MỤC LỤC
Chương I : Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.Những vấn đề lý luận chung.
I./ thị trường chứng khoán
II/Rủi ro trên thị trường chứng khoán.
Chương II : Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương III: Một vài đề xuất giảm thiểu rủi ro trên thị trường
chứng khoán Việt nam.
1
Mở đầu
Quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt Nam đặt ra một
yêu cầu cấp thiết là phải phát triển thị trường vốn hiệu quả nhằm cung
cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Để có một thị trường vốn như
thế, đòi hỏi trước mắt là phải xây dựng được một thị trưng chứng khoán
vững mạnh. Thị trờng chứng khoán sẽ làm tăng tính thanh khoản của các
công cụ huy động vốn, từ đó thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển. Mặt
khác, thị trường chứng khoán khắc phục được đáng kể hạn chế về không
gian, thời gian và quy mô trong việc huy động vốn. Nhận thức tầm quan
trọng đó, sau nhiều cố gắng thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính
thức đi vào hoạt động ngày 20/7/2000, đánh dấu bước chuyển mình của
thị trường tài chính Việt Nam.
Tuy nhiên sau hơn bảy năm hoạt động, những kết quả đạt được của
thị trường chứng khoán Việt Nam chưa đáp ứng sự mong mỏi và kỳ
vọng của cả nền kinh tế nói chung và giới đầu tư nói riêng. Thị trường
vẫn hàm chứa rất nhiều rủi ro .Do đó đề án này với mục đích là nghiên
cứu các rủi ro của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đề án có thể
rất nhiều sai sót vì vậy mong được thầy giáo hướng dẫn và các bạn đọc
tận tình hướng dẫn để đề án được hoàn thiện hơn.
2
Chương I: Rủi ro trên thị trường chứng khoán .Những vấn đề lý
luận chung.
I/ Thị trường chứng khoán :
1 . Định nghĩa :
Trong các nền kinh tế lớn của thế giới thị trường chứng khoán là
nơi diễn ra sôi nôi nhất của hoạt động kinh tế . Lịch sử hình thành nên
thị trường chứng khoán đã có từ thế kỷ 18. Trong điều kiện của nền
kinh tế hiện đại ngày nay thị trường chứng khoán được quan niệm là
nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài
hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người
mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở
những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã
được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy về mặt hình thức thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn
ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng
khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán .
• Thị trường sơ cấp : Là thị trường mua bán cổ phiếu mới phát
hành .Ở đây vốn từ nhà đầu tư sẽ chuyển sang nhà phát hành
thông qua các cổ phiếu mới được phát hành. Đây là thị
trường duy nhất đem lại nguồn vốn cho nhà phát hành.
• Thị trường thứ cấp : là thị trường mua bán giao dịch các
chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp . Tại thị
trường thứ cấp các hoạt động trao đổi mua bán chứng khoán
diễn ra một cách sôi nổi giữa các nhà đẩu tư .Các nguồn vốn
được luân chuyển qua tay rất nhiều nhà đầu tư hay nói một
cách khác luồng vốn này không chảy vào nhà phát hành.Thi
trường thứ cấp là bộ phận không thể thiếu cho thị trường sơ
3
cấp.
Trên thị trường thứ cấp giá cả các loại cổ phiếu phụ thuộc nhiều
vào quan hệ cung cầu, cạnh tranh tự do và nó hoạt động liên tục .
2 . Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán có thể chia ra làm bốn chủ thể tham
gia thị trường là : nhà phát hành, nhà đầu tư , các tổ chức kinh doanh
trên thị trường chứng khoán và các tổ chức liên quan đến thị trường
chứng khoán .
a. Nhà phát hành : là tổ chức muốn huy động vốn qua thị trường
chứng khoán bằng việc phát hành cổ phiếu , là hàng hóa của thị
trường.Các tổ chức này bao gồm :
− Chính phủ và địa phương là nhà phát hành trái phiếu Chính
phủ và trái phiếu địa phương. Mục đích là nhằm huy động
vốn cho các dự án của nhà nước và của địa phương. Đây là
loại trái phiếu hầu như không có rủi ro .
− Chứng khoán được phát hành từ các công ty . Các công ty
chính là những nhà phát hành các cổ phiếu chủ yếu trên thị
trường mục đích nhằm huy động vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình.
− Các tổ chức tài chính cũng tham gia vào việc phát hành trái
phiếu , các chứng chỉ có giá nhằm huy động vốn cho công
việc , mục đích của tổ chức.
b. Nhà đầu tư: bao gồm những nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có
tổ chức. Nhà đầu tư chính là những người mua bán nhiều nhất chứng
khoán trên thị trường .
− Nhà đầu tư cá nhân : Là những người có vốn nhàn rỗi tạm
thời như công nhân viên chức muốn đầu tư vào thị trường
4
chứng khoán nhằm thu thêm lợi nhuận .
− Nhà đầu tư có tổ chức: thường được gọi là các định chế tổ
chức thường xuyên mua bán chứng khoán với khối lượng
lớn. Các tổ chức này thông tin được thu thập một cách nhanh
chóng hiệu quả với một đội ngũ các chuyên gia có kinh
nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán mục đích nghiên cứu thị
trường nhằm đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn nhất.
Các nhà đầu tư có tổ chức chủ yếu như các quỹ đầu tư, các
công ty bảo hiểm ...
c. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán bao gồm :
− Các công ty chứng khoán : hoạt động trên thị trường chủ yếu
đảm nhận một số nghiệp vụ chính như bảo lãnh phát hành,
môi giới , tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư .
Để thực hiện được các nghiệp vụ của mình các công ty chứng
khoán cần có một số vốn nhất định và được các cơ quan nhà nước
cấp phép hoạt động
− Các quỹ đầu tư chứng khoán : thị trường chứng khoán có rất
nhiều loại cổ phiếu thế nên cho dù chỉ tập trung vào một lĩnh
vực thì nhà đầu tư cũng không làm sao nắm bắt hết các chiều
hướng chuyển biến của nó.
Đa số các nhà đầu tư lại là những người không chuyên nghiệp,
nhiều nhà đầu tư lớn đã phải thuê các cố vấn riêng. Những nhà đầu tư
khác vì lý do nào đó không thể tự quản lý việc mua bán trong các danh
mục đầu tư của mình có thể mở các trương mục uỷ thác phân quyền
hoặc những trương mục uỷ thác toàn quyền (discretionary account) tại
các trung tâm môi giới. Và cùng với thời gian, thị trường đã hình thành
một định chế giúp các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, thực hiện
5
đầu tư tốt nhất vào thị trường chứng khoán được gọi là các quỹ đầu tư.
Nhà đầu tư không hưởng lợi trực tiếp từ các cổ phiếu được mua
bán trên thị trường chứng khoán, mà họ sẽ chia sẻ hiệu quả do một quá
trình mua bán chứng khoán tập trung của quỹ này
d. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán bao gồm :
−Cơ quan quản lý Nhà nước :
− Sở giao dịch chứng khoán
− Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
− Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
− Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
− Các tổ chức tài trợ chứng khoán
3.Các nguyên tắc hoạt động trên thị trường chứng khoán :
a. nguyên tắc cạnh tranh : Theo nguyên tắc này giá cả các loại cổ
phiếu được quyết định theo quan hệ cung cầu về nhu cầu chứng khoán
và mối quan hệ cạnh tranh giữa các tổ chức phát hành.
Trên thị trường sơ cấp có sự cạnh tranh giữa các tổ chức phát
hành mà chủ yếu là các công ty trong việc bán cổ phiếu của mình ra cho
các nhà đầu tư. Trên thị trường thứ cấp các nhà đầu tư tự do cạnh tranh
tìm kiếm lợi nhuận cao nhất và giá cả được hình thành theo nguyên tắc
đấu giá.
b.nguyên tắc công bằng : theo nguyên tắc này tất cả các công ty,
các tổ chức phát hành, các nhà đầu tư ... tất cả đều có quyền lợi và nghĩa
vụ như nhau .Tất cả đều phải tuân thủ các quy tắc , quy định và đều bị
xử phạt nếu vi phạm.
6
c. Nguyên tắc công khai : Theo nguyên tắc này , mọi hoạt động
mua bán trên thị trường đều phải minh bạch.Sở giao dịch chứng khoán
công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị truờng. Các tổ
chức niêm yết công bố công khai các thông tin tài chính định kỳ hằng
năm của công ty, các sự kiện bất thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ
cổ phiếu của giám đốc, người quản lý, cổ đông đa số .
d.nguyên tắc đấu giá :Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua
việc đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên
tham gia thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác định giá này.
Có hai hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động.
Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và
trực tiếp đấu giá.
Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới đuợc
nhập vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống
máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán
giao dịch với khối luợng cao nhất.
e.Nguyên tắc trung gian :Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng
khoán trên thị truờng chứng khoán đều đuợc thực hiện thông qua các
trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện
giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà
môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác nhu cung cấp thông tin
và tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư...
Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả
thuận với nhau để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các
nhà môi giới của mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào
hệ thống để khớp lệnh .
7
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán
đuợc hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao
dịch
II/ Rủi ro trên thị trường chứng khoán :
A. Rủi ro :
1. Định nghĩa :rủi ro là khả năng xảy ra những kết quả không mong
muốn trong tương lai.Rủi ro chỉ phát sinh khi không có một sự chắc chắn
về mất mát xảy ra.
Theo cách hiểu đó nếu xác suất mất mát là 0 hoặc là 1 thì không
có rủi ro . Một người rơi từ tầng 30 thì khả năng sống sót là 0, mặc dù
có mất mát về nhân mạng nhưng đây không phải là rủi ro do đã biết
trước hậu quả nhưng nếu 1 người rơi từ tầng 3 thì khả năng sống sót ,
hậu quả chưa thể thấy được như vậy như vậy là có rủi ro .
Nhắc đến rủi ro không thể bỏ qua khái niệm về xác suất hay là
khả năng xảy ra mất mát .Xác suất thì có 2 loại là xác suất khách quan
và xác suất chủ quan.
− Xác suất khách quan hay là xác suất tiên nghiệm là xác suất
được xác định bằng các phương pháp quy nạp và diễn dịch.
Chẳng hạn khi tung đồng xu theo phương pháp diễn dịch có
thể tính xác suất xuất hiện mặt ngửa là 50% .
− Xác suất chủ quan là xác suất là ước tính chủ quan của cá
nhân với khả năng xáy ra. Khi một người mua vé sổ xố ,
lượng vé bán ra là 1 triệu thì khả năng trúng là 1 phần triệu
nhưng xác suất chủ quan của người mua vé còn cao hơn rất
8
nhiều lần so với xác suất tiên nghiệm.
Trên thị trường chứng khoán rủi ro thể hiện qua sự sụt giảm , thua
lỗ hoặc những biến động thất thường về mức sinh lời của chứng khoán.
2. Phân loại rủi ro trên thị trường chứng khoán : trên thị trường
chứng khoán có 2 loại rủi ro chủ yếu là rủi ro hệ thống và rủi ro không
hệ thống .
a. Rủi ro hệ thống : những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công
ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và
tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống hay là rủi ro không
phân tán được. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên ngoài của một
ngành công nghiệp hay của một doanh nghiệp, chẳng hạn như chiến
tranh, lạm phát, sự kiện kinh tế và chính trị... Đa dạng hóa đầu tư cũng
không thể loại bỏ loại rủi ro này. Những công ty chịu ảnh hưởng cao
của rủi ro hệ thống là những công ty mà doanh số, lợi nhuận và giá
chứng khoán thường theo sát các diễn biến kinh tế và những diễn biến
trên thị trường chứng khoán. Phần lớn các công ty trong những ngành công
nghiệp cơ bản và khai khoáng, những ngành có định phí lớn hay những
ngành liên quan đến sản xuất ô tô chịu ảnh hưởng rất cao của rủi ro hệ
thống, ví dụ ngành thép, cao su, kính,... Rủi ro hệ thống được chia làm 3
loại rủi ro chính: rủi ro thị rường, rủi ro lãi suất và rủi ro sức mua
* Rủi ro thị trường : Giá cả cổ phiếu giao động mạnh trong một
khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập, tình hình kinh doanh của công
ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thể rất khác nhau nhưng
phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ
phiếu nói chung hay về một nhóm các cổ phiếu nói riêng. Những thay đổi
trong mức sinh lời đối với phần lớn các loại cổ phiếu thường chủ yếu là
9
do sự hy vọng của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và gọi là rủi ro thị
trường.
Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà
đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự chờ đợi đối với
chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của các công ty nói chung có thể là
nguyên nhân làm cho phần lớn các loại cổ phiếu thường bị giảm giá.
Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu
hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội còn các sự kiện vô hình là
các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường
thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không
vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự
kiện đó. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây
sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn và sau đó kéo
theo những phản ứng dây chuyền ( domino) làm tăng vọt số lượng bán,
giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở.
*Rủi ro lãi suất :Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá
trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai của chứng khoán ,
nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung .Giá cả chứng khoán
luôn có xu hướng biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường , lãi suất
thị trường tăng làm giá thị trường của chứng khoán bị giảm và ngược
lại.Vì thế sự biến động của lãi suất sẽ làm giảm giá trị hiện tại của các
chứng khoán của các chứng khoán được đầu tư ở các thời điểm khác
nhau ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được .
Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi
suất Trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời
kỳ vọng của các loại chứng khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và trái
10
phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng
khoán không rủi ro thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn
của các loại chứng khoán có rủi ro.
*Rủi ro về sức mua :Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được
định nghĩa là những biến cố về số tiền thu được hiện nay của nhà đầu tư
.Trong khi đó rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu
được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư,
biến động giá càng cao thì rủi ro sức mua càng tăng nếu nhà đầu tư
không tính toán lạm phát vào thu nhập kỳ vọng.
Nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng thu được
lợi nhuận trong tương lai nhưng họ lại mất đi cơ hội mua sắm hàng hóa
dịch vụ trong thời gian nắm giữ chứng khoán .Mặt khác giá cả hàng
hóa tăng lên trong thời gian nắm giữ chứng khoán do yếu tố lạm phát
nhà đầu tư sẽ mất đi một phần sức mua từ thu nhập có được trong tương
lai .Giá trị phần sức mua bị giảm sút do lạm phát phản ánh mức rủi ro
sức mua của nhà đầu tư chứng khoán .
b.Rủi ro phi hệ thống : là những rủi ro có nguyên nhân xuất phát
từ nội tại của 1 công ty , một nghành nào đó mà không ảnh hưởng gắn
liền đến toàn bộ thị trường . Do đó ảnh hưởng của các rủi ro phi hệ
thống chỉ ảnh hưởng đến phạm vi một công ty , một nghành hay một
loại chứng khoán nào đó.Các yếu tố gây ảnh hưởng này có thể là những
biến động về lực lượng lao động, năng lực quản trị, kiện tụng hay chính
sách điều tiết của chính phủ .
Rủi ro phi hệ thống có thể phân tán giảm thiểu rủi ro được thông
qua mở rộng danh mục đầu tư .
Rủi ro phi hệ thống thường bao gồm các loại như rủi ro kinh
11
doanh , rủi ro tài chính , rủi ro quản lý...
* Rủi ro kinh doanh : Rủi ro kinh doanh là những rủi ro về sự
không ổn định của thu nhập trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp do những bất lợi về môi trường kinh doanh hoặc cung cầu hàng
hóa trên thị trường .
Rủi ro kinh doanh có thể được chia làm hai loại cơ bản: Bên
ngoài và nội tại.
-Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt
động của công ty. Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ
thành công của mỗi công ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động.
-Mỗi công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào
các yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của công ty. Các yếu tố bên
ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân sách, từ mức thuế nhập
khẩu tăng đến sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. .., và có lẽ yếu tố
quan trọng nhất là chu kỳ kinh doanh.
Các chính sách chính trị cũng là một phần của rủi ro bên ngoài,
các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập
thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn.
* Rủi ro tài chính : là những rủi ro về khả năng thanh toán lợi tức
chứng khoán hoặc hoàn vốn cho người sở hữu chứng khoán do việc lựa
chọn cơ cấu tài chính không hợp lý hoặc có sự mất cân đối giữa doanh
thu và chi phí của doanh nghiệp.
Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho
công ty
những nghĩa vụ trả lãi mà phải được thanh toán cho chủ nợ trước
12
khi trả cổ tức cho cổ đông nên nó có tác động lớn đến thu nhập của họ.
Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà
quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không
vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính.
Bằng việc đi vay, công ty đã thay đổi dòng thu nhập đối với cổ
phiếu thường. Cụ thể là, việc sử dụng tỷ lệ vay nợ gây những hệ quả quan
trọng đối với những người nắm giữ cổ phiếu thường, đó là làm tăng mức
biến động trong thu nhập của họ, ảnh hưởng đến dự kiến của họ về thu
nhập, và làm tăng rủi ro của họ.
Giả sử chúng ta có hai công ty có hoạt động kinh doanh như
nhau, chỉ khác nhau về cơ cấu vốn:
Công ty C, nguồn vốn hoàn toàn từ 1 triệu cổ phiếu thường, bán
với giá 20 đôla/1cổ phiếu.
Công ty khác, công ty D, có nguồn một nửa là từ cổ phiếu
thường 500.000 cổ phiếu, bán với giá 20 đô la/ cổ phiếu và một nửa là từ
vay nợ 10 triệu USD với lãi vay là 5%.
Như vậy, tài sản có của mỗi công ty là 20 triệu USD, dự kiến sẽ
có lợi nhuận 1 triệu USD, hay là 5% trên tổng tài sản.
Chúng ta giả sử rằng không có thuế thu nhập công ty. Thu nhập
1 triệu USD có thể dễ dàng chuyển đổi sang thu nhập cho mỗi cổ phiếu.
Công ty C sẽ có lãi 1 đô la/1 cổ phiếu. Công ty D phải trả lãi 500.000 đô
la và phần còn lại chia cho cổ phiếu cũng được lãi 1 đô la/1cổ phiếu. Tại
điểm này, cả hai công ty đều có mức thu nhập trên cổ phiếu là 1 đô la.
Như vậy ta không thấy có hệ quả của việc vay nợ đối với thu nhập của
cổ đông.
Nhưng nếu năm tiếp sau đó, lợi nhuận cả hai công ty tăng thêm
13
50%, vậy trong trường hợp của công ty D, cổ đông được hưởng thêm 1
đôla/cổ phiếu nhiều hơn cổ đông của công ty C chỉ được hưởng thêm 0,5
đôla/cổ phiếu, vì lợi nhuận D lúc đó là 1,5 triệu USD mà vẫn chỉ phải trả
lãi suất 5% trên số tiền cho vay.
Ngược lại, nếu lợi nhuận giảm 50% sẽ làm cho lợi nhuận trên 1
cổ phiếu của công ty C giảm xuống 50% từ 1 đô la xuống 0.5 đô la
nhưng lợi nhuận trên một cổ phiếu của Công ty D sẽ giảm từ 1 xuống 0.
Qua đó chúng ta thấy được những hậu quả trực tiếp mà rủi ro tài chính
gây ra cho thu nhập của nhà đầu tư chứng khoán.
*Rủi ro quản lý là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý
không hợp lý từ các nhà quản trị doanh nghiệp.
III. Mô hình đánh giá rủi ro , CAPM
1.Giới thiệu khái quát về mô hình định giá tài sản vốn CAPM :
Mô hình định giá tài sản vốn ( Capital aset pricing model,
CAPM) là mô hình mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng.
Theo mô hình CAPM lợi nhuận kỳ vọng bằng lợi nhuận không
rủi ro cộng với một khoản bù đắp rủi ro nhân với hệ số rủi ro hệ thống
của chứng khoán đó ( hệ số β )
Như vậy theo mô hình rủi ro phi hệ thống không được xem xét
trong mô hình này do nhà đầu tư có thể xây dựng danh mục đầu tư đa
dạng hóa loại bỏ rủi ro đó.
Mô hình CAPM được đưa ra vào những năm 1960 do 3 nhà kinh
tế học là William Sharpe, John Lintner và Jack Treynor. Mặc dù hiện
này còn có rất nhiều mô hình khác cũng nỗ lực tìm kiếm cách giải thích
các động thái của thị trường , mối quan hệ rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng
14
nhưng mô hình CAPM là mô hình đơn giản về mặt khái niệm và khả
năng ứng dụng thực tiễn nhất .
2. Một số giả định cơ bản trong mô hình CAPM :
• Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của đều dựa trên việc
phân tích 2 yếu tố: thu nhập kỳ vọng và độ sai lệch của thu
nhập.
• Các nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng cách kết
hợp nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp danh mục
đầu tư của mình. Tức là làm giảm rủi ro phi hệ thống nhằm
mục đích loại bỏ rủi ro phi hệ thống ra khỏi mô hình
• Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc trong
khoảng thời gian nhất định .Thông thường trong mô hình
các khoang thời gian này là 3 tháng , 1 năm và 2 năm.
• Các nhà đầu tư có chung các kỳ vọng về các thông số đầu
vào sử dụng để tạo lập danh mục đầu tư hữu hiệu
• Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.Nhà đầu
tư được cung cấp thông tin đầy đủ , không có những hạn
chế đầu tư và không có nhà đầu tư nào đủ lớn để ảnh
hưởng đến giá cả của một loại cổ phiếu nhất định
• Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất
kỳ một sự cản trở nào trong môi trường cung và cầu của
một loại tài sản.
15
• Trên thị trường tồn tại loại tài sản không có rủi ro ( Risk-
free- Asset) mà nhà đầu tư có thể đầu tư lãi suất vay và lãi
suất cho vay cùng bằng nhau và bằng lãi suất không rủi ro.
3. Nội dung của mô hinh CAPM :
Theo mô hinh CAPM mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ
vọng
Rj = Rf +( Rm – Rf )βj
Trong đó :
Rj là lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán j.
Rf là lợi nhuận không rủi ro , lợi nhuận này có tỷ suất bằng lãi suất
của trái phiếu chính phủ
Rm là lợi nhuận kỳ vọng của thị trường.
Βj là hệ số beta , hệ số đo lường rủi ro của chứng khoán j
a. Quan hệ giữa lợi nhuận cá biệt và lợi nhuận thị trường :
Trước tiên ta phải hiểu lợi nhuận thị trường là lợi nhuận của các
doanh mục đầu tư thị trường .Danh mục đầu tư thị trường được lựa chọn
theo từng loại thị trường .
Để tìm hiểu mối quan hệ giữa lợi nhuận cá biệt và lợi nhuận thị
trường ta xét ví dụ về lợi nhuận cổ phiếu của công ty A với sự biến động
của nền kinh tế.
16
Tình huống Nền kinh tế Lợi nhuận thị
trường
Lợi nhuận cổ
phiếu công ty
A(%)
1 Tăng trưởng 15 25
2 Tăng trưởng 15 15
3 Suy thoái -5 -5
4 Suy thoái -5 -15
Như vậy ứng với 2 trạng thái của nền kinh tế tăng trưởng và suy
thoái lợi nhuận cua thị trường có 2 sự thay đổi là 15% và -5% nhưng
khi đó lợi nhuận của A có 4 sự thay đổi 25%,15%, -5%, -15%.
Nếu xét khả năng xảy ra suy thoái và tăng trưởng là bằng nhau
( xác suất là 50/50). Khi đó ta có :
Tình trạng nền kinh tế Lợi nhuận thị trường(%) Lợi nhuận kỳ vọng của
A(%)
Tăng trưởng 15 25*0.5 + 15*0.5=20
Suy thoái -5 (-5*0.5) +(-15*0.5)= -10
Biểu diễn trên trục tọa độ mối quan hệ giữa lợi nhuận cổ phiếu và
lợi nhuận thị trường .Khi đó ta có đường đặc thù chứng khoán với hệ số
góc chính là hệ số beta.
b. Hệ số beta β
* Hệ số beta được định nghĩa là hệ số đo lường mức độ biến động
lợi nhuận cổ phiếu cá biệt so với mức biến động lợi nhuận danh mục thị
thị trường.
Theo đó :
β= Rj/Rm
Mặt khác, hệ số cũng có thể được viết bằng cách khác, đó là quan
17
hệ tỷ lệ giữa rủi ro của vốn chủ sở hữu so với rủi ro thị trường.
β= σRj/σRm.
Theo ví dụ trên chúng ta xem xét hệ số beta bằng tỷ số giữa mức
đọ biến động lợi nhuận cua A , ứng với tình trạng tăng trưởng và suy
thoái của nền kinh tế và mức độ biến động lợi nhuận thị trường .
Do đó : β= [ 20-(-10)]/[15-(-5)] =1.5
c. Cách tính hệ số beta :
Để tính hệ số beta là hệ số đo lường rủi ro chứng khoán trên thực
tế các nhà kinh tế học sử dụng phương pháp hồi quy, từ đó ước lượng hệ
số beta dựa trên các số liệu trong lịch sử.
Ta xây dựng một hàm hồi quy trong đó biến độc lập là suất sinh lợi
của danh mục đại diện cho toàn bộ thị trường, còn biến phụ thuộc là suất
sinh lợi của chứng khoán i. Tại các nước, vì thị trường chứng khoán bao
gồm rất nhiều chứng khoán khác nhau nên người ta coi danh mục thị
trường đồng nghĩa với danh mục cổ phiếu lập chỉ số chính của thị trường
cổ phiếu, ở Mỹ là S&P 500, ở Pháp là CAC 40, ở Nhật là Nikkei 225, ở
Việt Nam tất nhiên sẽ phải là VN-Index. Công thức của mô hình thị
trường như sau :
R
jt
= a
i
+ β
i
R
Mt
+ e
it
Trong đó :
R
it
: suất sinh lợi của chứng khoán i tại kỳ t;
a
i
: hằng số. Hằng số này là suất sinh lợi của chứng khoán i khi suất
sinh lợi của thị trường bằng 0 ;
18
β
i
: Độ dốc của đường hồi quy. Hệ số này cho thấy mức độ nhạy
cảm của chứng khoán i đối với chỉ số của thị trường chứng khoán;
R
Mt
: suất sinh lợi của “danh mục thị trường” hay của chỉ số chứng
khoán trong kỳ t; ở Việt nam là Vn-INDEX
e
it
: Phần suất sinh lợi dư của chứng khoán i trong kỳ t, được quan
niệm là đại diện cho rủi ro phi hệ thống của chứng khoán i trong kỳ t.
e
it
Độc lập với thị trường không ảnh hưởng đến .Trung bình các
phần dư này là băng 0.
Ở các nước phát triển luôn có một số công ty phụ trách chuyên xác
định và cung cấp thông tin về hệ số beta. Ở Mỹ có thể tìm thấy thông tin
vê hệ số beta từ các nhà cung cấp dịch vụ là Value line invesment
survey , Market guide và Standard & poor’s stock Report. Ở Canada thì
có Burns Fry limited cung cấp.
4. Quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận , đường SML :
Lợi nhuận kỳ vọng của một chứng khoán có quan hệ đồng biến với
rủi ro của chứng khoán đó , nghĩa là nhà đầu tư kỳ vọng vào chứng
khoán có rủi ro cao thì sẽ có lợi nhuận cao và ngược lại. Nói 1 cách khác
nhà đầu tư chỉ giữ những chứng khoán có rủi ro cao khi lợi nhuận kỳ
vọng của nó đủ lớn để bù đắp rủi ro .Như ta đã biết hệ số beta là hệ số đo
lường rủi ro của một chứng khoán .Như vậy lợi nhuận kỳ vọng của một
chứng khoán có quan hệ đồng biến với hệ số của nó.
Bây giờ ta giả sử rằng thị trường tài chính hiệu quả và nhà đầu tư đa
dạng hóa danh mục đầu tư sao cho rủi ro phi hệ thống được loại bỏ. Khi
đó, chỉ còn rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến lợi nhuận của cổ phiếu . Cổ
19
phiếu có beta càng cao thì độ rủi ro càng cao vì vậy cần một lợi nhuận
kỳ vọng đủ lớn để bù đắp.
Như đã nói ở trên , theo mô hình CAPM mối quan hệ giữa lợi
nhuận và rủi ro được diễn tả bới công thức :
Rj = Rf +( Rm – Rf ) βj
Phương trình trên biểu diễn nội dung mô hình CAPM , có dạng hàm
số bậc nhất y = ax + b với biến phụ thuộc ở đây là Rj, biến độc lập là βj
và hệ số góc là ( Rm – Rf ).
Xét về mặt hình học , mối quan hệ giữa lợi nhuận kỳ vọng cổ phiếu
và hệ số rủi ro beta được biểu diễn bằng đường thẳng : đường thị trường
chứng khoán
SML ( security market line )
20
ĐƯỜNG SML
Từ công thức và đồ thị ở trên ta có thể thấy :
• Beta = 0 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán có beta = 0
chính là lợi nhuận không rủi ro và bằng Rf , Tại đây tỷ suất
lợi nhuận của nó bằng lãi suất trái phiếu chính phủ .
• Beta =1 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán khi đó
bằng lợi nhuận của thị trường
• Quan hệ tuyến tính giũa lợi nhuận kỳ vọng và beta được
biễu diễn bằng đường SML với hệ số góc là Rm – Rf.
• Mô hình CAPM vẫn đúng với trường hợp danh mục đầu tư
nhiều cổ phiếu . Để có thể hiểu rõ vấn đề này ta giả sử có 2
loại cổ phiếu là A và Z có hệ số beta lần lượt là 1,5 và 0,7.
Lãi suất trái phiếu chính phủ là 13,4. Áp dụng mô hình
21
CAPM chúng ta có lợi nhuận kỳ vọng của các cổ phiếu
như sau :
Cổ phiếu A : Rj = Rf + (Rm – Rf)βj = 7+(13,4 –
7)1,5=16.6%
Cổ phiếu Z :Rj = 11,48%
Ta cho rằng nhà đầu tư này kết hợp 2 loại cổ phiếu với tỷ trọng
bằng nhau trong danh mục đầu tư .Khi đó lợi nhuận kỳ vọng của danh
mục đầu tư là
R = 0,5*16,6 + 0,5* 11,48 = 14,04%
Nếu áp dụng mô hình CAPM để xác định lợi nhuận kỳ vọng của
danh mục đầu tư , chúng ta có hệ số beta của danh mục đầu tư :Β
=∑Wjβj
trong đó Wj và βj lần lượt là tỷ trọng và beta của cổ phiếu j trong
danh mục đầu tư . Như vậy theo ví dụ hệ số beta của danh mục đầu tư sẽ
là
β =0,5*1,5 + 0,5*0,7 = 1,1
Áp dụng mô hình ta tính được lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu
tư là
R = Rf + ( Rm – Rf)β =14,04
Như vậy ta thấy 2 cách tính khác nhau nhưng cung 1 kết quả như
nhau chứng tỏ rằng mô hình CAPM vẫn có thể áp dụng cho 1 danh mục
đầu tư nhiều cổ phiếu 5. Một số phát hiện bất thường khi sử dụng mô
hình CAPM
22
Rát nhiều học giả kinh tế khi áp dụng mô hình CAPM đã phát
hiện ra một số điểm bất thường khiến cho mô hình không còn đúng như
bình thường.Những điểm bất thường bao gồm:
• Ảnh hưởn của quy mô công ty : Người ta phát hiện rằng cổ
phiếu của công ty có giá trị thị trường nhỏ đem lại lợi
nhuận cao hơn cổ phiếu của công ty có giá trị thị trường
lớn.Các yếu tố khác như nhau
• Ảnh hưởng của các tỷ số PR và MB : Người ta cũng thấy
rằng cổ phiếu của những công ty có tỷ số PE và tỷ số MB
thấp đem lại lợi nhuận cao hơn cổ phiếu của những công ty
có tỷ số PE và MB cao
• Ảnh hương tháng giêng : Những người nào nắm giữ số cổ
phiếu trong khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 1
thường có lợi nhuận cao hơn so với những người khác. Tuy
vậy , không phải năm nào cũng xảy ra hiện tượng này
23
CHƯƠNG II : RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
I. Quá trình hình thành thị trường chứng khoán Việt
Nam
1. Sự ra đời của Ủy ban chứng khoán nhà nước :
Xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính
phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20)
nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Việc
nghiên cứu, xây dựng đề án thành lập TTCK đã được nhiều cơ quan Nhà
nước, các Viện nghiên cứu phối hợp đề xuất với Chính phủ.
Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây
dựng TTCK ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và
phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/
QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với
nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành
lập TTCK theo bước đi thích hợp. Theo sự uỷ quyền của Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức
nghiên cứu về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của TTCK, đề xuất
với Chính phủ về mô hình TTCK Việt Nam, đào tạo kiến thức cơ bản về
chứng khoán và TTCK cho một bộ phận nhân lực quản lý và vận hành
thị trường trong tương lai; nghiên cứu, khảo sát thực tế một số TTCK
trong khu vực và trên thế giới… Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức
thuộc NHNN nên phạm vi nghiên cứu, xây dựng đề án và mô hình
24
TTCK khó phát triển trong khi TTCK là một lĩnh vực cần có sự phối
hợp, liên kết của nhiều ngành, nhiều tổ chức.
Vì vậy, tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn
thảo Pháp lệnh về chứng khoán và TTCK do một đồng chí Thứ trưởng
Bộ Tài chính làm Trưởng Ban, với các thành viên là Phó Thống đốc
NHNN, Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Trên cơ sở Đề án của Ban soạn thảo
kết hợp với đề án của NHNN và ý kiến của các Bộ, ngành liên quan
ngày 29/6/1995, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 361/QĐ-TTg
thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt
Nam. Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK có nhiệm vụ:
- Soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK;
- Soạn thảo Nghị định của Chính phủ về thành lập Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước;
- Chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, quản lý
thị trường, kinh doanh về chứng khoán;
- Hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế trong việc tổ chức TTCK
ở Việt Nam;
Đây là bước đi có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình
hình thành TTCK, làm tiền đề cho sự ra đời cơ quan quản lý nhà nước
với chức năng hoàn chỉnh và đầy đủ hơn.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày
28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc
Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng
25