạnh mẽ vào các vị trí
của quân đội Nhật Bản ở châu Á - Thái Bình Dương. Để uy hiếp Nhật Bản,
ngày 6 và 09-08- 945, Mĩ đã ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành
phố Hirosima và Nagaxaki của Nhật Bản, hủy diệt hai thành phố này, giết hại
hang vạn dân thường.


Ngày 08-08-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 09-8-1945
quân đội Xô viết mở màn chiến dịch tổng công kích đạo quân Quan Đông của
Nhật Bản ở Đông Bắc Trung Quốc. Trước tình hình đó, ngày 09-08-1945, Hội
đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hang
theo Tuyên bố Pốtxđam. Sau những cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và
Đồng minh. Ngày 14-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh Nhật Bản họp với
sự tham gia của Nhật hoàng đã thông qua quyết định đầu hàng. Đúng giữa
trưa ngày 5-08-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng không điều kiện các lực
lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản.
Quân Nhật ở Đông Dương rệt rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim
hoang mang. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
1.2.2. Tình hình trong n ớc
Ngày 28-01- 94 , sau 30 n m tìm đường cứu nước và hoạt động yêu
nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc, Pắc Bó (Hà Quảng – Cao
Bằng) là nơi đầu tiên được Người chọn đặt cơ quan lãnh đạo cách mạng. Về
đến Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cách

mạng, tổ chức quần trong tháng 5-1941 tại Pắc Bó do Người chủ trì, tiếp tục
chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ VI, nhưng nêu cao hơn nữa
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chủ trương giải quyết vấn đề
dân tộc trong khuân khổ từng người Việt Nam, Lào, Campuchia, ở mỗi nước
thành lập một mặt trận đoàn kết dân tộc. Ở Việt Nam là Việt Nam độc lập
đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), thành lập ngày 19-05-1941.
Chuẩn bị tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ đến được xem là
nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân ta.
Cuối n m 940, sau khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trương của
Đảng, một bộ phận lực lượng vũ trang chuyển sang xây dựng các đội du kích,
sau thống nhất thành đội Cứu quốc quân hoạt động ở c n cứ Bắc Sơn – Võ


Nhai. Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong tám tháng (từ tháng
7- 94 đến tháng 2- 942) sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh
lực lượng và tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở chính
trị trong quần chúng ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn. N m
943, Đảng đưa ra Đề cương v n hóa Việt Nam, vận động thành lập Hội v n
hóa cứu quốc Viêt Nam (cuối n m

944) và Đảng Dân chủ Việt Nam đứng

trong Mặt trận Việt Minh (tháng 6- 944). Đảng còn chủ trương vận động binh
lính người Việt trong quân đội Pháp, tranh thủ cả những ngoại kiều ở Đông
Dương có tinh thần chống phát xít.
Giữa n m 944, tình hình thế giới và nước ta chuyển biến mau lẹ có lợi
cho cách mạng. C n cứ vào đó, ngày 07-5-1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị
cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí đuổi thù
chung”. Tháng 0-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ:
“Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt…Cơ hội cho dân tộc ta chỉ ở trong

một n m hoặc n m rưỡi nữa.Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”(4)
Trước thực trạng phát xít Nhật chiếm được Đông Dương, Đảng đã đề ra
khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” và coi đó là khẩu hiệu chính để
phát động phong trào chống Nhật cứu nước, đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết
của nhân dân, nên khẩu hiệu có tính chất kinh tế ấy đã đẩy lên một cáo trào
chính trị sâu rộng chưa từng thấy. Hàng vạn quần chúng đói khổ xuống
đường, xông vào các kho thóc của giặc Nhật. Từ cao trào đó nhiều địa
phương đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở các tỉnh
đồng bằng, trung du Bắc Bộ và các tỉnh Bắc Trung Bộ nơi đã diễn ra nạn đói.
Đồng thời với phong trào phá kho thóc của Nhật cứu đói, làn sóng khởi
nghĩa từng phần dâng cao, cuốn trôi chính quyền địch ở nhiều địa phương.
Sau ngay Nhật đảo chính Pháp, Việt Minh đã lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở


Hiệp Hòa (Bắc Giang), Tiên Du (Bắc Ninh), Bàn Yên Nhân (Hưng Yên). Ở
Quảng Ngãi, tù chính trị nhà giam Ba Tơ đã khởi nghĩa, lập chiến khu.
Tại Việt Bắc, Giải phóng quân và Cứu quốc quân đẩy mạnh chiến tranh
du kích, đánh chiếm nhiều đồn bốt, giải phóng nhiều vùng, mở rộng địa bàn
hoạt động.
Tình hình diễn biến hết sức mau lẹ, có lợi cho phía cách mạng. Giữa
tháng 4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa (Bắc
Giang). Hội nghị quyết định phát triển lực lượng vũ trang, nửa vũ trang và
thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có của Đảng thành Việt Nam Giải
phóng quân, xây dựng các chiến khu kháng Nhật và cử ra Ủy ban quân sự
cách mạng B c Kỳ.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc
giải phóng các cấp. Cấp cao nhất gọi là Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày15-5-1945, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc
quân được thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 04-6-1945, Khu giải phóng gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,

Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Quyên, Tuyên Quang ra đời. Tân Trào (Tuyên
Quang) được chọn làm Thủ đô khu giải phóng. Trong khu giải phóng, các ủy
ban nhân dân cách mạng do dân cử ra đã thi hành mười chính sách của Việt
Minh nhằm xây dựng khu giải phóng thành c n cứ vững mạnh về chính trị,
quân sự, kinh tế v n hóa, làm bàn đạp giải phóng toàn quốc. Các chiến khu
khác như chiến khu Vần – Hiền Lương (Yên Bái, Phú Thọ), chiến khu Trần
Hưng Đạo (Đông Triều, Quảng Ninh) v.v…lần lượt ra đời. Tại các đô thị,
phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, viên chức tiểu tư sản dâng cao.
Tổ chức công nhân cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí nghiệp.
Từ ngày 3 đến ngày 15-8-1945 tại Tân Trào diễn ra hội nghị toàn quốc
của Đảng. Hội nghị nhận định: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương


đã chín muồi… quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, hàng ngũ chỉ huy Nhật ở
Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, bọn Việt gian than Nhật hoảng sợ. Toàn
dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa giành chính quyền độc lập”. Từ nhận
định đó, Hội nghị đi đến quyết định phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa
giành chính quyền trước khi quân Anh, quân Tưởng Giới Thạch vào Đông
Dương tước khí giới quân Nhật và thực dân Pháp chưa kịp tập hợp lực lượng,
điều quân vào xâm lược nước ta lần nữa. Hội nghị còn quyết định những vấn
đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại trong thời kì đầu sau khi giành
được chính quyền.
Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ
Việt Minh triệu tập họp ngay ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và
17-8-1945. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu của các giới, các đảng phái
chính trị, các toàn thể quần chúng, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại
biểu kiều bào nước ngoài. Đại hội tán thành hoàn toàn chủ trương tổng khởi
nghĩa của Đảng, nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh, coi đó là
chính sách cơ bản của cách mạng. Cử ra ủy ban dân tộc giải phóng dân tộc
giải phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại hội còn quyết định lấy là cờ đỏ

sao vàng làm Quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm Quốc ca.
Đại hội quốc dân vừa bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi
đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào
hãy đứng dậy đem sức ta ra mà tự giải phóng cho ta…chúng ta không thể
chậm trễ.Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm
tiến lên!.
Hướng ứng Lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, lời kêu gọi của chủ tịch
Hồ Chí Minh, đồng bào cả nước, triệu người như một, nhất tế đứng lên với


tinh thần “Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lập.
Chiều 16-8-1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị quân
giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào, nơi Đại hội
quốc dân đang họp, tiến về thị xã Thái Nguyên, mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa
vũ trang giành chính quyền trong cả nước.
Ở nhiều tỉnh xa, lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương đến chậm, nhưng
nhờ thấm nhuần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trước đó, nhất là tinh thần
chỉ thị thực tế ở địa phương, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, lãnh đạo
Đảng, Mặt trận đã kịp thời, chủ động phát động quần chúng nổi dậy.
Từ ngày

4 đến ngày 18-8-1945. Ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, quần

chúng cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và cấp huyện, rồi
tiến lên giành chính quyền ở tỉnh.
Trước khí thế cách mạng của quần chúng thủ đô dâng cao, chính quyền
bù nhìn không giám chống cự, quân Nhật không giám can thiệp. Ủy ban khởi
nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19-8-1945.

Chiều ngày 02-9-1945, tại cuộc mít tinh ở quảng trường Ba Đình (Hà
Nội), trước đông đảo nhân dan Thủ đô và các vùng lân cận tham dự, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố
với toàn thể nhân dân, với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc
lập tự do ra đời.
Ngày 02-9-1945 trở thành móc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của
dân tộc Việt Nam.


Tiểu kết chương
Chương , trình bày những vấn đề cơ bản về nghệ thuật tạo thời cơ và
nắm thời cơ trong đấu tranh cách mạng và bối cảnh diễn ra Cách mạng tháng
Tám n m 945.
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, đảm
bảo một việc nào đó có thể tiến hành có kết quả. Thời cơ không tự nhiên mà
tới mà phải do ta tạo ra. Tạo thời cơ là tạo ra những yếu tố và điều kiện có lợi
cho ta, không có lợi cho địch ở thời điểm nhất định trong chiến tranh và trong
tác chiến. Nắm thời cơ là nắm thời cơ đúng lúc nó chín muồi để hành động
chính xác và kịp thời. Tạo thời cơ và nắm thời cơ là để hành động. Thời cơ có
trở thành sức mạnh, có tạo nên chiến thắng hay không là do hành động của
con người quyết định. Vì vậy phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, có phương
hướng biện pháp đúng đắn, sáng tạo để phát triển những điều kiện thuận lợi
cho thời cơ sớm xuất hiện. Tạo thời cơ mới chỉ là thúc đẩy sự phát triển
những yếu tố điều kiện của thời cơ và chuẩn bị về mọi mặt để sẵn sàng đón
nhận thời cơ khi nó nổ ra. Còn thời cơ đến lúc nào, ở đâu, có tính chất, phạm
vi cụ thể như thế nào thì phải đến khi nào thì phải đến khi nó xuất hiện mới có
thể nhận biết được. Thời cơ có trở thành sức mạnh, có tạo nên chiến thắng
hay không là do hành động của người quyết định. Nắm được thời cơ rồi mà
không hành động hoặc hành động chậm thì thời cơ không có ý nghĩa gì, thậm
chí có khi làm đảo ngược tình thế: đang mạnh hóa yếu, đang thắng hóa thua.

Nghệ thuật tạo thời cơ và nắm thời cơ đòi hỏi người lãnh đạo chiến
tranh cũng như chỉ huy tác chiến phải rất n ng động nhạy bén, nhưng cũng rất
tỉnh táo, sáng suốt, hiểu địch nhưng cũng lượng đúng sức mình, đón thời cơ
nhưng cũng phải biết chờ thời cơ, tìm chọn con đường ngắn nhất nhưng cũng
ít tốn tổn thất nhất để đi đến thắng lợi.


hương 2
N



O

N M
N

ON

M N

MN M

2.1. Nghệ thuật tạo thời cơ trong Cách mạng tháng Tám
2.1.1. Chuẩn bị đ ờng l i cách mạng và lực l

ng cách mạng

Đảng ta đã quán triệt và vận dụng sáng tạo những luận điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về tình thế, điều kiện và thời cơ khởi nghĩa: Điều đó được

thể hiện trên mấy điểm sau:
Thứ nhất, Đảng đã thường xuyên bắt mạch thời cuộc, vừa giữ vững
nguyên tắc lại vừa linh hoạt, nhạy bén trước sự chuyển biến của tình thế, đưa
ra những dự kiến tài tình về thời cơ Tổng khởi nghĩa.
Thứ hai, Đảng đã tích cực chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh
thần cho Tổng khởi nghĩa, vừa tuân thủ những quy luật khách quan vừa biết
phát huy tính n ng động chủ quan, coi đó là yếu tố quyết định cho việc tạo
thời cơ và đón thời cơ khởi nghĩa.
Thứ ba, trong quá trình chuẩn bị lâu dài, Đảng đã dự kiến khả n
ng chuyển động hoạt động du kích cục bộ tại các địa phương thành khởi nghĩa
từng phần. Tới khi xuất hiện tình thế mới, Nhật đảo chính Pháp, Đảng đã chớp
thời cơ thuận lợi, thực hành khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị đón thời cơ tổng
khởi nghĩa.
Thứ tư, khi thời cơ lịch sử xuất hiện, Đảng đã sớm phát hiện và kịp thời
có các chủ trương, hành động cần thiết, táo bạo, sáng tạo để tận dụng và phát
động toàn dân nhất tề đứng lên giành chính quyền.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa và
đấu tranh cách mạng, ngay từ khi mới ra đời, trong Luận cương chính trị
(tháng 0 n m 930) Đảng đã sớm xác định con đường đánh đổ chính quyền
thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay công nông là con đường vũ
trang lao động: “Nhiệm vụ của Đảng là phải lấy những sự nhu yếu hàng ngày


làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng.
Đến lúc sức cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai
cấp đứng giữa đã muốn bỏ về phe cách mạng, quần chúng công nông thì sôi
nổi cách mạng, quyết hy sinh chiến đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần
chúng để đánh đổ chính phủ của địch, nhận và giành lấy chính quyền cho
công nông”.
Hội nghị Trung ương lần thứ VI (tháng


n m 939) họp ở Bà Điểm

(Nam Bộ) đã nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh: “Tất cả mọi
vấn đề của cách mạng, cả vấn đề điền địa, cũng phải nhằm vào mục đích ấy
mà giải quyết”. Bởi vì lúc này, mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với
đế quốc xâm lược trở thành mâu thuẫn chủ yếu, cần “dự bị những điều kiện
bước tới bạo động, làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Tháng 0 n m 940, Hội nghị Trung ương lần thứ VII họp tại Đình
Bảng (Bắc Ninh) khẳng định chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược,
nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất
của Hội nghị Trung ương lần thứ VI, là đúng. Hội nghị Trung ương lần thứ
VII quyết nghị đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự
của cách mạng: “Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng
lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương vũ trang bạo động giành lấy
quyền tự do, độc lập”. Tuy nước ta chưa đứng trước một tình thế trực tiếp
cách mạng nhưng do tình hình quốc tế và trong nước ngày càng sôi động,
cách mạng nước ta có thể nổ ra bằng những cuộc khởi nghĩa địa phương ở
những nơi có điều kiện tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước.
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (5-1941) tại Pắc Bó (Cao Bằng) tán
thành các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ VI và lần thứ VII về
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đã đi đến nhận định: mâu thuẫn giữa dân


tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật là mâu thuẫn chủ yếu đòi
hỏi phải được giải quyết một cách cấp bách. Hội nghị nhấn mạnh: “Trong lúc
này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong
của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề
giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì

chẳng những đoàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn n m cũng không đòi lại được”. Hội
nghị quyết định “Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp – Nhật” từ
nay đổi tên thành “Việt Nam độc lập đồng minh”; gọi tắt là Việt Minh, để có
thể tập hợp đông đảo hơn nữa các lực lượng, các tầng lớp nhân dân tham gia
tranh đấu.
Tư tưởng chỉ đạo khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở các địa
phương tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cả nước do Hội nghị
Trung ương lần thứ VII đề ra, được Hội nghị Trung ương lần thứ VIII phát
triển một cách cụ thể. Khi thời cơ tới “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo
một cuộc khởi nghĩa từng phần, trong từng địa phương cũng có thể giành
thắng lợi mà mở đường cho một cuộc Tổng khởi nghĩa to lớn”.
Đây là sự vận dụng cụ thể, sáng tạo học thuyết Mác-Lê-nin về khởi
nghĩa vũ trang vào điều kiện Việt Nam.
2.1.2. Xây dựng căn c địa cách mạng, tập d

t đấu tranh

2.1.2.1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng
Xây dựng c n cứ địa cách mạng: C n cứ cách mạng là những địa bàn
đảm bảo an toàn bí mật và bảo vệ lực lượng cách mạng nhất là lực lượng vũ
trang. Do đó trong phong trào giải phóng dân tộc Đảng đặc biệt quan tâm đến
xây dựng c n cứ địa cách mạng. Chiến tranh du kích và c n cứ địa là hai yếu
tố cơ bản của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước kẻ địch đang chiếm ưu
thế về sức mạnh quân sự. Sau Hội nghị Trung ương VIII, ở những nơi phong


trào Việt Minh phát triển có các đội tự vệ, đội du kích vững mạnh, các c n cứ
địa cách mạng cũng đã hình thành.
C n cứ cách mạng có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng, vì là

chỗ đứng chân của cách mạng, là nơi cung cấp người và của cho cách mạng,
là nơi xuất phát để đánh địch và rút lui để bảo vệ mình.
Mức độ thấp của các khu c n cứ địa cách mạng trong cuộc Cách mạng
tháng Tám là các khu an toàn, lợi cho việc bảo vệ và liện lạc. Nhiều tỉnh đã
xây dựng được các khu an toàn của tỉnh mình. Thậm chí các khu an toàn của
cơ quan Trung ương Đảng được xây dựng tại vùng ven Hà Nội, chỉ cách trung
tâm thành phố

5 đến 20 km như Vạn Phúc (Hà Đông), Đình Bảng (Bắc

Ninh)… Các khu an toàn dần phát triển thành các khu du kích cao trào kháng
Nhật cứu nước trước Tổng khởi nghĩa. Hai khu du kích đầu tiên được xây
dựng là khu c n cứ Cao Bằng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, với
hoạt động của đội vũ trang Cao Bằng và khu c n cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai do
Trung ương Đảng trực tiếp tổ chức xây dựng. Tới cuối n m 943, hai c n cứ
địa nối nhau, tạo nên thế liên hoàn, vững chắc và làm tiền đề cho sự ra đời
Khu giải phóng Việt Bắc (6-4- 945), gồm các tỉnh Cao Bằng, B c Cạn, Lạng
Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và các vùng ngoại vi. Các khu du
kích ở các địa phương khác cũng phát triển mạnh. Với vũ khí thô sơ, tự tạo và
cướp được của giặc, các đội du kích vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng.
Hệ thống c n cứ địa cách mạng rộng lớn được Đảng dày công xây dựng đã
góp phần quan trọng vào thắng lợi nhanh chóng của Cách mạng Tháng Tám.
Cuối n m 944 đến đầu n m 945, chiến tranh thế giới dần bước vào giai
đoạn kết thúc, quân phát xít Đức và Nhật liên tiếp bị thua trận. Ở Đông
Dương, lực lượng theo phái Đờ - Gôn hoạt động ráo riết đợi thời cơ lập đổ
quân Nhật, mâu thuẫn Pháp - Nhật gay gắt. Không để cho Pháp có lợi thế
Nhật đã nổ súng tiến hành đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương vào tối


9/3/1945, quân Pháp chống trả yếu ớt rồi đầu hàng. Nhật tuyên bố “Giúp các

dân tộc Đông Dương xây dựng nền độc lập”, dựng Chính phủ bù nhìn Trần
Trọng Kim, đưa Bảo Đại làm Quốc trưởng. Thực chất là độc chiếm Đông
Dương, cuộc đảo chính diễn ra lúc Ban Thường vụ Trung ương Đảng đang
họp tại Đình Bản – Từ Sơn – Bắc Ninh. Hội nghị đã nhanh chóng nhận định
tình hình và nhận thấy thời cơ cách mạng đã xuất hiện trên cơ sở đó đề ra chủ
trương mới của Đảng. Ngày 2 -3 – 945 Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã chỉ ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị
nhận định điều kiện cho tổng khởi nghĩa chưa chín muồi nhưng cuộc đảo
chính đã tạo một khủng hoảng chính trị sâu sắc, đẩy nhanh điều kiện của cuộc
khởi nghĩa vũ trang đi tới chín muồi nhanh hơn. Chỉ thị xác định sau đảo
chính Phát xít Nhật là Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu
“Đánh đuổi Pháp - Nhật” được đổi thành “Đánh đuổi phát xít Nhật". Hình
thức đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị…sẵn sàng chuyển sang Tổng
khởi nghĩa khi có điều kiện. Quyết định “Phát động một cao trào kháng Nhật
cứu nước làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”. Đây là một v n kiện lịch sử
có ý nghĩa chỉ đạo hành động, chuẩn bị mọi lực lượng để đón thời cơ khởi
nghĩa một cách chủ động đã được Đảng ta đề ra hoàn toàn phù hợp với hoàn
cảnh lúc đó, vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang và khởi nghĩa vũ trang ngày
càng được xúc tiến khẩn trương hơn.
Ở c n cứ khu c n cứ địa, Giải phóng quân và Cứu quốc đẩy mạnh
chiến tranh du kích, đánh chiếm nhiều đồn bốt, giải phóng nhiều vùng mở
rộng địa bàn hoạt động. Tình hình diễn biến mau lẹ, có lợi cho cách mạng.
Từ ngày 5 đến 20-4- 944, Hội nghị Bắc Kì đã được triệu tập tại
Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị đã quyết định đặt nhiệm vụ quân sự lên
trên tất cả các nhiệm vụ, thành các chiến khu kháng Nhật, mở các lớp cấp
tốc đào tạo các cán bộ quân sự và chính trị. Hội nghị quyết định phát triển


×