Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh thông qua phương pháp trò chơi học tập trong môn Khoa học của học sinh lớp 53 trường Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.5 KB, 14 trang )

1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Đọc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: - Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở huyện Phú Ninh.
Tên sáng kiến: Phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh
thông qua phương pháp trò chơi học tập trong môn Khoa học của học sinh
lớp 5/3 trường Tiểu học Phan Đình Phùng.
1- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2- Lĩnh vực hoạt động của Cơ quan/Đơn vị: Giáo dục và đào tạo
3- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học
2019- 2020.
4- Mô tả bản chất của sáng kiến:
Đổi mới phương pháp dạy học luôn là nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo
dục nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Một
trong số những biện pháp để đạt được mục đích trên đó là sử dụng trò chơi. Trò
chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục
bằng trò chơi. Một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế
giới vận dụng, lồng ghép trò chơi trong dạy và học các môn học, kết hợp với
những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới
hiện nay.
Đối với học sinh Tiểu học thì hoạt động vui chơi là nhu cầu không thể
thiếu và nói giữ vai trò quan trọng đối với các em. Nếu giáo viên biết tổ chức
cho học sinh chơi một cách hợp lí, khoa học trong giờ học sẽ mang lại hiệu quả
giáo dục cao. Chính vì vậy việc vận dụng trò chơi trong giờ học ở tiểu học sẽ
làm thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho
người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn
trong giao tiếp và nêu ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo,… Hứng thú và
chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành
kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua các tiết học.
Qua nhiều năm dạy học được trực tiếp giảng dạy lớp 5 tôi luôn mong muốn


làm thế nào để học sinh của mình năng động, sáng tạo, hứng thú hơn trong học
tập, giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực, làm sao để các em có cảm giác “mỗi
ngày đến trường là một ngày vui”.


2
Với lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Muốn có đạo đức cách mạng thì phải có tri
thức”. Muốn có tri thức thì phải học và phải học thật tốt. Để có được tri thức ấy
thì phải học tất cả các lĩnh vực và các môn học. Để thực hiện mục tiêu giáo dục
của Bộ GD-ĐT đã đặt ra: Giáo dục cho học sinh Tiểu học là phải giáo dục toàn
diện, không coi trọng môn chính, môn phụ. Bởi vậy cùng với các môn học khác,
môn Khoa học đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển toàn
diện cho học sinh. Để rồi thông qua mỗi giờ học môn Khoa học các em được trải
nghiệm, được vui chơi, được thỏa mái giữa thiên nhiên, được trải nghiệm với
thực tế thông qua các trò chơi học tập,...
Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học hỏi ở đồng nghiệp cộng với các
đợt tập huấn chuyên môn bản thân tôi mạnh dạn áp dụng tổ chức một số trò chơi
học tập trong giờ dạy môn Khoa học trong nhiều năm học và thấy không khí của
mỗi tiết học sôi nổi hẳn lên, đến giờ học các em không còn cảm thấy căng thẳng
mà rất háo hức, học sinh trong lớp hoạt động tích cực và đồng đều, các em mạnh
dạn trình bày ý kiến, nêu thắc mắc của mình,…từ đó các em tự tiếp thu kiến
thức và ghi nhớ một cách bền vững hơn, do đó mà kết quả học tập cũng được
nâng cao. Vì vậy, tôi chọn và tìm hiểu đề tài: “ Phát huy tính tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh thông qua phương pháp trò chơi học tập trong
môn Khoa học lớp 5 của học sinh lớp 5/3 trường Tiểu học Phan Đình
Phùng”
4.1 Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
Để dạy tốt môn Khoa học, người giáo viên cần biết phối kết hợp các
phương pháp dạy học như: Phương pháp quan sát, phương pháp thí nghiệm,
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp trò chơi học tập.Trong đó phương

pháp trò chơi học tập là một trong những phương pháp dạy học có hiệu quả
nhằm khuyến khích sự tò mò khoa học, hình thành thói quen đặt câu hỏi, tìm câu
giải thích khi các em được tiếp cận với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ
nội dung bài học. Hiểu được tầm quan trọng của phương pháp trò chơi học tập
nên tôi đã nghiên cứu và thực thi ở lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy và sau khi áp
dụng phương pháp này tôi nhận thấy có những ưu và nhược điểm sau:
* Ưu điểm:
- Được sự quan tâm và giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường tạo mọi
điều kiện thuận lợi để giáo viên an tâm giảng dạy.
- Chúng tôi được học tập và tiếp thu kĩ nội dung chương trình và phương
pháp dạy học mới.


3
- Đội ngũ giáo viên yêu nghề, mến học sinh, thường xuyên dự giờ học hỏi
kinh nghiệm từ các tiết chuyên đề trường, chuyên đề tổ và từ đồng nghiệp.
- Chương trình sách giáo khoa đa dạng, với nhiều nội dung hay và phong
phú phù hợp với đối tượng học sinh; mục tiêu, yêu cầu cần đạt rất rõ ràng theo
chuẩn kiến thức kĩ năng.
* Nhược điểm:
Khi sử dụng phương pháp trò chơi học tập sẽ gây ồn ào, mất trật tự ảnh
hưởng đến các hoạt động khác.
Trong 4 năm liên tiếp tôi đều được phân công giảng dạy lớp 5. Trong
những giờ dạy phân môn Khoa học của bản thân cũng như qua những lần dự giờ
đồng nghiệp tôi nhận thấy rằng khi các em tham gia trò chơi các em còn rất nhút
nhát, thiếu tự tin, đồ dùng mà giáo viên yêu cầu các em chuẩn bị thì không có…
Đây chính là hạn chế chủ yếu của các em học sinh ở nông thôn, vì sự hiểu biết,
vốn từ của các em không nhiều, các em ít có điều kiện tiếp xúc với tranh ảnh
sách báo.
Một số không ít học sinh và cha mẹ học sinh chưa nhận thức được vị trí,

tầm quan trọng của phân môn Khoa học cứ cho đó là môn phụ, không cần thiết.
Một số giáo viên khi sử dụng phương pháp trò chơi học tập lại chưa biết
lựa chọn nội dung bài dạy để vận dụng phương pháp dạy học cho hợp lý, hoặc
trò chơi đưa ra không có tác dụng thiết thực để phục vụ mục tiêu bài học nên
việc tổ chức trò chơi học tập chưa đạt hiệu quả.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện nay còn thiếu, chưa phù hợp, bàn ghế
sắp xếp cố định không có thời gian thay đổi, không gian nhỏ hẹp.
Ngay từ đầu năm học này, tôi tiến hành khảo sát môn Khoa học của lớp
mà tôi trực tiếp giảng dạy. Kết quả thu được như sau:
Lớp

Số học sinh khảo sát

5/3

29

Hứng thú với giờ học
Khoa học
6

Không hứng thú với
giờ học Khoa học
23

4.2 Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết:
- Cùng với sự hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, với các phương pháp dạy học
đang hiện hành, những giải pháp của tôi cũng đã đề cập đến sự chuẩn bị, các



4
bước tiến hành, hình thức tổ chức cho một trò chơi học tập đê tạo một không khí
vui vẻ thỏa mái cho mọi tiết học.
- Mặt khác, qua thời gian tìm tòi và thực thi tôi đã chỉ ra được một số bài
cụ thể để vận dụng phương pháp trò chơi học tập trong mỗi tiết học .
- Qua mỗi bài học, qua mỗi trò chơi tôi đã chỉ ra được mục tiêu của từng
trò chơi đó để vận dụng cho phù hợp nhằm giúp học hinh phát huy tính tích cực
và chủ động sáng tạo của mình.
- Học sinh năng nổ và linh hoạt hơn trong học tập và các hoạt động khác.
Các em mạnh dạn, nhanh nhẹn hơn.
- Luôn trang bị đầy đủ trang thiết bị và đồ dùng dạy học để đảm bảo đúng
yêu cầu cho tiết dạy, thường xuyên thay đổi phương pháp dạy học để tạo sự
hứng thú tránh sự nhàm chán cho học sinh.
4.3 Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng
giải pháp:
- Về phía nhà trường: đảm bảo cơ sở vật chất như phòng học, sách vở, và
các phương tiện, thiết bị khác phục vụ cho việc dạy và học.
- Về phía giáo viên:
+ Sử dụng đầy đủ các đồ dùng dạy học phong phú, đa dạng và phù hợp
cho môn học và phương pháp dạy học hợp lí cho từng bài học.
+ Trang trí phòng học thoáng mát, sinh động để gây sự hứng thú cho các em.
4.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
Từ những lợi ích của việc áp dụng trò chơi học tập vào trong dạy học nói
chung, phân môn Khoa học nói riêng và để nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh trong nhà trường, tôi đã thực thi giải pháp này như sau:
Thứ nhất là: Chọn thời gian vận dụng trò chơi hợp lí.
Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào trong giờ học, giáo viên phải biết
lựa chọn thời điểm nội dung bài cần áp dụng trò chơi cho thích hợp, cụ thể là:
* Sử dụng trò chơi vào đầu giờ học để kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới.

* Sử dụng trò chơi nhằm hình thành tri thức mới.
* Sử dụng trò chơi để hình thành kỹ năng.
* Sử dụng trò chơi nhằm củng cố tri thức, hình thành thái độ.
Thứ hai là: Lựa chọn nội dung tổ chức trò chơi phù hợp cho từng bài học.
Nội dung phải vừa sức học, phải đảm bảo đủ thông tin kiến thức mà học
sinh đã nắm được, không dễ quá và cũng không khó quá.


5
Nội dung cần phù hợp với cuộc sống thực tế của học sinh, giúp các em dễ
vận dụng vào thực tiễn. Nội dung trò chơi phải có tính khả thi, trò chơi đưa ra
phải phù hợp với thực tế trường, lớp.
Thứ ba là: Chọn cách tổ chức trò chơi có hiệu quả.
Trò chơi có thể tổ chức theo các bước sau:
Bước 1: Phổ biến trò chơi
+ Giáo viên giúp học sinh nắm vững trò chơi như: Tên trò chơi, nội dung,
cách chơi, cách phân thắng bại…
+ Giáo viên chọn một số học sinh tham gia trò chơi, bảo đảm qua các giờ
học, lần lượt học sinh được tham gia tất cả, đặc biệt chú ý những học sinh nhút
nhát, ít phát biểu.
Bước 2: Học sinh thực hiện trò chơi:
+ Các em thảo luận với nhau về việc thực hiện trò chơi.
+ Một nhóm học sinh thực hiện trò chơi trước lớp, cả lớp theo dõi.
+ Những em khác, nhóm khác có thể tiếp tục thực hiện trò chơi (đối với
trò chơi sắm vai thì có cách giải quyết khác).
Bước 3: Tổng kết, đánh giá:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đánh giá việc thực hiện trò chơi: trò chơi
có được thực hiện đúng quy tắc không, có phù hợp với nội dung bài học không,
có thể rút ra bài học gì qua trò chơi này? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung và
tuyên bố nhóm (hay cá nhân) thắng cuộc (nếu có).

Thứ tư là: Giúp học sinh xác định rõ mục đích của trò chơi.
Trước khi tổ chức cho học sinh tham gia chơi, giáo viên cần giúp học sinh
hiểu: Qua trò chơi, các em sẽ tìm được những kiến thức gì, củng cố hay khắc
sâu, hệ thống được những kiến thức gì?
Phần lớn trò chơi học tập trong môn Khoa học lớp 5 ở hai dạng kiến thức:
chơi để khám phá, hình thành kiến thức mới và chơi để củng cố, hệ thống hoá
kiến thức đã học. Cụ thể như sau:
a/ Trò chơi để hình thành kiến thức mới.

Tiết-trang

Tên trò chơi

Mục đích trò chơi

T1-trang4

Bé là con ai?

T2,3-trang6

Ai nhanh, ai đúng?

Học sinh nhận ra, mỗi trẻ em đều có
những đặc điểm giống bố, mẹ mình.
Học sinh biết phân biệt đặc điểm về mặt
sinh học và xã hội của nam và nữ.


6

T6-trang 14

Ai nhanh, ai đúng?

Học sinh hiểu 1 số đặc điểm chung của
trẻ ở từng giai đoạn từ 3 đến 10 tuổi.

T11-trang 30

Ai nhanh, ai đúng?

Học sinh biết tác nhân gây bệnh, sự
nguy hiểm của bệnh viêm não.

T16-trang 34

Ai nhanh, ai đúng?

Học sinh giải thích được HIV, AIDS là
gì? các đường lây bệnh HIV,

T17-trang36

HIV lây hay không
lây?

Học sinh biết các hành vi tiếp xúc thông
thường không lây HIV.

T35-trang 72


Ai nhanh, ai đúng?

Học sinh biết đặc điểm của chất rắn chất lỏng - chất khí.

T36-trang 74

Nhà khoa học trẻ

Học sinh biết các phương pháp tách các
chất ra khỏi hỗn hợp.
Học sinh biết phương pháp sản xuất
muối từ nước biển, sản xuất nước cất
tiêm .
Học sinh biết vai trò của nhiệt trong
biến đổi hoá học.

T37-trang77

Đố bạn

T38,39-trang
78

Bức thư bí mật

T55-trang
112

Ghép chữ


Học sinh biết đặc điểm bên ngoài của
động vật đẻ con, động vật đẻ trứng.

T57-trang
116

Bắt trước tiếng kêu

Học sinh biết thời gian, địa điểm sinh
sản của ếch.

b/ Trò chơi để củng cố hoá kiến thức

Tiết – trang
T7-trang 16

Tên trò chơi
Ai, đang ở giai đoạn
nào?
T9,10-trang20 Chiếc ghế nguy hiểm
T11-trang24

Ai nhanh, ai đúng?

T18-trang 38

ứng xử khôn khéo

T20,21trang42

T34-trang 68

Ai nhanh, ai đúng?
Ô chữ kì diệu

Mục đích của trò chơi
Củng cố hiểu biết về lứa tuổi vị thành
niên, tuổi trưởng thành, tuổi già.
Thực hành để củng cố sự hiểu biết về
tác hại của chất gây nghiện.
Củng cố về giá trị dinh dưỡng của thuốc
và cách sử dụng thuốc an toàn.
Học sinh biết cách ứng xử khi bị xâm
hại.
Củng cố cách phòng tránh 1 số bệnh
thường gặp đã học.
Củng cố kiến thức về chủ đề:Con
người và sức khoẻ.


7
T49,50trang100
T52-trang106
T63-trang130

Ai nhanh, ai đúng?

T63-trang133

Ai nhanh,ai đúng?


Hệ thống kiến thức về môi trường.

T69-trang142

Chữ gì?

Củng cố kiến thức có liên quan đến sự
ô nhiễm môi trường.

Ghép chữ
Ai nhanh, ai đúng?

Củng cố về tính chất 1 số vật liệu và sự
biến đổi hoá học.
Củng cố về sự sinh sản ở thực vật có hoa.
Hệ thống 1 số nguồn tài nguyên và tác
dụng của chúng.

- Cách nêu mục tiêu của trò chơi, giáo viên cần đưa ra một cách khéo léo,
hấp dẫn, có tính chất gợi mở để tạo sự tò mò khám phá cho học sinh.
- Sau khi các em đã hiểu được mục đích của trò chơi, thấy được sự hấp dẫn
của trò chơi các em sẽ chủ động tham gia chơi mà không cần giáo viên ép buộc. Để
có được điều đó, giáo viên cần xây dựng trò chơi học tập sao cho hợp lý; hợp lý về
thời gian về hình thức chơi; về luật chơi và về hình thức khen thưởng .
Thứ năm là: Nắm được yêu cầu đối với người giáo viên trong việc
soạn giảng.
- Đảm bảo phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh.
- Đảm bảo tổ chức trò chơi tự nhiên, không có tính ép buộc.
- Đảm bảo luân phiên các trò chơi một cách hợp lý.

- Đảm bảo tổ chức trò chơi với tinh thần thi đua đồng đội.
Thứ sáu là: Nắm yêu cầu, mục đích của từng bài, từng chương trong
phân môn Khoa học lớp 5.
Ngay từ đầu năm học, để vận dụng tốt trò chơi vào môn học, tôi đã xem
trước nội dung sách giáo khoa, lựa chọn bài, chương và xếp chúng theo nhóm
thích hợp để đưa trò chơi vào cho hợp lý. Phân môn Khoa học lớp 5 được tôi
phân thành 4 nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất: Năng lượng.
Bao gồm các bài học về các chất thường dùng và một số năng lượng sử
dụng trong cuộc sống. Tôi lựa chọn trò chơi: Chơi với đồ vật; Tiếp sức; Tinh mắt
nhanh tay…
- Nhóm thứ hai: Sự sinh sản của động vật và thực vật.
Bao gồm các bài học về sự sinh sản của thực vật có hoa và một số loài
động vật. Tôi chọn trò chơi: Hoa nào đẹp?; Loài vật nào?; Đố bạn con gì; Sống
ở đâu?
- Nhóm thứ ba: Con người và sức khỏe.


8
Bao gồm các bài các bài học về sự sinh sản và lớn lên của cơ thể người.
Tôi chọn trò chơi: Đi chợ giỏi; Ai cao, ai thấp; Cơ thể của chúng ta; Bác sĩ của
em; Ai sai, ai đúng? ….
- Nhóm thứ tư: Con người và môi trường.
Bao gồm các bài về môi trường và ảnh hưởng của con người đến môi
trường. Tôi chọn các trò chơi: Em là tuyên truyền viên; Chí lớn gặp nhau; Tiếp
sức; Ai vẽ đẹp?…
Thứ bảy là: Phân loại trò chơi
Để vận dụng tốt trò chơi vào bài học, tôi đã sưu tầm các trò chơi có trong
sách tham khảo và trò chơi được lưu truyền và xếp chúng theo hai nhóm:
- Trò chơi phục vụ cho ở phần củng cố: hái hoa dân chủ, đố bạn, chí lớn

gặp nhau, em là truyền viên của lớp, sắm vai...
- Trò chơi phục vụ cho những hoạt động của từng nhóm bài: Ai cao, ai
thấp?, Đố bạn hoa gì? Đố bạn con gì?, Tiếp sức. (Dùng cho các bài trong
chương Năng luợng), Nên hay không nên (Các bài về con người và môi trường)

Thứ tám là: Vận dụng vào bài học để phát huy tính tích cực của học sinh.
Như trên đã nêu, đa số giáo viên còn lúng túng trong việc phải vận dụng
trò chơi vào bài học như thế nào cho phù hợp. Bản thân tôi nhận thấy, muốn
thực hiện được điều đó, trước hết cần làm tốt việc thiết kế bài dạy. Vì trong quá
trình thiết kế bài giáo viên chủ động về các hoạt động, nắm vững mục tiêu, lựa
chọn phương pháp, từ đó giáo viên sẽ định hướng được cách vận dụng trò chơi
vào hoạt động nào cho phù hợp với bài học. Trước khi lựa chọn trò chơi cho bài
học của mình, tôi thực hiện các bước sau:
Bước 1: Phân tích yêu cầu của trò chơi.
Bước 2: Chọn lựa trò chơi để phân tích khả năng giáo dục của nó đối với
bài học.
Bước 3: Đối chiếu nội dung và khả năng giáo dục của trò chơi xem có phù
hợp với hoạt động nào thì lựa chọn, nếu không phù hợp thì lựa chọn lại.
Bước 4: Thiết kế trò chơi đó vào giáo án.
Bước 5: Chuẩn bị thực hiện “giáo án”: chuẩn bị phương tiện, phân công
cho học sinh chuẩn bị.
Thứ chín là: Nắm được cách xây dựng trò chơi học tập.
Giáo viên có thể tổ chức 1 hoạt động học tập thành 1 trò chơi học tập khi
đã có đủ các điều kiện sau:
- Về đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho trò chơi.


9
- Về thời gian, thời điểm chơi, không gian chơi.
- Có cách chơi, luật chơi rõ ràng.

- Có cách tính điểm để phân định “thắng- thua”, khen thưởng…
Các yếu tố đó là sự chuẩn bị cụ thể chu đáo của giáo viên, góp phần quyết
định sự thành công hay không của trò chơi.
a/ Sự chuẩn bị đồ dùng học tập cho học sinh tham gia trò chơi.
Để thực hiện tốt trò chơi học tập trong dạy học nói chung và trong môn
khoa học nói riêng thì trước hết người giáo viên phải xác định được là trò chơi
này cần đến những đồ dùng nào? dụng cụ nào? phương tiện nào? Từ đó, giáo
viên dành thời gian để chuẩn bị:
- Bộ thẻ chữ.
- Bảng từ: Những tấm thẻ chữ, giáo viên không cần làm cầu kì, không có
dấu hiệu phân biệt ở 2 hành vi khác nhau, nhưng chữ viết phải rõ ràng, phía sau
thẻ có gắn nam châm để học sinh gắn thẻ lên bảng lớp một cách dễ dàng.
- Tranh câm: Với tranh câm giáo viên cần vẽ đúng các bộ phận của vật.
Các bộ phận phải rõ nét, phân biệt bằng màu sắc cụ thể, đảm bảo tính khoa học
và thẩm mỹ cho bức tranh.
* Sự chuẩn bị chu đáo, hấp dẫn sẽ tạo niềm hứng khởi, thu hút học sinh
tham gia. Sự rõ ràng, khoa học sẽ giúp các em dễ tìm hiểu, dễ nhận biết kiến
thức, nhiệm vụ của bản thân trong quá trình tham gia chơi. Sự chuẩn bị cho một
trò chơi không nhất thiết phải quá cầu kì, đôi khi còn dễ tìm, dễ kiếm.
Với sự chuẩn bị như vậy, giáo viên sẽ khuyến khích các em tham gia vào
trò chơi một cách sôi nổi và nhiệt tình, tạo cho các em một tinh thần học tập vui
vẻ và thoải mái ở những tiết học khác..
b/ Xác định thời gian, thời điểm diễn ra trò chơi.
Để xác định thời gian, thời điểm diễn ra trò chơi, giáo viên cần đọc kĩ
mục tiêu tiết dạy, mục tiêu của trò chơi để phân bố thời gian cho hợp lý.
Ở những trò chơi hình thành kiến thức mới, hoạt động này được diễn ra
đầu tiết học hoặc đầu một phần nội dung bài học. Những trò chơi để củng cố nội
dung kiến thức đã học thường diễn ra cuối tiết học hoặc cuối một phần nội dung
vừa học. Tuy nhiên, trò chơi diễn ra vào thời điểm nào, giáo viên cũng cần xác
định thời gian cho hợp lý, không để ảnh hưởng đến thời gian của tiết học hoặc

thời gian của tiết học khác.
* Ví dụ :
- Trò chơi: “Ai nhanh, ai đúng?” (Tiết 14- trang 30 ), đây là hoạt động đầu
tiên của tiết học, cũng là một hoạt động chính giúp học sinh hiểu được:


10
+ Tác nhân gây bệnh viêm não.
+ Tác hại của bệnh viên não.
+ Lứa tuổi hay mắc bệnh viêm não.
+ Đường lây truyền bệnh viêm não.
Bởi vậy, giáo viên cần dành từ 15-17 phút để học sinh có đủ thời gian để
đọc các thông tin trong sách giáo khoa, thảo luận rồi lựa chọn đáp án đúng. Đáp
án đúng chính là những kiến thức mới mà các em đã tự tìm hiểu, khám phá cho
bản thân.
- Trò chơi: Ghép chữ (Tiết 52-trang 106 ), đây là trò chơi có mục đích để
củng cố kiến thức vừa học ở hoạt động trên, vì vậy giáo viên không cần quá
nhiều thời gian cho trò chơi, sẽ gây ảnh hưởng đến các hoạt động khác, chỉ cần
từ 5-7 phút, đủ để học sinh đọc nhanh nội dung ghi trên các tấm bìa rồi gắn vào:
Sơ đồ nhị và nhụy của hoa.
- Việc chuẩn bị chu đáo sẽ giúp cho giáo viên tự tin, chủ động trong tiết
dạy. Bởi vậy ngoài việc chuẩn bị về đồ dùng dụng cụ, xác định thời gian, thời
điểm cho hợp lý giáo viên cần xác định địa điểm, số lượng học sinh tham gia
chơi cho mỗi trò chơi để phù hợp cả về không gian, thời gian, phù hợp với cả 3
đối tượng học sinh.
c/ Địa diểm và đối tượng học sinh tham gia chơi.
Phần lớn các trò chơi được diễn ra trong lớp học. Tuy vậy, với mỗi trò
chơi cũng cần có khoảng không gian chơi cho phù hợp.
* Ví dụ:
- Những trò chơi để hình thành kiến thức mới, thường tất cả các học sinh

được tham gia chơi, do vậy các em có thể ngồi ngay trong bàn học theo từng đội
chơi , như trò chơi: Ai nhanh, ai đúng? (Tiết 16-trang 33 ). Hay trò chơi: Chiếc
ghế nguy hiểm (Tiết 20 – trang 23), mặc dù đây là trò chơi để củng cố nội dung
nhưng tất cả học sinh cần được tham gia, các em cần xếp thành hàng dọc để lần
lượt đi qua chiếc ghế nguy hiểm. Bởi vậy, nếu trời không mưa, các em sẽ xếp
hàng ngoài sân rồi lần lượt đi qua chiếc ghế vào lớp. Nếu trời mưa, giáo viên
cần sắp xếp bàn ghế gọn gàng để học sinh xếp hàng trong lớp.
Những chuẩn bị này, dù là rất nhỏ nhưng giáo viên cũng cần để ý tới để
chủ động trong mọi tình huống.
Khi sự chuẩn bị đã chu đáo, giáo viên sẽ tổ chức trò chơi học tập cho các
em tham gia sao cho học sinh hào hứng làm việc và thu được kết quả tốt, đó là
điều hết sức quan trọng.
Thứ mười là: Tiến hành tổ chức Trò chơi học tập.


11
Với mỗi trò chơi giáo viên cần tiến hành qua 3 bước sau:
Bước1:
Giáo viên nêu mục đích và hướng dẫn cách chơi, luật chơi.
- Tên trò chơi hấp dẫn, dễ hiểu sẽ lôi cuốn các em tham gia chơi.
+ Ví dụ: “ Chiếc ghế nguy hiểm”; “ Bức thư bí mật”; “ Ô chữ kì diệu”…
- Mục đích trò chơi sẽ giúp các em định hình được mình tham gia chơi để
làm gì? mình sẽ tìm thấy kiến thức gì qua trò chơi này?...từ đó học sinh xác định
nhiệm vụ của bản thân trong khi chơi.
- Hướng dẫn cách chơi cụ thể giúp các em hiểu được từng bước hoạt động
mà mình phải tiến hành.
- Luật chơi rõ ràng giúp các em chơi tích cực, tự giác.
- Hình thức “thưởng- phạt” sẽ là động cơ thúc đẩy sự cố gắng của mình.
Bước2:
Học sinh tham gia chơi.( Học sinh có thể chơi thử nếu cần thiết)

Khi các em đã hiểu rõ mục đích, cách chơi và luật chơi, các em sẽ tham
gia trò chơi một cách chủ động, tự tin, hào hứng. Ở bước này học sinh là người
quyết định cho kết quả của trò chơi, do vậy các em phải làm việc tích cực, tuy
nhiên ở một số trò chơi học sinh vẫn cần có sự giúp đỡ của giáo viên hoặc sự tán
thưởng của bạn. Ở những trò chơi hình thành kiến thức mới, giáo viên cần quan
sát, nhắc nhở, giúp đỡ các em nếu các em còn lúng túng. Đối với trò chơi củng
cố nội dung vừa học, bè bạn cũng cần có sự động viên bằng những tràng vỗ tay,
( nhưng không quá ồn ào tránh ảnh hưởng đến lớp khác).
Bước 3:
Nhận xét, đánh giá.
Đây là bước thu hoạch của cả một quá trình chuẩn bị và làm việc ở trên.
Bởi vậy, giáo viên không được coi nhẹ bước này. Sau khi các đội chơi đã hoàn
thành, giáo viên hoặc trọng tại sẽ để phân định “thắng-thua” và quan trọng hơn
là kết luận được rút ra để hình thành kiến thức mới hoặc để nhấn mạnh, khắc sâu
kiến thức đã học.
- Học sinh (đại diện của đội chơi) báo cáo kết quả.
- Trọng tài đánh giá, phân định “thắng-thua’’- tuyên dương đội thắng cuộc.
- Em học tập được gì qua trò chơi?
* Ví dụ:
Trò chơi: Ai nhanh, ai đúng? (Tiết 14 – trang 30):
Bước 1:
Giáo viên giới thiệu :


12
- Viêm não là một loại bệnh hết sức nguy hiểm. Nguyên nhân gây bệnh là
gì? lứa tuổi nào hay mắc bệnh? Bệnh nguy hiểm như thế nào? Các em sẽ khám
phá qua trò chơi: “Ai nhanh, ai đúng?”.
- Mỗi tổ thành một đội chơi, các em sẽ cử đội trưởng cho đội mình.
- Các em sẽ đọc thông tin trong sách giáo khoa trang 20, bàn bạc trong đội

để chọn câu trả lời tương ứng với từng câu hỏi. Sau khi cả đội thống nhất, đội
trưởng sẽ ghi đáp án theo thứ tự câu hỏi vào bảng phụ.
- Sau 7 phút đội nào có đáp án gắn lên bảng lớp nhanh nhất và đúng nhất
là thắng cuộc, đội thắng cuộc sẽ được nhận một phần thưởng xứng đáng.
Bước 2:
Học sinh hoạt động theo các yêu cầu trên.
Giáo viên quan sát, nhắc nhở học sinh (nếu học sinh còn lúng túng).
Bước 3:
Nhận xết, đánh giá.
- Đội trưởng báo cáo kết quả. Mỗi đội có thể trả lời thêm 1 số câu hỏi mà
trọng tài đưa ra:
+ Vì sao từ 3-5 tuổi hay mắc bệnh viêm não?
+ Bệnh viêm não nguy hiểm như thế nào?
- Trọng tài phân định “thắng – thua”, thưởng cho đội thắng một tràng pháo tay.
- Em rút ra được kiến thức gì qua trò chơi này?
Với cách tiến hành như trên, các em sẽ chủ động tìm tòi và phát hiện kiến
thức mới cho bài học, hình thành kiến thức cho bản thân.
Các học sinh đang tham gia chơi trò chơi ai nhanh ai đúng.
4.5 Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Đề tài này được áp dụng với học sinh lớp tôi, vì những biện pháp tôi đưa ra
hoàn toàn phù hợp với nội dung dạy học năm học 2019-2020, vừa sức với học sinh
cũng như giáo viên có thể áp dụng phương pháp này một cách dễ dàng, linh hoạt.
Có khả năng áp dụng thực tiễn, có thể áp dụng một cách dễ dàng và đại trà
trong nhà trường Tiểu học, vì hoạt động trò chơi được tổ chức theo từng tiết học
trong phân môn Khoa học để gây sự hứng thú cho học sinh.
5- Những thông tin cần được bảo mật: Không có.
6- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:



13
Sau khi thực hiện các biện pháp trên vào việc vận dụng trò chơi học tập
trong phân môn Khoa học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, tôi
nhận thấy:
- Học sinh học tập tích cực hơn, nhanh hiểu bài và hiểu bài sâu hơn.
- Lớp học sôi nổi, hoà đồng, những học sinh trước đây còn rụt rè thì nay
đã tích cực tham gia trò chơi.
- Khả năng nói của các em cũng được phát triển, học sinh nói lưu loát
hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
- Các em rất thích các trò chơi trong phân môn Khoa học mà giáo viên
đưa ra, phối hợp rất tích cực với các bạn trong khi chơi.
- Từ đó, các em say mê, ham học trong những phân môn khác. Ý thức tự
giác của các em ngày càng được nâng dần.
- Kết quả đạt được của học sinh lớp 5/3 khi tham gia vào quá trình học tập
như sau:
Học sinh học tập Học sinh thích học
Tính rụt rè
Số
tích cực nhanh
nhưng kết quả
Thời gian
nhút nhát
lượng
nhẹn hơn
chưa cao
SL
TL
SL
TL
SL TL

Đầu tháng
29
3
10,3%
9
31,1%
17 58,6
9/2019
%
Cuối tháng
1/2020

29

17

58,6%

7

24,1%

5

17,3
%

* Về phía bản thân tôi, tôi cảm thấy tiết học nhẹ nhàng hơn và ít đơn điệu
khi truyền thụ kiến thức tới học sinh vì các em tiếp nhận kiến thức một cách chủ
động, tích cực thông qua trò chơi. Kỹ năng vận dụng trò chơi của tôi linh hoạt

hơn, thành thạo hơn. Tôi có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn và tổ chức
trò chơi hơn, đảm bảo kiến thức và kỹ năng bài học cho học sinh.
Tôi thấy rất vui, khi học sinh của mình có tiến bộ không những về kiến
thức mà các em còn trở nên vui vẻ, nhanh nhẹn, cởi mở, khéo léo…trong hoạt
động và trong giao tiếp, đáp ứng đúng mục tiêu: Giáo dục toàn diện cho học sinh
ngay từ bậc học đầu tiên mà Bộ GD và ĐT đã đề ra.
7- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu, kể cả áp dụng thử:


14
Việc phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh thông qua
phương pháp trò chơi học tập trong môn Khoa học cho học sinh lớp 5 được thực
hiện với biện pháp trên thì chất lượng học sinh sẽ dần dần được nâng cao; các
em tự tin, mạnh dạn và hứng thú hơn trong mỗi tiết học.



×