Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Cấu trúc vốn và sự chi phối của cấu trúc vốn đối với cơ cấu tổ chức quản lý của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.65 MB, 101 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
** ****** ***

H O ÀNG THỊ GIANG

CÂU TRÚC VỐN VÀ SỤ CHI PHỐI CỦA
CÂU TRÚC VỐN ĐỐI VỚI c ơ CÂU T ổ
CHỨC QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY c ổ PHÂN

Chuyên ngành: Luật Kinh tê
Mã số: 60.38.50
THƯ VI ÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
PHÒNG ĐC)C

HÀ NỘI

LUẬN
VĂN THẠC
s ĩ LUẬT
HỌC




NGƯỜI HƯỚNÍỈ DẪN KHOA. HỌC: PGS-TS Lê H ồng Hạnh



MẢ NỘI - 2003


M Ụ C LỤC
ran
3

MỞ ĐẦU

Chương 1: CÔNG TY c ổ PHẦN VÀ NHỮNG ư u THÊ

6

CỦANÓ TRONG NỂN k i n h t ê t h ị t r ư ờ n g ,
M ột số vấn đ ề lý luận về công ty cổ phần .

6

N hững ưu th ế của công ty cổ phần .

18

Chương 2: CẤU TRÚC VON CỦA CÔNG TY c ổ PHẦN .

26

Vốn của công ty cổ phần .

26


Những đặc thù trong cơ cấu vốn của công ty cổ phần .

43

So sánh cổ phần của công ty cổ phần và phần vốn góp trong

54

các loại doanh nghiệp có vốn góp khác.
Chương 3: s ụ CHI PHỐI CỦA CÂU TRÚC VỐN Đ ố i VỚI

58

C ơ CÂU T ổ CHỨC QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY c ổ PHẨN .
C ổ đông và bộ máy quản lý của công ty cổ phần .

58

■Cổ phần- C ổ đông và Đại hội đồng cổ đông.

73

C ổ phần- Cố đông và Hội đồng quản trị.

79

C ổ phần- C ổ đông và Ban kiêm soát.

83


C ổ đông thiểu sô trong công ty cổ phần .

85

M ột sô đ ề xu ấ t bước đầu nhằm hoàn thiện pháp luật công ty ở

88

khía cạnh cấu trúc vốn
KẾT LUẬN.

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

95

]


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Tên chữ viết tắt

Ký hiệu

1

Công ty c ổ phần


CTCP

2

Công ly Trách nhiệm hữu hạn

Công ty TNHH

3

Doanh nghiệp Nhà nưóc

DNNN

4

Doanh nghiệp tư nhãn

DNTN

5

Đại hội đồng cổ đông

ĐHĐCĐ

6

Hội đồng quản trị


HĐQT

7

Hợp tác xã

HTX

8

Vốn điếu lệ

VĐL

9

Vốn pháp định

VPĐ

2


Mỏ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bất kỳ một chủ thể kinh doanh nào muốn thực hiện các hoạt động kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận thì vốn là điều kiện tiên quyết, là cơ sở nền tảng
không thể thiếu. Đối với CTCP vốn là cơ sớ cho hoạt động kinh doanh, đồng
thời vốn là một trong những tiêu chí để xác định vị thế, phạm vi, qui mô cũng
như năng lực cạnh tranh của CTCP trên thị trường. Vì vậy, vấn đề quan tâm

hàng đầu của CTCP cũng như của giới đầu tư và các đối tác đó là cấu trúc vốn.
Cấu trúc vốn không những quyết định hoạt động kinh doanh mà còn đóng vai
trò quan trọng trong việc chi phối cấu trúc quản lý của CTCP. Bởi vì, nguyên
tắc hoạt động cơ bản đặc trưng của CTCP là nền dân chủ cổ phần. Trong
CTCP, việc hình thành bộ máy tổ chức quản lý và việc phân chia quyền lực
giữa các bộ phận cấu thành đó, cấu trúc vốn có ảnh hưởng quyết định và chi
phối. 'Vì vậy, xây dựng một cơ cấu vốn như thế nào là hợp lí, phù hợp với các
qui định của pháp luật, phù hợp với khả năng của công ty và phù hựp với
phạm vi, qui mô hoạt động kinh doanh, nhằm thu hút tối đa các nguồn vốn
trong xã hội là vấn đề mà bất cứ CTCP nào cũng quan tâm. Với cấu trúc vốn
mở, đa dạng hoá các loại cổ phần khác nhau được qui định trong Luật doanh
nghiệp 1999, đã và đang là nền tảng pháp lý cho CTCP trong việc tạo lập và
huy động vốn, là cơ sở nền tảng thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng
khoán. Đồng thời căn cứ vào đặc điểm, tính chất của cấu trúc vốn mà đặc biệt
quan trọng là cơ cấu VĐL để CTCP thiết lập một cơ cấu quyền lực cho hợp lý.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp có nhiều ý kiến xung
quanh cơ cấu vốn của CTCP như việc bỏ VPĐ đối với các ngành nghề kinh
doanh liệu có thông thoáng quá hay không khi cơ chế hậu kiểm vãn còn nhiều
bất cập. Cần phải qui định một tỷ lệ cụ thể giữa VĐL và vốn vay nhằm đảm
báo an toàn cho các chủ nợ, quyền và lợi ích của các cổ đông thiểu số được

3


bảo vệ như thế nào...Đ ể nghiên cứu và khai thác cấu trúc vốn của CTCP dưới
nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là nghiên cứu sự chi phối của cấu trúc vốn
đối với cấu trúc quản lý của CTCP. Tác giả đã chọn đề tài: “Cấu trúc vốn và
sự chi phôi của cấu trúc vốn đôi với cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP” làm
đề tài cho Luận văn Thạc sỹ.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những đặc trưng, những
ưu thế của CTCP trong nền kinh tế thị trường. Từ đó đi sâu nghiên cứu cấu
trúc vốn của CTCP dưới nhiều góc độ khác nhau, để làm rõ sự chi phối của
cấu trúc vốn đối với cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP. Đồng thời, qua quá
trình nghiên cứu tác giả đã đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện cấu trúc
vốn của CTCP.
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về
cấu trúc vốn của CTCP và sự chi phối của nó đối với cơ cấu quản lý của CTCP.
Phạm vi nghiên cứu: Cấu trúc vốn của CTCP là vấn đề rất phức tạp cả
về lý luận và thực tiễn. Để nghiên cứu cấu trúc vốn của CTCP, trong phạm vi
của luận văn, tác giả đã nghiên cứu những đặc điểm, ưu thế của CTCP, tuy
nhiên' đây không phải là phạm vi nghiên cứu chính của luận văn mà trên cơ sở
đó làm rõ cấu trúc vốn của CTCP, so sánh với cấu trúc vốn của các CTCP của
các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời nghiên cứu sự chi phối của
cấu trúc vốn đối với cơ cấu quản lý của CTCP.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan
điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa MácLênin, đường lối, chính sách của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước.

Đồng thời luận văn sử dụng phương pháp so sánh, diễn

giải, phântích tổng

hợp đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn.
3. Những đóng góp mới của luận văn:

4



Thứ nhất: Luận văn đã đưa ra được những ưu thế của CTCP trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Từ đó khẳng định vị thế của CTCP với
tư cách là một chủ thể kinh doanh độc lập.
Thứ hai: Luận văn đã phân tích cấu trúc vốn của CTCP dưới nhiều góc
độ khác nhau, đặc biệt cấu trúc vốn được tiếp cận dưới góc độ pháp lý, làm rõ
tại sao trong cấu trúc vốn của công ty về cơ bản có hai bộ phận, VĐL và vốn
vay, cơ cấu VĐL, ưu thế, vai trò của VĐL trong CTCP. Mối quan hệ, tỷ lệ
giữa VĐL và vốn vay, từ đó các nhà đầu tư có phương án đẩu tư thích hợp.
Thứ ba: Cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP là một trong những chế định
được pháp luật điều chỉnh và các cổ đông quan tâm. Vấn đề cốt yếu nhất là sự
phân chia quyền lực như thế nào trong các bộ phận cấu thành. Luận văn đã lý
giải một cách đầy đủ và dẫn chứng, so sánh với cơ cấu bộ máy quản lý của
CTCP của các nước khác, để thấy rõ tổ chức bộ máy quản lý của CTCP rất chặt
chẽ, đồng thời có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các bộ phận cấu thành.
Thứ tư: Vốn là cơ sở chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ
doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Đối với CTCP cơ cấu vốn có
vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Là công ty đối vốn điển hình,
cấu trúc vốn của CTCP là cơ sở cho hoạt động kinh doanh đồng thời cấu trúc
vốn còn chi phối cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP. Đây là vấn đề mà từ trước
đến nay hầu như chưa có tác giả nào khai thác cách .
Thứ năm: Trên cơ sở nghiên cứu từ lí luận và thực tiễn về cấu trúc vốn của
CTCP, luận văn đã đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện cấu trúc vốn của CTCP.
4. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo. Kết cấu của luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: CTCP và những ưu thế của nó trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Cấu trúc vốn của CTCP.
Chương 3: Sự chi phối của cấu trúc vốn đối với cơ cấu tổ chức quản lý
của CTCP.


5


CHƯƠNG 1

CÔNG TY C ổ PHẨN VÀ NHỮNG ưu THẾ CỦA NÓ
TRONG NÊN KINH T Ế THỊ TRƯỜNG.
1.1. M Ộ T S Ố V Â N Đ Ê L Ý LU Ậ N V Ê CÔ N G T Y c ổ PHẨN .
1.1.1. KHÁI NIỆM CÔNG TY c ổ PHẨN.

Sự ra đời, tồn tại và phát triển của CTCP gắn liền với nền kinh tế thị
trường. Với tính chất là một hiện tượng kinh tế - xã hội, CTCP nói riêng cũng
như các loại hình công ty nói chung có Ihể được hiểu trên nhiều nghĩa khi tiếp
cận từ các góc độ khác nhau. Từ góc độ kinh tế, CTCP là một tổ chức kinh tế
chuyên thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường, là sự liên kết của
nhiều người để tiến hành các hoạt động kinh doanh vì mục đích kiếm lời. Dưới
góc độ pháp lý, CTCP là một pháp nhân kinh tế, được xác định bởi hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia cụ thể. Vì vậy, CTCP là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học trong đó có khoa học pháp lý. Trong khoa học pháp lý,
CTCP được tiếp cận như là một thương nhân-pháp nhân. Các nhà nghiên cứu,
các luật gia đưa ra rất nhiều cách định nghĩa về CTCP.
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp luật của Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa th/

'CTCP (gọi là công ty hữu hạn cổ phần) là một loại hình

công ty mà toàn bộ vốn chia thành các cổ phần có mức bằng nhau, cổ phần
phát hành công khai theo pháp luật bằng hình thức cổ phiêỉi và tự do chuyển
nhượng. Trong công ty hữu hạn cổ phần, số cổ đông rất nhiều, tài sản cá nhân
tách riêng khỏi tài sản công ty, trách nhiệm đối với các món nợ của công ty

hạn c h ế ở mức bỏ vốn của từng người ” [56, tr. 1947]. Định nghĩa này nhấn
mạnh tính chất và cấu trúc vốn của CTCP và tính chất đa thành viên của nó
cũng như giới hạn trách nhiệm của thành viên.

6


Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: ‘CTCP là những công ty
được hình thành trên cơ sở liên hợp tư bản cá nhân bằng cách phát hành vả
bán cổ phần và lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông íheo
s ố lượng cổ phần ” [39, tr. 593]. Định nghĩa của Từ điển Bách khoa nhấn mạnh
chủ yếu khía cạnh kinh tế, cụ thể là tính chất của việc phân phối lợi nhuận,
tính chất hợp vốn của công ty. Khác với cách tiếp cận từ góc độ kinh tế, các
nhà luật học Việt Nam đã đưa ra định nghĩa pháp lý khá rõ ràng, cụ thể về
CTCP: "CTCP là công ty trong đố VĐL được chia thành những phần nhỏ nhất
và bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần của công ty gọi là cổ
đông. C ổ đông chỉ chịu trách nhiệm trước nghĩa vụ của công ty đến hết giá trị
cổ phần mà họ nắm giữ. Công ty có quyền phát hành chứng khoán đ ể công
khai huy động vốn ” [43, tr. 22]. Định nghĩa này về CTCP nhấn mạnh đến tính
chất và cấu trúc vốn, chế độ trách nhiệm của thành viên.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng các định nghĩa về CTCP là không đồng
nhất với nhau, nhưng những định nghĩa trên đều nêu những điểm chung nhất
thể hiện bản chất của CTCP là doanh nghiệp vốn góp với cơ cấu vốn đặc thù
và chế độ TNHH của các thành viên.
Những quan điểm khác nhau về CTCP trong khoa học kinh tế, pháp lý
dẫn đến hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau cũng có những cách
tiếp cận khác nhau vế CTCP. Tại các quốc gia theo hệ thống dân luật (Civil
Law), tiêu biểu là Pháp, Đức, CTCP là loại hình công ty đối vốn, có qui chế
pháp lý riêng và được phân biệt rõ ràng với công ty đối vốn khác, đó là công
ty TNHH [25, tr. 105]. Theo pháp luật của Cộng hoà Pháp, CTCP được gọi là

công ty vô danh phải có ít nhất 7 cổ đông, VĐL của công ty được chia thành
các cổ phần với mệnh giá thống nhất là 100 F. Các cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần. Công ty có thể phát hành chứng khoán để huy động
vốn theo các quy định pháp luật về chứng khoán [50, tr.47]. Ó Cộng hoà Liên
bang Đức, theo luật về CTCP ngày 4/4/1892 (được sửa đổi ngày 4/7/1980),

7


CTCP có những đặc điểm pháp lý cơ bản giống như công ty vô danh của Pháp.
Bên c-ạnh đó, CTCP của Đức cũng có những đặc điểm riêng thể hiện ở chỗ sau
khi CTCP được chứng nhận tư cách pháp nhân thì toàn số vốn cổ phần có thể
được chuyển nhượng cho một thành viên duy nhất và CTCP này sẽ trở thành
doanh nghiệp một chủ.
Khác với các nước theo hệ thống dân luật, các nước theo hệ thống pháp
luật Anh-Mỹ (hay còn được gọi là Common law) không phân chia công ty đối
vốn thành CTCP hoặc công ty TNHH một cách rõ ràng. Tuy nhiên, ở các nước
này tồn tại cồng ty có tính chất pháp lý tương tự như CTCP theo hệ thống dân
luật, ớ Vương quốc Anh, công ty đối vốn được tổ chức dưới hình Công ty
công -hữu hạn (Public limited Company) hay Công ty TNHH theo cổ phần
(Company limited by Share). Công ty công hữu hạn có cấu trúc vốn linh hoạt,
VĐL được chia thành các cổ phần. Các cổ phần đều có thể được chuyển
nhượng trừ khi điều lệ công ty có quy định khác [49, tr. 48, 49].
ở Australia, công ty đối vốn có thể là Công ty công (Public Company)
hoặc Công ty tư (Proprietary Company). Công ty công của Australia có những
đặc điểm pháp lý về cơ bản giống như Công ty công hữu hạn của Vương quốc
Anh. Công ty bắt buộc tối thiểu phải có 5 thành viên và không bị hạn chế số
lượng tối đa. Vốn cổ phần của công ty được tự do chuyển nhượng theo quy
định eủa pháp luật. Công ty công phải có kiểm toán viên và phải thực hiện chế
độ báo cáo công khai tài chính hàng năm [1, tr. 8, 9]. Ở Hoa Kỳ, pháp luật hiện

hành quy định có ba loại hình Công ty: 1. Công ty hợp danh (Partnership) là
công ty trong đó một số thành viên không trực tiếp điều hành hoạt động của
công ty, chịu trách nhiệm giới hạn trong phần hùn của họ; 2. Công ty công
(Public Corporation) là công ty có cổ phẩn bán rộng rãi cho công chúng; 3.
Công ty đóng (Closed Corporation) là công ty giới hạn bởi số lượng cổ đông
và không có cổ phần bán rộng rãi ra công chúng [25, tr. 514, 515].

8


Hệ thống pháp luật các nước ASEAN, kể cả pháp luật công ty chịu ảnh
hưởng sâu sắc hệ thống pháp luật của các nước trước đây đã từng áp đặt ách
thống trị. Do các nước ASEAN chịu khá nhiều ảnh hưởng khác nhau từ các
nước Anh, Mỹ, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha nên trong pháp luật cồng ty
cũng có những dấu ấn của ảnh hưởng trên. Không có gì ngạc nhiên khi cách
tiếp cận về CTCP của một vài nước ASEAN giống với các nước theo hệ thống
dân luật và hệ thống pháp luật Anh-Mỹ, trong lúc đó có nước lại chịu ảnh
hưởng của Common Law. Tuy nhiên, nhìn chung luật công ty của các nước
trong khối ASEAN chịu ảnh hưởng hệ thống pháp luật Anh-Mỹ nhiều hơn. ở
Thái Lan, công ty hữu hạn được chia thành cồng ty công (public Corporation)
và công ty tư (private Corporation ) tương lự như ở Hoa Kỳ. Công ty TNHH tư
là công ty trong đó vốn được chia thành các cổ phần bằng nhau với mệnh giá
nhất định. Công ty được hình thành sau khi được Bộ thương mại đăng ký vào
danh bạ. Đối với công ty TNHH tư không yêu cầu mức vốn tối thiểu, nhưng
lại giới hạn số thành viên tối thiểu là 7 và số thành viên tối đa là 99. Công ty
TNHH tư được điều chỉnh bởi Bộ luậl dân sự và thương mại. Công ty TNHH
công là công ty được thành lập để tạo điều kiện cho công chúng tham gia rộng
rãi vì công ty phát hành các loại chứng khoán ra công chúng. Công ty có số
lượng thành viên tối thiểu là 100 không hạn chế số lượng thành viên tối đa.
Công ty TNHH công được điều chỉnh bởi Luật công ty TNHH công năm

1978 [15, tr. 87].
Luật công ty của Philippines không phân chia công ty thành công ty
TNHH và CTCP như các nước theo hệ thống dân luật truyền thống. Điều này
cho thấy sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ đối với lĩnh vực luật
công ty của Philippines. Pháp luật công ty của Philippines phân chia công ty
thành công ty công (public Corporation) và công ty tư (private Corporation).
Công ty công là công ty do Nhà nước thành lập và nắm giữ hoàn toàn tài sản.
Nếu công ty mà trong đó Nhà nước nắm phần lớn cổ phiếu hoặc cổ phần thì

9


cũng không được gọi là công ty công. Tiêu chí cơ bản để phân biệt giữa công
ty công và công ty tư là mục đích hoạt động. Công ty công hoạt động vì mục
đích phúc lợi công cộng còn công ty tư hoạt động với mục đích lợi nhuận [15,
tr. 88, 89]
Như vậy, ở các quốc gia theo hệ ihống dân luật hoặc hệ thống pháp luật
Anh-Mỹ và các quốc gia chịu ảnh hưởng của hai hệ thống pháp luật đó, có
những cách tiếp cận khác nhau về công ty, nhất là cách phân loại công ty
công .và công ty tư. Việc so sánh các công ty này đòi hỏi phải nghiên cứu
chúng một cách toàn diện vì pháp luật về CTCP ở các quốc gia này không đưa
ra định nghĩa chính thức về CTCP.
Ở Việt Nam, trong nền kinh tế tập trung bao cấp không tồn tại (hoặc
nói chính xác hơn là hầu như không tồn tại) công ty với bản chất đặc trưng
của nó là sự liên kết của các thành viên, cùng góp vốn nhằm thực hiện các
hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, dù trên thực tế có rất nhiều tổ
chức kinh tế được gọi là công ty. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986
đã đề ra đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành, phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa [16, tr. 142]. Chính sách này đã được thể chế bằng

nhiều văn bản pháp luật. Trong số đó có Luật công ty 1990 - văn bản quan
trọng cho sự xuất hiện và hoạt động của CTCP và công ty TNHH. Theo luật
công ty 1990, CTCP và công ty TNHH là loại hình công ty đối vốn có sự liên
kết của nhiều thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận và cùng chịu
lỗ trong phạm vi phần vốn góp. Xét ở nhiều khía cạnh, Luật công ty năm 1990
có cách tiếp cận về CTCP khá đồng nhất với cách tiếp cận về CTCP với pháp
luật nhiều nước nhất là các nước theo hệ thống dân luật. Luật công ty 1990
không nêu định nghĩa về CTCP mà chỉ nêu những dấu hiệu cơ bản, đặc trưng
thể hiện bản chất của nó. Khoản 1, 2, Điều 30 Luật công ty 1990 quy định :
“CTC-P là công tỵ trong đó sô' thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có

10


trong suốt thời gian hoạt động ít nhất lù 7, VĐL của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc
nhiều cổ phần”.
Theo xu hướng này, Luật doanh nghiệp được ban hành sau đó 10 năm
vẫn giữ nguyên cách tiếp cận như vậy. Điều 51- Luật doanh nghiệp 1999 quy định:
“7. CTCP là doanh nghiệp trong đó:
a) VĐL được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) C ổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi s ố vốn đã góp vào doanh nghiệp.
c) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
d) C ổ đông cố thể là tổ chức, cá nhân s ố lượng cổ đông tối thiểu là 3 và
không hạn c h ế s ố lượng cổ đông tối đa.
2. CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định
của pháp luật về chứng khoán.
3. CTCP có tư cách pháp nhân k ể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh”.

Như vậy, tuy Luật doanh nghiệp 1999 có đưa ra thêm một vài đặc điểm
nữa về CTCP song nhìn chung cách tiếp cận vẫn giống như Luật công ty 1990.
Điều này cho thấy tính chất phức tạp của loại hình doanh nghiệp này kể cả về
cơ cấu tổ chức, kể cả về địa vị pháp lý. Sẽ là phi thực tế nếu có ý định xây
dựng một khái niệm chung, đầy đủ chính xác về CTCP phù hợp cho tất cả các
quốc gia. Vì vậy, chúng ta có thể tìm thấy trong pháp luật của các quốc gia
khác nhau khá nhiều qui định đặc thù về CTCP phản ánh điều kiện kinh tế, xã
hội, truyền thống lịch sử và truyền thống lập pháp của của quốc gia đó. CTCP
dù được tiếp cận dưới góc độ nào cũng đều ghi nhận là loại hình công ty đối
vốn điển hình, cấu trúc vốn và cơ cấu cổ đông linh hoạt, có khả năng xã hội

11


hoá cao, việc tổ chức và hoạt động của CTCP cũng như quyền lợi, trách nhiệm
của các cổ đông được giải quyết chủ yếu dựa trên cơ sở nguyên tắc đối vốn.
Từ những phân tích nêu trên có thể khái quát những đặc điểm của CTCP
như sau:
' Thứ nhất: CTCP là một pháp nhân kinh tế.
CTCP là một pháp nhân kinh tế hoạt động độc lập có tính tổ chức chặt
chẽ, cấu trúc vốn hoàn thiện, hoạt động mang tính xã hội hoá cao. Tài sản của
CTCP được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu được hình
thành từ nguồn vốn do các cổ đông góp và tách bạch rõ ràng với tài sản của
các cổ đông. Cổ đông có quyền sở hữu một phần trong công ty tương ứng với
giá trị cổ phần mà mình nắm giữ, nhưng không có quyền sở hữu tài sản của
công ty. Việc thay đổi số lượng cổ đông không ảnh hưởng đến sự tồn tại của
CTCP. Chính vì vậy người ta cho rằng một trong những đặc điểm của CTCP là
tính trường tồn của nó. CTCP là chủ thể tạo được sự ổn định cao cho các nhà
đầu tư khi muốn tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường. Với tư cách là một chủ thể pháp luật, CTCP tham gia vào các quan hệ

pháp luật một cách độc lập. CTCP có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ
thể pháp luật khi tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Khi tham
gia vào các quan hệ pháp luật, công ty nhân danh chính mình thông qua người
đại diện theo pháp luật, đồng thời phải chịu trách nhiệm vô hạn trước các
nghĩa vụ phát sinh đến hết giá trị tài sản của công ty. Với tư cách là một thực
thể kinh tế dựa trên chế độ đa sở hữu, CTCP có khả năng huy động nhiều nhà
đầu tư tham gia góp vốn thành lập và có khả năng tập trung được nguồn vốn
lớn để thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Thứ hai: CTCP là loại Công ty đối vốn điển hình.
Khi tham gia vào CTCP, các cổ đông không quan lâm đến nhân thân
của nhau mà chỉ quan tâm đến phẩn vốn góp (cổ phần). Cơ cấu tổ chức bộ

12


máy quán lý, những vấn đề về quản lý nội bộ, quyền lợi và nghĩa vụ của các
cổ đông được giải quyết chủ yếu dựa trên nguyên tắc đối vốn (tức là căn cứ
vào giá trị cổ phần mà các cổ đông nắm giữ). Đặc điểm này cùng với khả năng
chuyển nhượng cổ phần dễ dàng trên thị trường, làm cho CTCP có phạm vi,
quy mô kinh doanh lớn, số lượng cổ đông đông đảo và có khả năng tập trung
huy động vốn lớn để phát triển sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: CTCP có cấu trúc vốn mềm dẻo, linh hoạt.
Với cấu trúc vốn mở, có khả năng xã hội hoá cao, VĐL của CTCP được
chia thành các cổ phần bằng nhau. Có rất nhiều các loại cổ phần khác nhau
như cổ phần phổ thông và các loại cổ phần ưu đãi. Cấu trúc vốn đa dạng hoá
các loại cổ phần tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc thiết lập một cơ
cấu vốn hợp lý, tính chuyển nhượng dễ dàng của cổ phẩn trên thị trường tạo
điều kiện thuận lợi cho CTCP trong việc tạo lập và huy động vốn, đáp ứng các
nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư khi đầu tư vốn vào CTCP. Trong quá
trình hoạt động kinh doanh CTCP được phát hành các loại chứng khoán ra

công chúng để huy động vốn. Do đó, sự ra đời và phát triển của CTCP gắn
liền Với sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán - đỉnh cao của thị
trường vốn và là sản phẩm của nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao.
Thứ tư: Về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý trong CTCP.
CTCP là loại hình doanh nghiệp đa sở hữu, là hiện thân của nền kinh tế
thu nhỏ. Với tính chất đa sở hữu, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, cơ chế quản
lý trong CTCP dựa trên sức mạnh kinh tế của các nhóm sở hữu trong công ty.
Trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa
các bộ phận. Sự phân chia quyền lực này hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ (tỷ
lệ) vốn góp của các cổ đông nhằm đảm bảo một cơ cấu tổ chức quản lý chặt
chẽ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông. Điểm khác biệt về cơ cấu tổ chức quản
lý, đồng thời là đặc trưng của CTCP so với các loại hình doanh nghiệp khác đó
là cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP chịu sự chi phối của cấu trúc vốn.

13


1.1.2. SO SÁNH CÔNG TY c ổ PHẨN VỚI C Á C DOANH NGHIỆP CÓ
VỐN GÓP KHÁC.

Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều loại
doanh nghiệp có vốn góp như: Công ty TNHH có 2 thành viên trở lên, HTX,
DNLD. Giữa CTCP và các doanh nghiệp này có những điểm chung sau đây:
V ề thành viên: Một trong những đặc trưng của các doanh nghiệp có vốn
góp là phải có nhiều người tham gia. Những người tham gia vào các doanh
nghiệp đối vốn có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trong các doanh nghiệp khác
nhau tên gọi của những người tham gia có thể khác nhau. Đối với HTX, công
ty hợp danh, công ty TNHH thì người góp vốn để tham gia doanh nghiệp được
gọi là các thành viên, còn đối với CTCP thì đó là cổ đông, đối với DNLD thì là
bên góp vốn. Tuy nhiên, đối với từng loại công ty, pháp luật có những hạn chế

nhất định đối với việc trở thành thành viên của doanh nghiệp góp vốn. Chẳng
hạn, để trở thành thành viên hợp danh, người tham gia nếu là thể nhân thì phải
đáp ứng được điều kiện tối thiểu là phải đạt tuổi thành niên trong lúc hạn chế
này không áp dụng đối với việc trở thành cổ đông của CTCP.
V ề vốn: VĐL của các doanh nghiệp có vốn góp ban đầu đều do các
thành viên góp. Khi góp vốn vào doanh nghiệp, thành viên trở thành chủ sở
Mỏi

9

hữu cỊối với doanh nghiệp chứ không phải đôVbất cứ phần tài sản cụ the nào
trong đó. Các thành viên của doanh nghiệp có vốn góp chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi phần vốn góp đã góp
vào doanh nghiệp trừ các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn của công ty hợp
danh. Mục đích góp vốn của các thành viên chủ yếu là nhằm kiếm lợi nhuận
từ hoạt động thương mại của bản thân doanh nghiệp.
V ề tổ chức bộ máy: Trừ hợp danh theo Luật doanh nghiệp 1999, tổ chức
bộ máy quản lý, cơ chế quản lý của các doanh nghiệp có vốn góp đều chịu sự
chi phối của mức vốn góp. v ề cơ bản, bộ máy quản lý của doanh nghiệp có

14


vốn góp có sự phân chia quyền lực và cơ cấu hoàn chỉnh rõ ràng hơn so với
DNTN, hợp danh phổ thông và cả hợp danh hữu hạn như kiểu hợp danh được
qui định trong Luật doanh nghiệp 1999.
• Khi khi nghiên cứu về CTCP, ngoài các điểm chung nói trên, giữa
CTCP với các doanh nghiệp có vốn góp khác, nhất là công ty đối vốn như:
Công ty TNHH có hai thành viên trở lên; HTX; Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài còn có nhiều điểm khác nhau cần được nhận diện đầy đủ.

* Một sô điểm khác nhau giữa CTCP và công ty TNHH có hai
thành viên trở lên.
Giữa CTCP và công ty TNHH có một số điểm khác nhau sau:
V ề giới hạn s ố lượng chủ thể tham gia vào công ty: CTCP giới hạn số
lượng cổ đông tối thiểu (ba cổ đông) không giới hạn số lượng cổ đông tối đa,
còn công ty TNHH có hai thành viên trở lên giới hạn số lượng thành viên tối
đa không vượt quá năm mươi thành viên. Tại sao lại có sự qui định khác nhau
này về việc hạn chế số lượng cổ đông tối thiểu và số lượng thành viên tối đa?
Như chúng ta đã biết CTCP và công ty TNHH đều là loại hình công ty đối
vốn, song CTCP là loại hình công ty đối vốn đặc trưng bởi tính chất sở hữu,
phạm vi quy mô hoạt động, số lượng cổ đông. Các cổ đông của CTCP thường
rất đông, có những CTCP có tới hàng vạn cổ đông ở khắp nơi. Có thể dễ dàng
nhận thấy rằng CTCP có khả năng thu hút vốn lớn thông qua việc phát hành
cổ phần ra công chúng. Cũng chính từ khả năng này mà CTCP có mức độ xã
hội hóa rất cao. Công ty TNHH về bản chất là loại hình công ty đối vốn
nhưng vãn mang nhiều nét của công ty đối nhân. Nét đối nhân trong công ty
TNHH thể hiện ở chỗ thành viên trong công ty TNHH thường là những người
quen biết nhau hoặc có quan hệ họ hàng với nhau. Vì vậy, thành viên trong
công ty TNHH thường có mối quan hệ tin cậy lẫn nhau lớn, số lượng thành
viên cũng hạn chế hơn. ớ Việt Nam, theo qui định của Luật doanh nghiệp

15


1999, số lượng thành viên của công ty TNHH không vượt quá năm mươi
thành viên (ở Thái Lan giới hạn không quá một trăm thành viên). Như vậy, rõ
ràng xét ở tiêu chí này thì qui mô của CTCP lớn hơn nhiều so với công ty TNHH.
Vốn điều lệ: Trong CTCP VĐL bắt buộc phải chia thành các phần bằng
nhau gọi là cổ phần. Hình thức thể hiện của các cổ phần là cổ phiếu. Trong
công ty TNHH VĐL không có kết cấu như vậy. VĐL của CTCP và vốn thực

có của nó ở thời điểm thành lập có thể có sự chênh lệch, song điều này không
thể xảy ra đối với công ty TNHH. Các cổ đông trong CTCP góp vốn bằng
cách mua các cổ phần. Các cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần phụ
thuộc vào khả năng của mình. Thành viên của công ty TNHH góp vốn bằng
cách góp trực tiếp và phải góp đầy đủ, đúng hạn số vốn mà họ đã cam kết
góp vào công ty. v ề phần này chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn ở chương II.
Trong CTCP việc chuyển nhượng vốn được thực hiện một cách tự do,
linh hoạt giữa các cổ đông. Việc huy động vốn của CTCP cũng được thực
hiện một cách thuận tiện thông qua việc phát hành các loại chứng khoán trên
thị trường tài chính. Vì vậy, CTCP có khả năng thu hút được lượng vốn lớn
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư phục vụ cho các hoạt động kinh doanh.
Trong công ty TNHH việc chuyển nhượng vốn bị hạn chế. Theo qui định của
Luật doanh nghiệp việc chuyển nhượng vốn của công ty TNHH được thực
hiện trước hết giữa các thành viên trong nội bộ công ty. Các thành viên chí
được chuyển nhượng vốn ra bên ngoài khi các thành viên của công ty không mua
hoặc mua không hết và được chuyển nhượng theo một trình tự khá khắt khe.
Vê' cấu trúc quản lý : Thông thường số lượng thành viên trong công ty
TNHH không lớn và chủ yếu chỉ giới hạn ở những người quen biết, hoặc có
họ hàng với nhau. Thành viên của công ty TNHH không muốn trao quyền
quản lý và kiểm soát công ty cho người khác, các thành viên thường trực tiếp
quản lý hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy, cấu trúc quản lý của công
ty TNHH trong nhiều trường hợp khồng mang tính chất chuyên nghiệp. Các

16


thành viên đều tham gia hội đồng thành viên để quản lý điều hành các hoạt
động kinh doanh của công ty TNHH. Đây là điểm khác với bộ máy quản lý
của CTCP.
* CTCP và hợp tác xã

Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể do những người lao động có
nhu cầu và lợi ích chung tự nguyện góp vốn góp sức lập ra theo qui định của
pháp luật. Giữa CTCP với HTX khác nhau ở những điểm sau:
Vốn điều lệ: Trong CTCP, VĐL được chia thành các phần bằng nhau
như trên đã phân tích, còn VĐL trong HTX không chia thành các phần bằng
nhau. Về góp vốn, mỗi xã viên HTX có thể góp ít hoặc nhiều vốn hoàn toàn
phụ thuộc vào khả năng của minh. Ngoài việc góp vốn các xã viên HTX còn
phải góp sức lao động, đây chính là đặc thù của HTX. Trong HTX, việc góp
vốn của các xã viên bị khống chế mức tối đa. Mức vốn góp của mỗi xã viên
có thể nhiều hơn mức tối thiểu nhưng ở mọi thời điểm không vượt quá 30%
tổng số VĐL của HTX. Đối với CTCP, các cổ đông không bị hạn chế về số
lượng vốn góp mà ngược lại được khuyến khích góp càng nhiều càng tốt (trừ
một số hạn chế đối với cá nhân và tổ chức nước ngoài). Ngoài việc góp vốn,
các cổ đông có thể tham gia hoặc không tham gia vào hoạt động của CTCP,
họ được chia lợi nhuận theo điều lệ của CTCP qui định. Việc hạn chế mức
vốn góp trong CTCP chỉ áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài.
Việc đóng góp nhiều hay ít vốn vào HTX không mang lại ưu thế của thành
viên trong việc hoạch định chính sách, kế hoạch của HTX. Điều này khác với
cơ chế một cổ phần một phiếu bầu trong CTCP.
V ề tổ chức bộ máy quản lí: Tổ chức bộ máy quản lý của HTX thống trị
một nguyên tắc truyền thống bất di, bất dịch đó là bình đẳng và dân chủ. Các
xã viên trong HTX không phụ thuộc vào số vốn góp nhiều hay ít họ đều có
quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau. Mỗi xã viên có quyền biểu quyết
ngang nhau và ho cổ mốt phiếu bầu tai đai hôi xã viên để bầu Ban quán tri và
THƯ V I Ê N


Chủ nhiệm HTX. Trong khi đó, tổ chức bộ máy quản lí của CTCP dựa trên
nguyên tắc đặc trưng là nền dân chủ cổ phần, cổ phần dựa vào phiếu và phiếu
hoàn toàn phụ thuộc vào số lượng và tỷ lệ cổ phần mà các cổ đông sở hữu.

1.2. NHỮNG ƯU T H Ế C Ủ A C Ô N G T Y c ổ PHẨN.
1.2.1. CÔNG TY C ổ PHẨN VÀ VÂN Đ Ề HIỆU QUẢ s ử DUNG VÕN




Mục đích của các cổ đông khi góp vốn vào CTCP chủ yếu là vì lợi ích
kinh tế vì mối quan tâm hàng đầu của đa số các cổ đông là cổ tức. Lợi ích
kinh tế của các cổ đông gắn chặt với CTCP trong suốt quá trình tồn tại và hoạt
động của nó. Để đảm bảo lợi ích cho các cổ đông, để tồn tại và phát triển,
CTCP phải hoạt động có hiệu quả. Để hoạt động có hiệu quả CTCP phải sử
dụng một cách hợp lí các nguồn vốn. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của
CTCP phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức, quản lí sử dụng vốn. Các cổ đông
với tư cách là chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá, lựa chọn
phương án đầu tư, lựa chọn cách thức, hình thức tập trung huy động vốn cũng
như quản lí và sử dụng vốn. Các chủ sở hữu của CTCP có thể tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc quản lí, sử dụng vốn, tham gia vào việc huy động
vốn, quyết định các giao dịch lớn cũng như định đoạt các tài sản của CTCP
thông qua cơ quan quyền lực của mình là ĐHĐCĐ. Những quyết định đã được
ĐHĐCĐ thông qua sẽ được HĐQT cơ quan quản lí điều hành hoạt động của
CTCP thực thi. Tại Đại hội cổ đông, HĐQT phải thông qua báo cáo tài chính
hàng năm. Báo cáo tài chính của CTCP bao gồm bản cân đối kế toán và bản
quyết toán tài chính, thông qua báo cáo tài chính các cổ đông sẽ nắm bắt được
hoạt động kinh doanh cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của CTCP.
Đồng thời báo cáo tài chính của CTCP phải nộp cho cơ quan đăng ký kinh
doanh và cơ quan thuế, để các cơ quan này kiểm tra hoạt động kinh doanh của
CTCP. Từ đó các cổ đông có thể xem xét và quyết định phương thức quản lí,
sử dụng vốn nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay các CTCP nói
riêng và các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo qui định của Luật


18


doanh nghiệp nói chung không thực hiện chế độ báo cáo tài chính hàng năm.
Theo thống kê của Sở Kế hoạch - Đầu tư Hà Nội trên địa bàn Hà Nội có 90%
doanh nghiệp không nộp báo cáo tài chính theo qui định của Pháp luật, trong
khi đó cả nước có 80% doanh nghiệp không nộp báo cáo tài chính [36, tr. 41].
Đối với CTCP nếu không nộp báo cáo tài chính các cổ đông không thể biết
thực trạng kinh doanh, thực trạng tài chính cũng như kết quả kinh doanh của
CTCP. Điều này làm ảnh hưởng trước hết đến lợi ích của các cổ đông, vi phạm
các qui định của Luật doanh nghiệp .
1.2.2. CÔNG TY C ổ PHẨN VỚI VIỆC TẬP TRUNG VốN VÀ DÂN CHỦ
HOÁ ĐỜI SỐNG DOANH NGHIỆP.

*

Một trong những ưu thế của CTCP so với các doanh nghiệp khác là

khả năng tập trung và huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện thông
qua việc phát hành rộng rãi các loại chứng khoán ra công chúng để gọi vốn.
Chính nhờ tính chất chuyển nhượng dễ dàng của cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán mà CTCP có những lợi thế hơn hẳn trong việc huy động vốn so
với các loại hình doanh nghiệp có vốn góp khác như công ty TNHH có hai
thành viên trở lên, HTX. Trong công ty TNHH có hai thành viên trở lên, việc
góp vốn của các thành viên được thực hiện một cách trực tiếp, không phải
mua cổ phần hoặc cổ phiếu, tính chất chuyển nhượng vốn không được thực
hiện tự do dễ dàng. Vì vậy, công ty TNHH muốn huy động vốn đồng nghĩa
với việc phải kết nạp thêm thành viên mới hoặc tăng phần vốn góp của các
thành viên. Như vậy, công ty sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh khi người đầu tư mới chỉ muốn trở thành thành viên

“tạm trú” và các cổ đông hiện hành không muốn thay đổi phần vốn góp của
mình.
Trong CTCP việc gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh được thực
hiện chủ yếu bằng cách phát hành cổ phần. Đặc trưng của cổ phần là tính
chuyển nhượng dễ dàng, tính thanh khoản cao. Điều này làm cho công chúng

19


thích mua cổ phiếu của CTCP để tìm kiếm lợi nhuận mà không sợ đồng vốn
của mình bị cột chặt vào trong công ty. Họ có thể luân chuyển vốn đầu tư từ
công ty này sang công ty khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác một cách
dễ dàng thông qua việc mua, bán, chuyển nhượng cổ phẩn trên thị trường thứ
cấp. Có thể nói phát hành cổ phần là một kênh huy động vốn rất hiệu quả của
CTCP, khiến cho loại hình công ty này không chỉ có sức hút, sức hấp dẫn đối
với các nhà kinh doanh mà còn cả đối với công chúng. “Không có sáng kiến
tìm ra cổ phiếu thì không nghĩ đến sự phát triển, c ổ phiếu đã trở thành công
cụ đ ể chuyển những dành dụm trong mọi tầng lớp dân cư vào đầu tư sản
xuất. C ổ phiếu tạo điều kiện tách bạch chức năng của nhà cấp vốn. Một
người cỏ tài kinh doanh có th ể trở thành nhà kinh doanh ngay khi anh ta
không giàir[32]. Trong tất cả các kênh huy động vốn của doanh nghiệp nói
chung, việc phát hành cổ phần, trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả
nhất, giúp cho CTCP tập trung không những được nguồn vốn trong nước mà
đặc biệt còn huy động được nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện
nay các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần tại doanh nghiệp theo qui
định của pháp luật Việt Nam. Đây là bước tiến của pháp luật Việt Nam nhằm
thu hút vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời làm
cho pháp luật của Việt Nam tương thích với pháp luật của các nước trong khu
vực và trên thế giới, làm cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động hơn khi
có các nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Với thành phần cổ đông bao gồm cổ

đông trong nước, cổ đông Nhà nước (đối với DNNN cổ phần hoá), và cổ
đông là các nhà đầu tư nước ngoài các CTCP sẽ có tiềm lực kinh tế mạnh
hơn, đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong nền kinh tế.
*

Do tính chất đa sở hữu, cơ chế quản lí của CTCP phụ thuộc vào các

chủ sở hữu tùy theo mức độ góp vốn. Vì vậy, so với các loại doanh nghiệp
khác CTCP là sự biểu hiện rõ nét nhất tính dân chủ trong hoạt động kinh
doanh cũng như trong tổ chức quản lý. Tuy nhiên, cần khẳng định đây là nền

20


dân ọhủ cổ phần, tức là nền dân chủ dựa vào sức mạnh đóng góp của cổ
đông. Nền dân chủ cổ phần hầu như không mang sắc thái chính trị mà chủ
yếu mang sắc thái kinh tế. Cơ chế quản lý và đời sống của CTCP nói chung
chứa đựng nhiều yếu tố dân chủ hơn so với các loại hình doanh nghiệp một
chủ như DNNN, DNTN. Trong DNNN, cơ chế quản lý hoạt động của doanh
nghiệp do Nhà nước chi phối với tư cách là chủ sở hữu. Như vậy, cách thức tổ
chức quản lý của DNNN vãn mang tính mệnh lệnh hành chính. Đối với
DNTN, do tính chất đặc thù một cá nhân đầu tư vốn, tổ chức quản lý. Vì vậy,
toàn bộ hoạt động của DNTN đều do một cá nhân quyết định và định đoạt,
do đó không thể có tính dân chủ trong hoạt động của DNTN.
Trong CTCP với tính chất đa chủ sở hữu tham gia góp vốn. Vì vậy,
quyền lực của CTCP không nằm trong tay một cá nhân mà thuộc về tất cả các
cổ đông góp vốn với tư cách là chủ sở hữu thông qua nguyên tắc hoạt động
đặc trưng của CTCP là dựa trên nền dân chủ cổ phần. Các cổ đông có quyền
bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến sự tồn tại và
phát triển của CTCP như: bầu thành viên của HĐQT, quyết định các loại cổ

phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hàng
năm của từng loại cổ phần, việc tổ chức lại, chia tách, sáp nhập, giải thể
CTCP... đều do các cổ đông bàn bạc dân chủ và quyết định tại cơ quan
quyền lực cao nhất của mình, đó là ĐHĐCĐ.
1.2.3. CÔNG TY C ổ PHẨN VÓI TIÊN TRÌNH c ổ PHẨN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC

CỔ phần hoá là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Mục đích, yêu cầu, các giải pháp và tiến trình cổ phần hoá đã được nói rõ
trong nhiều văn kiện của Đảng cũng như trong nhiều văn bản pháp luật của
Nhà nước. Việc cổ phần hoá DNNN nhằm hướng tới hai mục tiêu cơ bản.

21


Thứ nhất, huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước, để đầu tư đổi mới công nghệ,
phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, tạo thêm việc làm, thay đổi
cơ cấu DNNN.
Thứ hai, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ
phần và những người góp vốn được làm chủ thực sự. Thay đổi phương thức
quản lý, tạo động lực để thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, nâng
cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước [35,
tr. 36-38].
Hiện nay trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN vẫn còn
mang nặng dấu ấn của cơ chế hành chính mệnh lệnh, xuất phát từ đặc trưng
cơ bản của DNNN là do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp kinh
doanh không hiệu quả, không bảo toàn được vốn của Nhà nước. Vì vậy,
chuyển DNNN thành CTCP với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư không chỉ

vào việc góp vốn mà vào cả quá trình quản lý doanh nghiệp một cách thực sự
dựa trên nguyên tắc dân chủ cổ phần, thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có
hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trương Đảng khoá IX đã nói
rõ: “Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhằm tạo ra loại hình
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, đ ể
sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn của xã
hội đ ể phát triển sản xuất, kinh doanh; tạo động lực mạnh m ẽ và cơ ch ế quản
lý năng động, cố hiệu quả cho doanh nghiệp Nhà nước, phát huy vai trò làm
chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của
x ã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh
nghiệp và người lao động, c ổ phần ho á doanh nghiệp Nhà nước không được
biến thành tư nhân hoá doanh nghiệp” [ 1, tr.ll].

22


Để thực hiện cổ phần hoá từ năm 1992 đến nay Đảng và Nhà nước rất
quan tâm và chủ trương đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá (tính đến cuối tháng
11 năm 2002 cả nước có 907 doanh nghiệp cổ phần hoá). Tuy nhiên, tiến trình
thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp diễn ra còn chậm, còn gặp nhiều vướng
mắc về cơ chế chính sách, về chính sách ưu đãi đối với người lao động, về tổ
chức quản lý, về việc quyết định phương án kinh doanh và soạn thảo điều lệ.
Nhưng vướng mắc cơ bản nhất là việc xử lý tài chính và xác định giá trị doanh
nghiệp trước khi cổ phần hoá. Để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, để đẩy
nhanh tiến trình cổ phần hoá, để thực hiện Nghị quyết Trung ương ba khoá IX,
ngày 19 tháng 6 năm 2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/2002/NĐ-CP
về chuyển DNNN thành CTCP thay thế cho Nghị định 44 CP. Nghị định 64
CP đã qui định cụ thể về việc xử lí tài chính và xác định giá trị của doanh
nghiệp trước khi cổ phần hoá như xác định và xử lý tài sản thuê, mượn, góp

vốn liên doanh, liên kết, các khoản nợ phải thu, phải trả, các khoản dự phòng
và lãi chưa phân phối, tài sản góp vốn liên doanh với nước ngoài. Với những
quy chế xử lý tài chính và xác định giá trị tài sản, giá trị doanh nghiệp trước
khi cổ phần hoá nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN [36, tr.
15,16], [8, tr. 20,21].
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả hạn chế của tiến trình cổ
phần hoá là sự thiếu hoàn chỉnh trong nền tảng pháp lý cho hoạt động của
CTCP. Trong 8' vứxm trước khi ban hành Luật doanh nghiệp 1999, các DNNN
cổ phần hoá không thể hoạt động một cách có hiệu quả vì nhiều vấn đề đặt ra
từ thực tiễn hoạt động không tìm được lời giải đáp trong Luật công ty 1990 và
trong các văn bản hướng dẫn thi hành. Vấn đề vốn, vấn đề đại diện, vai trò của
cổ đông sáng lập, cơ chế bỏ phiếu, cơ chế hình thành HĐQT, thẩm quyền và
mối quan hệ giữa các bộ phận cơ cấu quyền lực trong CTCP chưa được xác
định rõ trong pháp luật, khi thực tiễn nước ta chưa coi trọng điều lệ công ty.
DNNN cổ phần hoá thường chuyển sang hoạt động như những CTCP. Việc
hoàn thiện các qui định pháp luật điều chỉnh hoạt động của CTCP, khiến cho

23


×