Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Phương thức láy trong tiếng tày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
==========

HÀ THỊ BẠCH

PHƯƠNG THỨC LÁY TRONG
TIẾNG TÀY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
==========

HÀ THỊ BẠCH

NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
NGUYỄN XUÂN KHÁNH

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Lịch sử nghiên cứu

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

7

5. Phương pháp nghiên cứu

8


6. Đóng góp mới

9

7. Bố cục của luận văn

9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

11

1.1. Khái niệm về từ và hình vị

11

1.2. Nghĩa của từ và hình vị

16

1.3. Cấu tạo từ

19

1.4. Dân tộc Tày và tiếng Tày

31

TIỂU KẾT


43

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG THỨC LÁY TRONG TIẾNG TÀY

44

2.1. Điều kiện chung của phương thức láy

44

2.2. Sự hoạt động của phương thức láy trong tiếng Tày

45

TIỂU KẾT

CHƯƠNG3: SỰ SỬ DỤNG TỪ LÁY TRONG “TRUYỆN

59
61

KIỀU” - BẢN DỊCH TIẾNG TÀY
3.1.Vài nét về Nguyễn Du và “Truyện Kiều”, về dịch giả và bản dịch

61

3.2. Từ láy tiếng Tày trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày

68


TIỂU KẾT

88

KẾT LUẬN

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

PHỤ LỤC

95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Phụ lục 1: Danh sách các từ láy tiếng Tày được sưu tập
Phụ lục 2: Danh sách các từ láy trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng 102
Tày
Phụ lục 3: Trang bìa và một số trang của “Truyện Kiều” - bản dịch 115
tiếng Tày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

 Trong số các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, dân tộc Tày là một cộng
đồng tộc ngƣời có số dân đông nhất - khoảng 1,5 triệu ngƣời (theo thống kê
năm 1989), đứng thứ 2 sau ngƣời Kinh. Địa bàn cƣ trú của ngƣời Tày thƣờng
tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc của Tổ quốc nhƣ Cao Bằng, Lạng Sơn,
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn... Từ năm 1954 và nhất là sau năm
1975, có một bộ phận ngƣời Tày di cƣ vào các tỉnh phía Nam nhƣ Lâm Đồng,
Đắc Lắc, Kon Tum...
Đối với mỗi ngƣời Tày, tiếng Tày là tiếng mẹ đẻ, là ngôn ngữ thứ nhất
trong cộng đồng mình. Đó là công cụ giao tiếp và tƣ duy quan trọng nhất,
thân thiết nhất, giúp ngƣời Tày gần gũi và cố kết với nhau trong một cộng
đồng dân tộc. Đây cũng là phƣơng tiện để bảo tồn và phát triển nhiều hình
thái văn hóa quan trọng khác của dân tộc Tày. Chính vì vậy, ngƣời Tày mong
muốn con em mình sẽ không quên tiếng nói ông cha mình, phải nắm đƣợc và
sử dụng tiếng Tày thuần thục trong đời sống. Mong muốn này chỉ đƣợc thực
hiện với sự tìm hiểu kĩ lƣỡng về tiếng Tày trên mọi phƣơng diện, trong đó có
các phƣơng thức cấu tạo từ.
 Trƣớc thực tế nói trên, đồng thời nhằm giữ gìn và phát triển ngôn ngữ
các dân tộc, sử dụng các ngôn ngữ này tốt hơn trong đời sống, sau quyết định
53/CP (2/ 1980), Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Chỉ thị 38/ 2004/ CT -TTg (ngày
09/ 11/ 2004), yêu cầu cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc thiểu số và
miền núi phải biết và sử dụng đƣợc tiếng nói của đồng bào ở các tỉnh có đồng
bào dân tộc thiểu số (trong đó có các tỉnh Thái nguyên, Cao Bằng, Bắc Cạn,
Bắc Giang …là nơi cƣ trú của đồng bào Tày), yêu cầu phải tổ chức dạy và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1


học tiếng dân tộc thiểu số đối với đối tƣợng trên. Một trong những ngôn ngữ
đƣợc chú ý trong dạy và học này là tiếng Tày.
Để việc dạy và học tiếng Tày đạt hiệu quả, ngoài chƣơng trình, phƣơng
pháp dạy và học, thì còn cần có sự hiểu biết sâu sắc về tiếng Tày ở nhiều mặt
khác nhau. Một trong số các khía cạnh cần đƣợc nghiên cứu tìm hiểu, là làm
rõ đặc điểm các phƣơng thức cấu tạo từ của tiếng Tày. Trong số các phƣơng
thức cấu tạo từ của tiếng Tày có phƣơng thức láy.
 Là ngƣời con của dân tộc Tày, tác giả luận văn luôn tha thiết với tiếng
nói và văn hoá của dân tộc mình, muốn bày tỏ tình yêu dân tộc và tiếng mẹ đẻ
của mình bằng việc tìm hiểu về tiếng Tày nói chung và phƣơng thức láy trong
tiếng Tày nói riêng. Tác giả xem đây là cơ hội để đƣợc tìm hiểu đầy đủ và sâu
sắc hơn về tiếng nói dân tộc mình, nhằm góp phần giới thiệu, tôn vinh tiếng
mẹ đẻ, đồng thời góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phƣơng, đem
lí luận khoa học phục vụ đời sống xã hội. Đó là những lí do để tác giả chọn “
Phương thức láy trong tiếng Tày” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn này.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
2.1. Về hiện tƣợng láy nói chung
“Láy” là một phƣơng thức cấu tạo từ quan trọng và là một hiện tƣợng ngôn
ngữ phức tạp, đa dạng. Lịch sử ngôn ngữ học cho thấy nhiều cách tiếp cận,
nhiều cách nhìn khác nhau đối với hiện tƣợng này. Có thể kể đến tên tuổi các
nhà nghiên cứu nhƣ: A.G. Haudricourt, M.B Emneau, A.N. Barinova, Hoàng
Văn Hành, Đào Thản, Nguyễn Phú Phong …
Ở Việt Nam sự nghiên cứu về láy, chủ yếu đƣợc dành cho tiếng Việt.
Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, từ láy chiếm một số lƣợng khá lớn. Mấy

thập kỉ qua, từ láy tiếng Việt luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài bởi tính đa dạng và phức tạp nhƣng
cũng đầy lí thú của nó. Đối với các sáng tác văn chƣơng bằng tiếng Việt, sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



2


sử dụng các từ láy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi giá trị tƣợng thanh,
tƣợng hình, cũng nhƣ giá trị biểu cảm rõ rệt.
Trong cuốn “Hoạt động của từ tiếng Việt” (1978), tác giả Đái Xuân Ninh
cho rằng: cách láy tiếng Việt xuất hiện từ thế kỷ thứ XVII sau khi hệ thống
thanh điệu đƣợc hình thành. Nhờ có hệ thống thanh điệu phong phú của tiếng
Việt nên phép láy dễ dàng phát triển. Nó phát triển đỉnh cao ở thế kỷ XVII XVIII trong nhiều tác phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm của nền văn học cổ
điển Việt Nam nhƣ: “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), “Chinh phụ ngâm” (Đoàn
Thị Điểm), “Cung oán ngâm khúc” (Nguyễn Gia Thiều), “Thơ Nôm truyền
tụng Hồ Xuân Hƣơng ”… Đến giai đoạn sau, cách láy phát triển với nhịp độ
chậm hơn, nhƣờng bƣớc cho các phƣơng pháp tạo từ mới đáp ứng sự phát
triển của khoa học kĩ thuật, phù hợp với cách biểu đạt những khái niệm chính
xác là cách ghép. Tuy nhiên, cho đến nay láy vẫn là một phƣơng pháp cấu tạo
từ cơ bản và có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các giá trị về nghĩa…
Khi nghiên cứu về “láy”, các tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn,
Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Đái Xuân Ninh, Hà Quang Năng, Hoàng Cao
Cƣơng, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Phi Tuyết Hinh, Đào Thản,
Nguyễn Thị Hai, Nguyễn Đức Tồn … đã rất chú ý đến các đặc điểm chung
của cách láy nhƣ: đặc điểm cấu tạo, đặc trƣng ngữ nghĩa, giá trị biểu trƣng,
giá trị gợi tả âm thanh, giá trị biểu cảm của từ láy.
Những công trình nghiên cứu về từ láy trong các ngôn ngữ ở Việt Nam,

bao gồm các sách nghiên cứu về tiếng Việt nói chung trong đó có từ láy,
những chuyên khảo, tập bài, các bài nghiên cứu và luận án khoa học về từ láy
trong tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Đó là: Cách xử lý những
hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ của Đỗ Hữu Châu trong tạp chí Ngôn
ngữ số 1, 1971; Từ láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành (Nxb Khoa học
xã hội, 1985); Về một hiện tượng láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



3


đăng trong tạp chí Ngôn ngữ số 2, 1979; Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt
hiện đại của Hồ Lê (Nxb Khoa học xã hội, 1976); Về từ lấp láy của văn
học thế kỉ XVII, đăng trong cuốn “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về
mặt từ ngữ” tập 2 (Nxb Khoa học xã hội, 1981); Các bài viết: Vấn đề từ
láy trong tiếng Việt của Hà Quang Năng; Từ láy đôi trong tiếng Mường
của Hoàng Văn Hành; Phương thức láy trong tiếng Kơho của Tạ Văn
Thông; Từ láy Bru – Vân kiều của Hồ Xuân Kiểu; Một số vấn đề về từ láy
tiếng Ê đê của Phan Văn Phức, in trong cuốn Từ láy những vấn đề còn bỏ
ngỏ (Nxb Khoa học xã hội, 1988) … và một số đề tài nghiên cứu về từ láy
trong các luận văn, luận án.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên đã khảo sát, miêu tả để
tìm ra các quy luật cấu tạo và giá trị của “láy” trong ngôn ngữ, chủ yếu trên
cơ sở tiếng Việt và một số ít là trên tƣ liệu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số.
Đây chính là cơ sở lí luận, là nguồn tƣ liệu quí giá, là tiền đề khoa học cho
việc tiếp tục nghiên cứu về từ láy trong tiếng Tày.
2. 2. Về tiếng Tày và phƣơng thức láy trong tiếng Tày
 Các nghiên cứu về tiếng nói, chữ viết Tày

Tiếng Tày đã và đang thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Đã có không ít các công trình nghiên cứu của các tác giả về tiếng Tày
nhƣ: Tác giả Lạc Dƣơng có bài viết “Tính phong phú của tiếng Tày - Nùng”
in trên báo Việt Nam độc lập, năm 1969; Tác giả Nguyễn Hàm Dƣơng có bài
viết “Xây dựng và phát triển hệ thống từ vựng Tày - Nùng” in trên báo Việt
Nam độc lập, năm 1969; “Quan hệ giữa tiếng Tày Nùng và tiếng Việt về vấn
đề ngôn ngữ”, đăng trong tạp chí Việt Nam độc lập, số 17, năm 1969; “Ngôn
ngữ Tày Nùng” và “ Các chức năng xã hội của tiếng Tày Nùng”, đăng trong
tạp chí Ngôn ngữ, số 1 năm 1970. Nguyễn Thiện Giáp, với bài “ Hiện tƣợng
từ mƣợn trong tiếng Tày Nùng”, đăng trong tạp chí Việt Nam độc lập, ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



4


5/3 năm 1970; “Cách làm giàu vốn từ vựng Tày Nùng”, đăng trong tạp chí
Việt Nam độc lập, ngày 12 tháng 3 năm 1970. “Một vài ý kiến về các từ
mƣợn trong tiếng Tày - Nùng”; “Vài nét về sự phát triển của tiếng Tày - Nùng
sau Cách mạng tháng tám”, của các tác giả Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo in
trên tạp chí Ngôn ngữ, năm 1970; Đoàn Thiện Thuật, với bài "Hệ thống ngữ
âm tiếng Tày - Nùng", trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam, tập I, Viện Ngôn ngữ học, 1972; Các tác giả Hoàng Văn Ma - Hoàng
Văn Sán -Mông Ký Slay, Sách học tiếng Tày Nùng, Nxb VHDT, HN, 2002;
Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí, Ngữ pháp tiếng Tày - Nùng, Nxb
Khoa học xã hội, HN, 1971; Nguyễn Minh Thuyết, Lƣơng Bèn, Nguyễn Văn
Chiến, Góp ý về việc cải tiến chữ Tày - Nùng, Ngôn ngữ, số 2, HN, 1971;
Cung Văn Lƣợc, Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ Việt Nôm,
Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, HN, 1992; Lƣơng Bèn, Tình hình phát triển

của chữ Tày - Nùng, trong: Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam,
Nxb KHXH, HN, 1993; Slon phuối Tày (dùng cho cán bộ công tác tại vùng
dân tộc), TN, 2007; Hoàng Văn Ma, Vấn đề tiếng và chữ Tày - Nùng, trong
Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, HN. 1993;
Nguyễn Thị Lƣơng, Tiếng Tày ở Na Hang, Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Tổng hợp, HN, 1994; Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Từ điển Việt - Tày Nùng”, “Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb Từ điển bách khoa, HN, 2005...
Điểm lại các công trình nghiên cứu trên cho thấy các tác giả đã tập
trung chú ý đến một số khía cạnh cụ thể của tiếng Tày nhƣ: nguồn gốc lịch sử;
vị trí của tiếng Tày; mối quan hệ giữa tiếng Tày - Nùng với nhau và với tiếng
Việt; các chức năng xã hội của tiếng Tày; tính đa dạng ở các địa phƣơng của
tiếng Tày Nùng; về tình hình từ mƣợn trong tiếng Tày Nùng; sự phát triển về
vốn từ; về nghĩa của từ tiếng Tày Nùng sau Cách mạng Tháng Tám; hệ thống
ngữ âm, chữ viết và xây dựng quy tắc chính tả; miêu tả ngữ pháp và biên soạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



5


các từ điển đối chiếu song ngữ; giới thiệu những nét khái quát về tiếng Tày ở
các khía cạnh: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; nghiên cứu về sự tƣơng ứng ngữ
âm giữa những từ tiếng Tày và tiếng Việt, từ đó góp phần làm sáng tỏ quá
trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ…
Về chữ viết, các nhà nghiên cứu cho biết: Ở giai đoạn Cổ đại ngƣời Tày
chƣa có chữ viết. Đến giai đoạn Cận đại có sự xuất hiện của chữ Nôm Tày.
Điều này đƣợc minh chứng bằng các truyện thơ Nôm in trong Tổng tập truyện
thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb KHXH, nhƣ: “Bioóc Lả ” do
Hoàng Triều Ân giới thiệu - phiên âm - dịch nghĩa - chú giải, in năm 2008,
Nxb KHXH, HN; “ Nho Hương”, “Chiêu Đức” do Hoàng Triều Ân - Hoàng

Quyết giới thiệu - phiên âm - dịch nghĩa - chú giải, in năm 2008, Nxb KHXH,
HN; “ Lý Thế Khanh”, “Nhân Lăng” do Hoàng Triều Ân - Hoàng Quyết phiên
âm - dịch nghĩa - chú thích, in năm 2008, Nxb KHXH, HN; “Toọng Tương”
do Trần Thu Hƣờng giới thiệu - phiên âm - dịch nghĩa - chú giải, in năm
2008, Nxb KHXH, HN; “ Pác Dảo” do Hoàng Phƣơng Mai giới thiệu –
phiên âm - dịch nghĩa – chú giải, in năm 2008, Nxb KHXH, HN…
Có thể nói, các tác phẩm viết bằng chữ Nôm Tày đã góp phần quan trọng
trong bảo lƣu và gìn giữ kho tàng tri thức của ngƣời Tày bằng tiếng Tày, đồng
thời góp phần bảo tồn và phát triển tiếng nói, chữ viết Tày. Năm 1961, Nhà
nƣớc ta đã tổ chức xây dựng và ban hành hệ thống chữ viết cho dân tộc Tày
trên cơ sở hệ chữ cái Latinh. Từ đó đến nay, chữ này đã đƣợc sử dụng trong
các văn bản phát thanh, tài liệu tuyên truyền, văn học nghệ thuật…, ở vùng
đồng bào Tày.
 Các nghiên cứu về phƣơng thức láy trong tiếng Tày
Nhƣ đã nói ở trên, "láy" đã trở thành đối tƣợng quan tâm của nhiều nhà
khoa học, trên tƣ liệu các ngôn ngữ phƣơng Đông. Tuy nhiên, “ láy” nói
chung vẫn là một trong những phƣơng thức ít đƣợc nghiên cứu nhất và càng ít
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



6


hơn đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt đối với tiếng
Tày. Cho đến nay, với những tƣ liệu hiện có, chƣa thấy có công trình, bài viết
nào nghiên cứu, xem xét riêng về phƣơng thức láy trong tiếng Tày. Vì vậy,
việc nghiên cứu về phƣơng thức láy trong tiếng Tày ở luận văn này chỉ là
bƣớc đầu, nhƣng là sự thể hiện mong muốn có một số phát hiện về những
biểu hiện của láy và cách sử dụng từ láy của tiếng Tày.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Miêu tả láy của tiếng Tày nhƣ một phƣơng thức cấu tạo từ đang hoạt
động trong ngôn ngữ này để tạo ra hàng loạt từ mới (từ láy) nhằm thỏa mãn
nhu cầu giao tiếp và tƣ duy của ngƣời Tày.
3. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Xác lập cơ sở lí thuyết và thực tế của luận văn.
 Sƣu tập các từ láy trong giao tiếp xã hội của ngƣời Tày và qua các
văn bản đã in ấn bằng tiếng Tày.
 Phát hiện và miêu tả các đặc điểm của phƣơng thức láy trong tiếng
Tày, qua các từ láy khác nhau - kết quả của phƣơng thức láy.
 Thử tìm hiểu sự sử dụng từ láy (với các vai trò khác nhau) tiếng Tày
trong một tác phẩm văn học đƣợc dịch ra tiếng Tày - “ Truyện Kiều”.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những biểu hiện đa dạng của hiện
tƣợng láy trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của ngƣời Tày, trong tác phẩm văn
nghệ dân gian, các sáng tác mới, các từ điển. Cụ thể, tƣ liệu về láy đƣợc sử
dụng trong luận văn đƣợc sƣu tập từ các nguồn sau:
 Trong lời ăn tiếng nói của ngƣời Tày ở huyện Bạch Thông và Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



7


 Trong “Truyện Kiều” – bản dịch tiếng Tày của dịch giả Thân
Văn Lƣ (2006), Sở KH&CN, Cao Bằng.

 Trong các sáng tác mới:
1. Dƣơng Khâu Luông (2008),“Co nghịu hưa cần”, Nxb VHDT, HN.
2. Ma Phƣơng Tân (2005), “Tiểng roọng tềnh nhọt pù” (Tiếng gọi nơi
đỉnh núi)), Nxb VHDT, HN.
 Trong từ điển song ngữ
Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo - Hoàng Chí (2006),“Từ điển Tày Nùng - Việt”, Nxb TĐBK, HN.
Khi tìm hiểu về sự sử dụng từ láy trong các sáng tác của ngƣời Tày,
luận văn sẽ tập trung khảo sát bản dịch “Truyện Kiều” ra tiếng Tày của dịch
giả Thân Văn Lƣ (2006) đã nói ở trên.
4. 2. Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ của luận văn, những khía cạnh sau sẽ đƣợc tập trung chú ý:
- Các quy tắc (hình thức ngữ âm; ngữ nghĩa) đƣợc sử dụng trong
phƣơng thức láy, qua những biểu hiện đa dạng của láy trong tiếng Tày.
- Sự sử dụng các từ láy - kết quả của phƣơng thức láy với các vai trò
khác nhau trong bản dịch “Truyện Kiều” bằng tiếng Tày của dịch giả Thân
Văn Lƣ (2006), Sở KH&CN, Cao Bằng.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Phƣơng pháp miêu tả: Phƣơng pháp chủ yếu đƣợc dùng trong luận
văn là miêu tả ở diện đồng đại. Với phƣơng pháp này, luận văn sẽ đi sâu vào
việc phân tích, tổng hợp để chỉ ra các đặc điểm riêng biệt và tìm ra quy luật
chung của phƣơng thức láy, các kiểu láy trong tiếng Tày.
 Phƣơng pháp thống kê, phân loại: Phƣơng pháp này đƣợc sử
dụng để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện các kiểu láy trong tác phẩm
“Truyện Kiều” đƣợc dịch ra tiếng Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



8



 Phƣơng pháp ngôn ngữ học điền dã: là phƣơng pháp đƣợc sử
dụng để thu thập tƣ liệu về từ láy tiếng Tày trong lời ăn tiếng nói, giao tiếp
hàng ngày của ngƣời Tày.
6. ĐÓNG GÓP MỚI
- Về mặt lí luận:
Các kết quả của luận văn có thể bổ sung tƣ liệu và cách nhìn nhận về
phƣơng thức láy trong một ngôn ngữ cụ thể (tiếng Tày), đối với việc nghiên
cứu về các phƣơng thức cấu tạo từ trong ngôn ngữ học cũng nhƣ trong nghiên
cứu phƣơng thức láy ở các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập mà tiếng Tày là
một thành viên.
- Về mặt thực tiễn:
Đây có thể đƣợc coi là đề tài nghiên cứu có hệ thống và tƣơng đối đầy
đủ đầu tiên về phƣơng thức láy trong tiếng Tày.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cho việc biên soạn các
sách phục vụ dạy và học, giúp cho việc dạy và học tiếng Tày đƣợc thuận lợi
hơn, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo đối với những ai (ngƣời Tày
cũng nhƣ ngƣời các dân tộc khác) muốn tìm hiểu về tiếng Tày.
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thƣ mục tham khảo, nội dung
chính của luận văn đƣợc thể hiện trong 3 chƣơng:
CHƢƠNG 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn
CHƢƠNG 2: Phƣơng thức láy trong tiếng Tày
CHƢƠNG 3: Sự sử dụng từ láy trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày.
Ở phần Phụ lục có:
- Tài liệu tham khảo
- Danh sách các từ láy tiếng Tày đƣợc sƣu tập
- Danh sách các từ láy trong “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày
- Bìa và một số trang của “Truyện Kiều” - bản dịch tiếng Tày
- Một số hình ảnh ở vùng đồng bào Tày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



9


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TẾ
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỪ VÀ HÌNH VỊ
1.1.1. Từ
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học.
Đây là đơn vị cấu trúc - ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ, đƣợc quan
niệm là dùng để gọi tên các sự vật, hiện tƣợng của đời sống, mang các thuộc
tính tiêu biểu về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp của một ngôn ngữ.
Từ những góc nhìn khác nhau về từ của ngôn ngữ, đã có rất nhiều định
nghĩa về từ. Cụ thể:
- Là đơn vị có kích thƣớc nhất định về vật chất - âm thanh (trong ngôn
ngữ thành tiếng), là mặt biểu thị, mặt hình thức, hay còn gọi đó là “từ ngữ âm
- âm vị học”;
- Là đơn vị có ý nghĩa biểu thị các sự vật, hiện tƣợng … nhất định, là
mặt đƣợc biểu thị, nội dung;
- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối vững chắc, ổn định, không thể
phân tách thành đơn vị nhỏ hơn mà không có phƣơng hại đến ý nghĩa;
- Là đơn vị có chức phận khi hoạt động trong lời nói, để kiến tạo nên
câu nói…
Qua khảo sát nhiều ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học cho rằng từ có thể
đƣợc hiện thực hoá bằng những hình thái rất đa dạng. Đồng thời, có thể thấy
cái đơn vị đƣợc hiểu là một tổ hợp âm thanh có ý nghĩa, là sự thống nhất giữa

hình thức và khái niệm đƣợc hàm chứa trong hình thức ấy, là đơn vị tiềm
năng để cấu tạo nên câu, là sự kiện tâm lí - ngôn ngữ học … ấy, vừa không dễ
xác định, vừa thể hiện theo cách này cách khác. Tính phức tạp của việc định
nghĩa từ xuất phát từ chính bản thân từ trong các ngôn ngữ. Viện sĩ L.V
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



10


Sherba đã viết: “Trong thực tế, từ là gì? Thiết nghĩ rằng trong các ngôn ngữ
khác nhau, từ sẽ khác nhau. Do đó không có khái niệm từ nói chung”.
Vì vậy, việc xác định khái niệm “từ” cho đến nay, chƣa đi đến đƣợc
sự thống nhất và thực tế đã có quá nhiều định nghĩa về từ. Lại có ý kiến
cho rằng trong các ngôn ngữ chúng ta đã biết, “không có khái niệm từ nói
chung”, nhƣng cũng có ý kiến cho rằng: “Từ nói chung dẫu sao vẫn tồn tại”
[ 11, tr13].
Xuất phát từ những định nghĩa nêu trên, có thể thấy “từ” là một thực
thể, tồn tại trong mỗi hệ thống ngôn ngữ với những đặc điểm hình thức, cấu
trúc nội tại và có thể có cách biểu thị nội dung (ý nghĩa) khác nhau. Để có cơ
sở lí luận chắc chắn, thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài về từ láy - một loại
“từ” trong tiếng Tày, với luận văn này, việc lựa chọn khái niệm về “từ” đƣợc
cụ thể nhƣ sau:
“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, đƣợc vận dụng độc lập,
tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu”.
Định nghĩa trên cho thấy từ có hai đặc điểm đáng chú ý:
- Là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa: Từ có hình thức phổ biến là một chiết
đoạn âm thanh hoàn chỉnh nhỏ nhất và có ý nghĩa (dùng để gọi tên các sự vật,
hiện tƣợng, các thuộc tính, các quan hệ … trong thực tiễn đời sống). Ví dụ

trong tiếng Tày: đét ( nắng); slâu (cái cột); khẩu (cơm); lục (con)…
- Đƣợc sử dụng độc lập, tự do trong lời nói để tạo nên câu. Có thể tách
biệt ra khỏi các đơn vị khác ( khác với các từ khác, cụm từ …) và đƣợc dùng
theo các quy tắc nhất định để tạo nên câu. Ví dụ trong tiếng Tày: kin (ăn)
đƣợc sử dụng trong câu: Lục kin khẩu dân. (Con ăn cơm nguội); kin (uống)
đƣợc sử dụng trong câu: Lục kin nặm. (Con uống nƣớc)...
Với những đặc điểm đó, dễ dàng phân biệt đƣợc từ với các đơn vị khác:
phân biệt với yếu tố cấu tạo nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhƣng không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



11


đƣợc dùng trực tiếp để “đặt nên câu”); phân biệt với cụm từ và câu (các đơn
vị có nghĩa, nhƣng không “nhỏ nhất”)…
1.1.2. Hình vị
Trong ngôn ngữ đại cƣơng, “hình vị” đã đƣợc xác định là đơn vị nhỏ
nhất có nghĩa của ngôn ngữ. Cách xác định này cho thấy hai đặc điểm chính
của hình vị:
- Là đơn vị có nghĩa
- Không thể chia thành đơn vị có nghĩa nhỏ hơn.
Nhƣ vậy hình vị là đơn vị (hay thành tố, yếu tố) gốc, đơn vị tế bào
của ngữ pháp, là đơn vị có tổ chức tối đơn giản, trực tiếp hoặc gián tiếp gắn
liền với một ý nghĩa nhất định. Đặc biệt đƣợc chú ý là giá trị ngữ pháp của nó,
với tƣ cách là yếu tố cấu tạo từ.
Ngoài tên gọi là “hình vị” đơn vị này còn đƣợc gọi là “mooc - phem”
(morpheem), “từ tố”, “nguyên vị”, “hình tố”… Hình tố và từ tố đƣợc coi là
những dạng thức cụ thể của hình vị trong những hoàn cảnh nhất định với vai

trò cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó (thƣờng đƣợc hiểu là từ). Nguyên vị
đƣợc hiểu là hình vị, đƣợc xét ở dạng tĩnh (nguyên), tức là trừu tƣợng khỏi
các mối quan hệ mà nó đang chi phối và bị chi phối và đƣợc xem xét nhƣ một
đơn vị vốn có (tự nhiên). Ngoài ra ngƣời ta còn phân biệt “căn tố” và “phụ tố”
(với các dạng khác nhau của phụ tố nhƣ: tiền tố, trung tố, hậu tố) trong cấu
trúc của từ ở nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình chắp dính và hoà kết.
Trên thực tế, các về đặc tính chung của hình vị ít đƣợc các nhà ngôn
ngữ học thảo luận. Tuy vậy, những dạng thức cụ thể của một hình vị trong
một ngôn ngữ cụ thể là thế nào, hiểu ra sao về “nghĩa” của hình vị trong ngôn
ngữ ấy thì lại đƣợc bàn luận rất nhiều. Chẳng hạn, trong tiếng Việt đã có
nhiều ý kiến thảo luận xoay quanh “khuôn vần” của từ láy tiếng Việt (ví dụ:
“siếc” trong sách siếc, giáo sư giáo siếc hay ấp trong lấp ló, ngấp nghé, thập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



12


thò, lập loè, mấp mô... hay ăn trong vuông vắn, đỏ đắn, nhỏ nhắn, xinh xắn,
thẳng thắn, may mắn … và thậm chí cả nhắn, vắn, xắn… trong các từ này
nữa) có nghĩa không, nếu có nghĩa thì đó là nghĩa gì. Hay chính sự tổ hợp
giữa “khuôn” với các thành tố (hoặc bộ phận thành tố ) trƣớc và sau nó mới là
hình thức biểu đạt nghĩa…
Bên cạnh những ý kiến trên còn có những ý kiến tranh luận về bản chất
các đơn vị đƣợc gọi là “tiếng” (với vai trò nhất thể ba ngôi, vừa là “âm tiết”,
vừa là “từ”, vừa là “hình vị”) trong tiếng Việt (và cũng có thể gặp trong tiếng
Tày). Từ những lí do đó, hình vị cũng có nhiều định nghĩa khác nhau:
- “Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất, có nghĩa, có chức năng làm
thành tố trực tiếp tạo nên từ” [11, tr 40]

- “Hình vị cũng là đơn vị có nghĩa, cũng đƣợc tái hiện nhƣ các từ,
nhƣng hình vị chỉ đƣợc phân xuất ra nhờ phân tích bản thân các từ, chúng
không tồn tại độc lập mà nhập hẳn vào từ, không tách rời khỏi từ” [7, tr 13].
- “Hình vị là những đơn vị có nghĩa nhỏ nhất có thể kết hợp với nhau
để tạo các từ ” [5, tr 8].
- “Hình vị là đơn vị hình thái học không thể phân chia thành những đơn
vị hình thái học nhỏ hơn, nó là yếu tố cấu tạo từ” [2, tr 23].
- “Một yếu tố có nghĩa đƣợc xác định là hình vị chỉ khi làm thành phần
của từ và chỉ trong quan hệ với từ” [21, tr 66].
Từ những định nghĩa trên, ta thấy “hình vị” có một số đặc điểm sau:
- Là đơn vị có nghĩa nhất định, là mặt đƣợc biểu thị, nội dung;
- Là đơn vị có kích thƣớc vật chất - âm thanh nhất định, là mặt biểu thị,
hình thức;
- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối ổn định, vững chắc, không thể
chia thành các đơn vị có nghĩa nhỏ hơn;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



13


- Là đơn vị có chức năng cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu để
cấu tạo nên từ.
Trên thực tế, hình vị trong các ngôn ngữ cụ thể (với tất cả các dạng
thức của nó), kể cả với tiếng Tày, không phải là đơn vị có thể nhận thức dễ
dàng. Hình vị là kết quả của sự phân tích và tổng hợp của nhà nghiên cứu,
nhằm mục đích để hiểu rõ bản chất, chức năng của các đơn vị lớn hơn nó
hoặc chính nó trong các mối quan hệ với các đơn vị cùng loại và khác loại.
Các đơn vị này thƣờng không hiển nhiên đối với ngƣời bản ngữ.

Với những đặc điểm nêu trên, thì cần có sự phân biệt giữa hai khái
niệm: “hình vị ” và “thành tố cấu tạo từ”. Cụ thể là:
- “Hình vị” có thể trực tiếp cấu tạo nên từ (một mình nó hoặc kết hợp
với các hình vị khác) hoặc không trực tiếp cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng
cách kết hợp với các hình vị khác để tạo thành một thành tố có nghĩa lớn hơn
hình vị. Thành tố này mới đƣợc dùng để trực tiếp cấu tạo nên từ.
- “Thành tố cấu tạo từ” đƣợc hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp
thành nên từ, có thể trùng hoặc không trùng khớp với hình vị. Điều đó, giúp
chúng ta giải thích có logic đối với những trƣờng hợp các hình vị kết hợp với
nhau, nhƣng sản phẩm của sự kết hợp này không thể đƣợc đánh giá là từ
(không tái hiện đƣợc tự do trong lời nói để tạo nên câu), mà chỉ nên xem là
thành tố cấu tạo từ.
Từ những cách nhìn nhận về hình vị nói ở trên, ta thấy có thể chấp
thuận quan niệm: “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ đƣợc sử
dụng (trực tiếp hoặc gián tiếp) cấu tạo nên từ”. Những đơn vị đƣợc coi là hình
vị đều thoả mãn hai đặc điểm: có nghĩa và không thể chia thành đơn vị có
nghĩa nhỏ hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



14


1.2. NGHĨA CỦA TỪ VÀ HÌNH VỊ
1.2.1. Nghĩa
Đặc tính quan trọng nhất của từ và hình vị là “có nghĩa”.
Khi nói về nghĩa của từ (và hình vị), ngƣời ta phân biệt các thành phần
nhƣ: nghĩa biểu vật (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với sự vật hiện
tƣợng cụ thể mà nó chỉ ra); nghĩa biểu niệm (là liên hệ giữa “hình thức âm

thanh” với ý niệm - cái đƣợc biểu hiện, bao gồm các sự vật hiện tƣợng với các
thuộc tính đƣợc phản ánh vào ý thức con ngƣời)… Ngoài ra, ngƣời ta còn
phân biệt nghĩa cấu trúc - là mối liên hệ giữa các đơn vị khác nhau trong hệ
thống, nghĩa ngữ dụng - là mối liên hệ giữa các đơn vị đang xét với tình cảm,
thái độ của ngƣời sử dụng.
Về mặt lí thuyết, căn cứ để hiểu nghĩa là: các đơn vị đang xét (từ và
hình vị) đƣợc sử dụng trong sự quy chiếu về một sự vật hiện tƣợng nào
đó, với yêu cầu ngƣời nói và ngƣời nghe đều phải cùng nghĩ về sự vật
hiện tƣợng ấy, khi nhắc đến đơn vị đang xét. Nhờ sự quy chiếu nhƣ vậy,
sự sử dụng các đơn vị này trong cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó mới
không gây nên sự lẫn lộn.
Khi đi vào phân tích nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ (từ và hình vị),
phải đặt vào ngữ cảnh để đơn vị này bộc lộ ý nghĩa. Ngữ cảnh đƣợc hiểu
là chuỗi các đơn vị ngôn ngữ kết hợp với các đơn vị đang xét hoặc bao
xung quanh nó, làm cho nó đƣợc cụ thể hoá hơn và đƣợc đƣợc xác định về
nghĩa. Ngữ cảnh, có thể là tối thiểu (đơn giản nhất) và tối đa (mở rộng
đến mức có thể).
Mặt khác, phải xem xét trong quá trình hành chức của nó (là cấu tạo từ
và đƣợc nghĩa này thể hiện ở cơ cấu nghĩa của từ).
Đối với từ cũng vậy, không thể tách rời nó khỏi hoạt động ngôn ngữ, và
chỉ trong sự hành chức, nghĩa mới đƣợc hiện thực hoá và xác định. Hơn thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



15


nữa, trong hoạt động của ngôn ngữ, nghĩa của đơn vị ngôn ngữ có thể bị giảm
thiểu hoặc gia tăng so với các yếu tố cấu thành nó (các nét nghĩa), đồng thời

ngƣời nói cũng có thể tạo nên hàng loạt các quan hệ về nghĩa khác trong hệ
thống ngôn ngữ của mình: đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa.
Nhƣ vậy, nghĩa của từ và hình vị mang tính quy ƣớc, đƣợc ngƣời nói và
ngƣời nghe ƣớc định với nhau: âm thanh này thì biểu thị sự loạt vật này, âm
thanh kia thì biểu thị loạt sự vật kia …, tức là mặt vật chất và ý nghĩa có liên
hệ ,mật thiết, quy định ràng buộc và là điều kiện tồn tại của nhau. Đồng thời,
cũng nhƣ các đơn vị ngôn ngữ, nghĩa của các đơn vị này (từ và hình vị) cũng
chỉ tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ. Tách ra khỏi hệ thống, chúng không tồn
tại nữa.
Từ sự phân tích ở trên có thể chấp nhận quan niệm chung: Hiện thực
đƣợc phản ánh vào trong nhận thức, tạo nên một mối liên hệ thƣờng trực, liên
tục với một hình thức âm thanh nhất định, nhờ đó sự phản ánh này đƣợc hiện
thức hoá bằng ngôn ngữ. Mối liên hệ này đƣợc hiểu là “nghĩa”.
1.2.2. Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp
Thông thƣờng khái niệm “ý nghĩa” đƣợc hiểu là gồm nghĩa từ vựng và
nghĩa ngữ pháp. Cũng nhƣ từ, hình vị có thể có ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa
ngữ pháp, hoặc chỉ đơn thuần có ý nghĩa ngữ pháp. Xét về nghĩa thì hình vị
và từ không khác nhau (đều là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa). Sự khác biệt giữa
hai đơn vị (hình vị và từ) này chỉ là ở chức phận của chúng.
Tuy nhiên, vì từ là đơn vị trực tiếp cấu thành lời nói, và là sự kiện tâm
lí - ngôn ngữ học tƣơng đối hiển nhiên, thƣờng trực đối với ngƣời bản ngữ (và
hình vị thƣờng là không). Hơn nữa, từ là đơn vị gắn liền với sự tƣờng giải
nghĩa và đƣợc đƣa vào từ điển dƣới dạng các “mục từ”. Vì vậy, trong các tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



16



liệu nghiên cứu về ngôn ngữ học, ngƣời ta chỉ thƣờng nói đến ý nghĩa của từ.
Điều đó lí giải vì sao từ là đơn vị đƣợc chú ý hơn so với hình vị.
Nhƣ vậy, trong một đơn vị ngôn ngữ có hai loại nghĩa chính đƣợc phân
biệt đó là: ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp
Nghĩa từ vựng: là mối liên hệ giữa “hình thức và âm thanh” với các
hình ảnh của sự vật hiện tƣợng trong thế giới khách quan hoặc các thuộc tính
của các sự vật hiện tƣợng này (nghĩa biểu vật và biểu niệm). Đây là kết quả
của sự nhận thức của con ngƣời đƣợc phản ánh vào ngôn ngữ, có liên quan
đến phạm trù “khái niệm” trong triết học, trong đó chủ yếu là cách con ngƣời
mô hình hoá thế giới khách quan qua phƣơng tiện ngôn ngữ.
Nghĩa ngữ pháp: là ý nghĩa chung của nhiều dạng thức thuộc đơn vị
đang xét (từ, hình vị) có tính chất đồng loạt và tính khái quát trong một hệ
thống ngôn ngữ.
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ:
“Ý nghĩa ngữ pháp luôn luôn phải đƣợc diễn đạt bằng những hình thức
chung có tính đồng loạt. Những hình thức này có thể thuộc về các phƣơng
thức khác nhau (các phƣơng thức ngữ pháp, các hình thức ngữ pháp) nhƣng là
các hình thức cảm tính (lĩnh hội đƣợc bằng giác quan) và là chung cho mọi
trƣờng hợp có tồn tại và cần biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp đó. Trong khi đó,
hình thức biểu hiện của ý nghĩa từ vựng, không có tính chất chung, hay nói
cách khác, ý nghĩa từ vựng không đƣợc biểu đạt bằng những hình thức
chung” [ 5, tr74].
Vậy ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp của từ và hình vị có điểm gì
khác nhau. Tác giả Đỗ Hữu Châu nhận xét rằng: Ý nghĩa của hình vị “chƣa
đƣợc tổ chức thành cấu trúc biểu niệm” nhƣ ý nghĩa của từ [ 5, tr18]. Theo
nhận xét này, có thể hiểu rằng hình vị chỉ có thể có ý nghĩa biểu vật (không
phải là biểu niệm).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17


Nhƣ vậy, khi xem xét cấu tạo từ của một ngôn ngữ, là phải chỉ ra
mối quan hệ của các thành tố bên trong từ và không thể không đặc biệt
chú ý đến ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa khái quát đƣợc diễn đạt bằng những
hình thức đồng loạt.
1.3. CẤU TẠO TỪ
1.3.1. Khái quát về cấu tạo từ
Nói tới cấu tạo từ là nói tới các quy luật, các quy tắc dùng để tạo nên
các từ của ngôn ngữ, đƣợc gọi chung là “phƣơng thức cấu tạo từ”. Các
phƣơng thức cấu tạo từ này đƣợc hình thành trong quá trình hình thành và
phát triển của một ngôn ngữ. Quy tắc cấu tạo nên từ bao gồm cách thức sử
dụng các đơn vị cấu tạo từ để cấu tạo nên từ.
Khi xem xét cấu tạo từ của một ngôn ngữ là phải tìm hiểu quá trình
ngƣời nói đã lựa chọn các “nguyên liệu” nhƣ thế nào và tác động vào chúng
ra sao để có đƣợc các từ mới. Sự lựa chọn và cách tác động đó đƣợc gọi
chung là “phƣơng thức cấu tạo từ”.
1. 3. 2. Các phƣơng thức cấu tạo từ trong ngôn ngữ
Hình vị đƣợc sử dụng trong cấu tạo từ, nhƣng đó mới chỉ đƣợc xem là
nguyên liệu để cấu tạo nên từ. Từ các hình vị phải có các phƣơng thức cấu tạo
mới có thể cấu tạo đƣợc các từ. Các phƣơng thức cấu tạo từ đó là:
 Phƣơng thức phụ gia (còn gọi là “phƣơng thức phụ tố”): là phƣơng
thức liên kết vào một căn tố hoặc một thân từ, một hoặc một vài phụ tố để tạo
nên một từ đa hình vị. Đây là phƣơng thức rất phổ biến trong các ngôn ngữ có
biến hoá hình thái (nhƣ các ngôn ngữ họ Ấn - Âu). Phƣơng thức này cấu tạo
từ bằng cách lựa chọn các “nguyên liệu” và kết hợp thành một nhất thể. Các
thành tố trong sản phẩm của phƣơng thức phụ tố là: “phụ tố” - chỉ các thành

tố chỉ có ý nghĩa ngữ pháp; “căn tố” (còn gọi là gốc từ, từ căn….) - các thành
tố mang ý nghĩa từ vựng, chỉ sự vật hiện tƣợng, là phần gốc của từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



18


Khi nói về phụ tố, ngƣời ta phân biệt phụ tố cấu tạo từ (phụ tố dùng để
cấu tạo nên từ mới) với phụ tố biến đổi từ ( còn gọi là “phụ tố cấu hình từ”).
Một đặc điểm khác là phụ tố kết hợp với căn tố tạo thành một từ hoàn chỉnh
về ngữ âm - thành một khối độc lập, để “tái hiện tự do” cả khối này trong lời
nói với hình thức một từ ngữ âm - âm vị học (và điều này khác với cách ghép
tạo nên hai hoặc hơn hai khối nhƣ thế).
Kết quả của phƣơng thức phụ tố là các từ phái sinh. Từ phái sinh bao giờ
cũng là các từ phức (có hai hoặc hơn hai hình vị), trong đó bắt buộc phải có
căn tố và phụ tố.
Đối với các phụ tố, cách phân biệt phổ biến nhất hiện nay là theo vị trí
của chúng (trong quan hệ với căn tố). Các phụ tố đƣợc phân biệt nhƣ sau:
- Tiền tố: là phụ tố đứng trƣớc căn tố trong từ phái sinh.
- Hậu tố: là phụ tố đứng sau căn tố trong từ (bao gồm cả phụ tố cấu tạo
từ và phụ tố cấu hình từ).
- Trung tố: là phụ tố đứng chen vào bên trong căn tố của từ phái sinh.
 Phƣơng thức ghép: là phƣơng thức ghép các hình vị với nhau để tạo
nên một từ. Có thể đó là hai hình vị với ý nghĩa từ vựng, cũng có thể đó là hai
hình vị chỉ có ý nghĩa ngữ pháp. Hay nói cách khác, phƣơng thức này cấu tạo
từ bằng cách kết hợp các đơn vị từ vựng vốn riêng rẽ, độc lập với nhau, để tạo
thành các từ mới theo các quy tắc nhất định. Mối quan hệ giữa các thành tố
trong từ ghép mới đƣợc cấu tạo chủ yếu là quan hệ ngữ nghĩa. Đặc trƣng cơ

bản của phƣơng thức ghép là ở chỗ dƣới tác động của nó, các từ mới đƣợc tạo
thành có cấu trúc chặt chẽ và có tính thành ngữ về nghĩa. Điều đó có thể mô
hình hoá nhƣ sau: A + B = X ( nghĩa của từ mới). Nhƣ vậy, phƣơng thức ghép
đã mang lại một sự thay đổi trong nội dung biểu thị (so với các thành tố tạo
nên nó: A và B).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



19


Ở tiếng Tày, phƣơng thức ghép đƣợc sử dụng rất phổ biến, đã đƣợc dùng
để sản sinh ra rất nhiều từ ghép. Nhờ có phƣơng thức này mà tiếng Tày ngày
càng có đƣợc nhiều từ mới, đáp ứng nhu cầu gọi tên trong đời sống hàng
ngày, và nhất là trong việc biểu đạt những khái niệm mới trong các lĩnh vực
khoa học, kĩ thuật, văn hoá tƣ tƣởng trong thời hiện đại hiện nay.
Ở tiếng Tày, phƣơng thức ghép phổ biến vẫn là ghép các hình vị mang ý
nghĩa từ vựng với nhau để tạo nên các thực từ. Sự phân biệt trong các từ ghép
thƣờng bằng tính chất và các kiểu quan hệ giữa các thành tố tạo nên chúng.
Trong tiếng Tày có các kiểu từ ghép sau:
- Từ ghép có hai thành tố, giữa hai từ tố này có quan hệ bình đẳng nhau,
không có thành tố nào là chính, thành tố nào là phụ. Ví dụ: mạy mác (cây +
quả = cây cối), mật mèng (kiến + ruồi = côn trùng), tha nả (mắt + mặt = mặt
mũi)...
- Từ ghép gồm hai thành tố kết hợp với nhau và thƣờng theo trật tự:
thành tố chính + thành tố phụ. Ví dụ: mằn mạy (khoai + cây = sắn), khẻo vài
(răng + trâu = răng hàm), cò kheng (cổ + cứng = bƣớng bỉnh), đây kin (tốt +
ăn = ngon), kin lẩu (uống + rƣợu = ăn cƣới)...
Dựa vào quan hệ của các thành tố trong từ ghép nhƣ nêu trên có thể thấy

từ ghép có hai loại chính: ghép các đơn vị có tƣ cách nhƣ nhau đƣợc gọi là
ghép đẳng lập, và ghép các đơn vị có tƣ cách là chính và tƣ cách là phụ gọi là
ghép chính phụ.
Nhƣ vậy, có thể nói: Phƣơng thức ghép tác động lên các đơn vị gốc tạo
thành từ ghép gồm các thành tố có quan hệ với nhau chủ yếu về nghĩa.
Phƣơng thức này tạo thành hàng loạt từ gồm các thành tố đƣợc kết hợp theo
cùng mô hình cấu tạo và có chung một kiểu ý nghĩa.
 Phƣơng thức láy: là phƣơng thức cấu tạo từ bằng cách lặp lại một đơn
vị gốc, “nhân” nó lên một hoặc một vài lần. Đó là kết quả của sự lặp lại đơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



20


vị gốc, trong đó các thành tố trong từ láy có khi giữ nguyên, có khi biến đổi
hình thức ngữ âm. Sự biến đổi có thể ở phần âm đầu, ở phần vần hoặc có khi
chỉ ở phần thanh điệu
Phƣơng thức láy khác với các phƣơng thức phụ gia và phƣơng thức
ghép: Trong hai phƣơng thức này các đơn vị gốc - nguyên liệu vốn có sẵn và
tách rời nhau, không phụ thuộc vào nhau; Còn ở phƣơng thức láy thì các
thành tố láy lại chính là sản phẩm có đƣợc chính từ đơn vị gốc kia theo các
quy tắc nhất định, và kết quả của các phƣơng thức láy là các từ láy, với các
thành tố đƣợc tạo ra liên kết chặt chẽ với nhau nhờ sự hòa phối về ngữ âm.
Quá trình cấu tạo từ láy đƣợc hình dung nhƣ sau: Vỏ ngữ âm của đơn vị gốc
gồm hai phần: phần cố định tiềm tàng là (A) và phần biến đổi tiềm tàng là (B)
và theo bảng mô hình hoá dƣới đây thì X và Y là phần đã đƣợc biến đổi trong
từ láy trên cơ sở phần biến đổi tiềm tàng B của đơn vị gốc:
Đơn vị gốc


Từ láy

AB - AB
AB→

AB - AX (hoặc AX - AB)
AY – AX (hoặc AX - AY)

(Ghi chú: A là phần đƣợc giữ nguyên; B là phần có thể đƣợc biến đổi; X
và Y là những dạng thức biến đổi từ B)
Trong quá trình cấu tạo bằng cách láy, từ láy thƣờng là kết quả của các
thao tác sau: tạo nên các thành tố (T1, T2) từ đơn vị gốc và đặt chúng bên
nhau; biến đổi khối âm (âm chính và âm cuối) hoặc biến đổi âm ở một (hay
các) thành tố.
Nhờ phƣơng thức láy với các thao tác khác nhau mà trong ngôn ngữ có
các kiểu từ láy khác nhau nhƣ: láy hoàn toàn, láy không hoàn toàn.
Dựa vào cách láy nói chung (nhƣ đã trình bày ở trên), có thể thấy
phƣơng thức láy trong tiếng Tày có các kiểu cơ bản sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



21


×