Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tiểu luận lý thuyết tài chính thực trạng thị trường chứng khoán phái sinh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.28 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã chính thức ra nhập WTO, gia nhập vào thị trường quốc tế ngày
càng có nhiều khó khăn và thách thức đối với các tổ chức doanh nghiệp ở Việt Nam,
những cạnh tranh khốc liệt trên thị trường kinh tế thế giới. Chính lúc này, sự quan
tâm của các nhà đầu tư tới một công cụ tài chính nhằm phòng chống, giảm thiểu
được những rủi ro, những biến động của thị trường ngày càng lớn. Yêu cầu này tăng
cũng đồng nghĩa cần phải hình hành thị trường chứng khoán phái sinh để có thể đáp
ứng được nhu cầu trên. Các công cụ chứng khoán phái sinh phát triển không những
có ý nghĩa trong việc phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro. Mà nó cũng là cơ sở nền
tảng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và các hoạt động tài
chính nói chung.
Với đề tài nghiên cứu: “Thực trạng thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt
Nam” tôi sẽ cung cấp những lý thuyết cơ bản nhất về thị trường chứng khoán phái
sinh; để người đọc có thể hiểu về những công cụ đó, biết cách áp dụng các công cụ
đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Phân tích và đánh giá thực trạng thị trường
chứng khoán phái sinh tại Việt Nam, tìm ra các hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
dẫn đến những hạn chế còn tồn tại trong thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt
Nam. Những điều kiện cần thiết cho thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam.
Đề xuất một lộ trình những bước đi cho thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
trong gia đoán sau, đưa ra những giải pháp và kiến nghị để phát triển thị trường phái
sinh trong thời gian này, sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.

Nguyễn Thị Vân

1

MSSV: 1814410233


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÍ THUYẾT VỀ CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH


1.1 Chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh (CKPS) là những tài sản tài chính mà giá trị của nó
phụ thuộc vào giá trị hoặc mức độ sinh lời của một tài sản khác được gọi là tài sản
cơ sở. CKPS được thể hiện dưới dạng hợp đồng hay thỏa thuận giữa bên mua và
bên bán quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng đối với
việc thanh toán hoặc chuyển giao tài sản cơ sở trong tương lai theo các điều kiện đã
thỏa thuận trước.
Tài sản cơ sở có thể là hàng hóa hữu hình như thực phẩm, nông sản, kim
loại.... hoặc tài sản tài chính thông dụng như cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, tỷ giá,
ngoại tệ, chỉ số chứng khoán… Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản:
* Hợp đồng kỳ hạn (Forwards):
Hợp đồng kỳ hạn là chứng khoán phái sinh giao dịch thỏa thuận, xác nhận
cam kết mua hoặc bán một số lượng tài sản cơ sở nhất định theo một mức giá đã
được xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai được ấn định trên hợp
đồng.
Hợp đồng kỳ hạn cho phép các nhà đầu tư thanh toán và thỏa thuận trực tiếp
các điều khoản trong hợp đồng nên có thể đáp ứng nhu cầu cụ thể của các nhà đầu
tư nhưng lại khó chuyển nhượng lại cho bên thứ ba. Các bên tham gia hợp đồng còn
có thể phải chịu rủi ro tín dụng của nhau nếu một bên mất khả năng thanh toán. Hơn
nữa thường không có cơ quan quản lý và cơ chế quy định việc đảm bảo thực hiện
Nguyễn Thị Vân

2

MSSV: 1814410233


đúng nghĩa vụ trong hợp đồng nên các nhà đầu tư có thể đứng trước nguy cơ đối tác
không thực hiện đúng hợp đồng.
* Hợp đồng tương lai (Futures):

Hợp đồng tương lai là chứng khoán phái sinh niêm yết, trong đó xác nhận cam
kết giữa các bên để thực hiện mua (bán) một số lượng tài sản cơ sở nhất định theo
một mức giá đã được xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai được ấn
định trong hợp đồng.
Hợp đồng tương lai được xem như là hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa vì các
điều khoản, điều kiện trong hợp đồng được tạo ra và chuẩn hóa bởi Sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK) nên hợp đồng tương lai có tính thanh khoản cao, tuy nhiên
các bên tham gia không có quyền thương lượng về điều khoản và điều kiện chuẩn
của hợp đồng, người mua và người bán chỉ có quyền thỏa thuận giá cả hoặc hợp
đồng thông qua SGDCK nên không thể đáp ứng linh hoạt yêu cầu cụ thể của các
nhà đầu tư. SGDCK là cơ quan đứng ra xây dựng, niêm yết chứng khoán đồng thời
đóng vai trò trung gian thanh toán, quản lý nghĩa vụ thanh toán của nhà đầu tư nên
rủi ro tín dụng của hợp đồng tương lai thấp, đảm bảo tính minh bạch và công bằng
cho tất cả các nhà đầu tư.
* Hợp đồng quyền chọn (Options):
Hợp đồng quyền chọn là chứng khoán phái sinh xác nhận quyền của người
mua và nghĩa vụ của người bán đối với các giao dịch mua hoặc bán một số lượng tài
sản cơ sở hoặc hợp đồng tương lai nhất định theo một mức giá xác đinh trước tại
thời điểm trong tương lai theo thỏa thuận hợp đồng. Người mua hợp đồng quyền

Nguyễn Thị Vân

3

MSSV: 1814410233


chọn có quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền mua hoặc bán tài sản cơ sở
của mình. Có 2 kiểu hợp đồng quyền chọn:
- Hợp đồng kiểu Mỹ (American style): người mua hợp đồng quyền chọn có

quyền thực hiện HĐ vào bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn.
- Hợp đồng kiểu Châu Âu (European style): người mua hợp đồng quyền chọn
chỉ được thực hiện hợp đồng vào thời điểm hợp đồng hết hạn.
* Hợp đồng hoán đổi (Swaps):
Hợp đồng hoán đổi là chứng khoán phái sinh trong đó hai bên cam kết hoán
đổi dòng tiền của công cụ tài chính một bên với dòng tiền công cụ tài chính bên còn
lại trong một khoảng thời gian nhất định.
* Đặc điểm của CKPS:
Thứ nhất, giá trị của CKPS thay đổi theo sự thay đổi về giá của tài sản cơ sở.
Thứ hai, CKPS không yêu cầu đầu tư ban đầu hoặc yêu cầu đầu tư ban đầu
thấp hơn so với các loại hợp đồng khác.
Thứ ba, việc mua/bán CKPS được thanh toán vào một ngày trong tương lai
được quy định trong hợp đồng phái sinh. Việc thanh toán này có thể được thực hiện
hoặc bằng vật chất (Physical Delivery) hoặc bằng tiền (Cash Settlement).
1.2 Thị trường chứng khoán phái sinh
Thị trường chứng khoán phái sinh (TTCKPS) là nơi diễn ra hoạt động mua
bán và giao dịch các CKPS, là nơi xác lập giá trị của tài sản trao đổi dựa trên quan
hệ cung - cầu thị trường.
Nguyễn Thị Vân

4

MSSV: 1814410233


Căn cứ theo hình thức tổ chức TTCKSP được phân loại thành:
- Thị trường tập trung (SGDCK): là thị trường mua đi bán lại liên tục các
CKPS được niêm yết bởi SGDCK (Giao dịch hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền
chọn)
- Thị trường phi tập trung (OTC): là thị trường giáo dịch các CKPS không

được niêm yết trên SGDCK (Giao dịch Hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn và
hợp đồng hoán đổi).
* Thành viên của thị trường chứng khoán phái sinh:
- Người đầu tư: họ sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ rủi
ro do họ luôn phải đối mặt với những rủi ro do biến động giá cả của các sản phẩm
chính.
- Người đầu cơ: với tâm lý muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả của
sản phẩm chỉnh nên họ sử dụng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt.
- Người cơ lợi (thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro): bằng cách sử dụng
chênh lệch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả
các nghiệp vụ phái sinh để hưởng chênh lệch giá.
1.3 Vai trò của Chứng khoán phái sinh và Thị trường chứng khoán phái
sinh
CKPS và TTCKPS có vai trò lớn giúp hoàn thiện và phát triển thị trường tài
chính, tăng sức hấp dẫn của thị trường đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Nguyễn Thị Vân

5

MSSV: 1814410233


Thứ nhất, việc ra đời CKPS làm đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường chứng
khoán, giúp cho các nhà đầu tư có thêm nhiều lựa chọn và cơ hội đầu tư, tạo điều
kiện cho các nhà kinh doanh đầu cơ, kinh doanh chênh lệch giá tìm kiếm lợi nhuận.
Thứ hai, CKPS giúp giá của tài sản cơ sở được xác định hợp lý hơn thông qua
cơ chế tác động giá giữa thị trường phái sinh và thị trường cơ.
Thứ ba, CKPS và TTCKPS là giải pháp hiệu quả thay thế các giao dịch thị
trường tiền mặt và góp phần tăng khả năng huy động, phân bổ nguồn lực, nguồn

vốn; tăng tính thanh khoản cho thị trường.
Thứ tư, tạo ra công cụ phòng ngừa và quản lý rủi ro, nhất là rủi ro tỷ giá, rủi ro
lãi suất, rủi ro vỡ nợ tín dụng và rủi ro giá chứng khoán… khi có biến động giá của
tài sản cơ sở.
Thứ năm, các sản phẩm chứng khoán phái sinh đem lại một số lợi ích riêng
biệt nổi bật đối với các định chế tài chính như: tăng thu dịch vụ; đáp ứng tốt hơn
nhu cầu khách hàng bằng sản phẩm chuyên biệt, thiết kế theo nhu cầu khách hàng;
đa dạng hóa khách hàng; tăng năng lực cạnh tranh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI
SINH Ở VIỆT NAM
2.1 Khái quát về thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam
- Lịch sử của thị trường chứng khoán phái sinh được bắt đầu từ thị trường
nông phẩm - sản phẩm thiết yếu của con người. Những năm “mưa thuận gió hòa”,
nông phẩm dồi dào, sử dụng dư thừa; những năm thời tiết khắc nghiệt, nông phẩm
trở nên khan hiếm, đắt đỏ. Trong từng năm, cũng có những nghịch lý giữa các kỳ
Nguyễn Thị Vân

6

MSSV: 1814410233


giáp hạt và sau mùa vụ thu hoạch. Vì thế, từ thế kỷ thứ XI - XII, tại châu Âu và
Nhật Bản, trên thị trường nông phẩm, bên cạnh các giao dịch “tiền trao cháo múc”,
các nhà buôn và các nông gia đã thực hiện mua bán kỳ hạn, bằng các cam kết tay
đôi, mua bán trước, giao nhận hàng sau, theo các kỳ hạn xác định nhằm giảm thiểu
rủi ro về giá cho người sản xuất và tiêu thụ, qua đó điều tiết sản xuất. Việt Nam tuy
là một nền kinh tế nhỏ, nhưng đã là một nước xuất khẩu lớn, nông phẩm xuất khẩu
được đánh giá là mặt hàng tiềm năng.
- Thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam bắt đầu ra đời 20/07/2000

được đánh dấu bởi sự kiện đưa trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ
Chí Minh đi vào hoạt động từ đó đến nay thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam
kỷ niệm hơn 20 năm thành lập. Dù đã có nhiều năm phát triển nhưng để sản phẩm
chứng khoán phai sinh phù hợp với thị trường chứng khoán Việt Nam là không hề
đơn giản.
- Thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam vấn còn rất non trẻ chưa có
các công cụ đầu tư đa dạng và còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác.
- Ngân hàng thương mại tiên phong trong thị trường này tại Việt Nam là
BIDV. Bắt đầu kinh doanh sản phẩn phái sinh từ năm 2003, BIDV phát triển công
cụ phái sinh có gốc từ tỷ giá, dưới dạng hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi là
chủ yếu. Năm 2002, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM (nay là Sở giao
dịch) hợp tác với một tổ chức tài chính Hoa Kỳ tổ chức Sàn giao dịch kỳ hạn hạt
điều. Năm 2004, UBND tỉnh Đắk Lắk cho ra đời Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn
Ma Thuột và Ngân hàng TMCP Techcombank cung cấp dịch vụ môi giới giao dịch
mua bán cà phê trên các thị trường cà phê quốc tế. Năm 2005, Quốc hội ban hành
Nguyễn Thị Vân

7

MSSV: 1814410233


Luật Thương mại, trong đó có quy định giao dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng
hóa. Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 158/2006/NĐ-CP hướng dẫn hoạt
động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Năm 2010, Công ty TNHH
Triệu Phong cho ra đời Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, giao dịch quyền lựa chọn
về cà phê, cao su và sắt thép. Năm 2011, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước bắt đầu
xây dựng đề án và tổ chức nhiều cuộc hội thảo về TTCKPS. Tuy nhiên, cho đến
nay, các hoạt động kể trên vẫn chưa có kết quả cụ thể: Sàn giao dịch hạt điều không
có phiên giao dịch thứ hai; Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột hiện vẫn

chưa biết phải bắt đầu từ đâu; Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam đã phải đóng cửa
sàn giao dịch sau gần ba năm khai trương hoạt động; giao dịch mua bán cà phê qua
Techcombank có kết quả rất hạn chế, bởi trong hoạt động này, Techcombank chỉ là
một tổ chức môi giới của một tổ chức môi giới ở nước ngoài.
- Cho đến nay, đã 3 công cụ phái sinh chính, bao gồm: phái sinh tiền tệ, lãi
suất, hàng hóa và một công cụ mới.
- Hầu hết các sản phẩm phái sinh được giao dịch trên thị trường phi tập trung
(OTC), do chưa có một thị trường giao dịch tập trung. Hiện nay các tổ chức tín
dụng cung cấp và khách hàng doanh nghiệp có nhu cầu tự tìm đến với nhau. Những
hình thức và sản phẩm còn rất manh nha, chưa đồng bộ nên đã có những tác động
tiêu cực tới thị trường chung , giao dịch vẫn đơn điệu, phổ biến chỉ là cổ phiếu phổ
thông và một ít chứng chỉ quỹ đầu tư. Hàng triệu người đầu tư Việt Nam đã và đang
đầu tư “chay”, đến nay vẫn chưa có công cụ bảo hiểm. Nhiều chuyên gia tài chính
trong và ngoài nước đồng nhất quan điểm đã đến lúc thị trường chứng khoánViệt
Nam nên xem xét đưa vào vận hành các sản phẩm mới có hiệu ứng đòn bẩy cao.

Nguyễn Thị Vân

8

MSSV: 1814410233


Đối tượng tham gia chủ yếu là Ngân hàng thương mại nước ngoài và nội địa lớn,
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước hoat
động kinh doanh chứng khoán phái sinh dường như rất hạn chế, thâm chí không hề
tham gia.
- Chứng khoán không phải là lĩnh vực đầu tiên xây dựng sản phẩm phái sinh ở
Việt Nam. Minh chứng là từ cuối năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
158/2006/NĐ- CP thiết lập thị trường phái sinh hàng hóa tập trung.

- Ở Việt Nam hiên nay chưa có một thông tư nghị định riêng nào được xây
dựng cho thị trường chứng khoán phái sinh Những công cụ cơ sở cho các CKPS tài
chính : Hiện tại Việt Nam chưa có các giao dịch phái sinh tài chính mà công cụ cơ
sở là hàng hóa trên thị trường chứng khoán, nhưng trên thực tế, các giao dịch phái
sinh tài chính thực hiện từ vài năm gần đây trên thị trường Ngân hàng và kim loại
quý.
- Bộ Tài chính và Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã đưa ra lộ trình xây dựng
Nghị định về chứng khoán phái sinh trình Chính phủ vào cuối năm 2013. Quá trình
chuẩn bị và các văn bản thông tư hướng dẫn chi tiết để vận hành sẽ đưa ra vào đầu
năm 2014. Dự kiến, năm 2015-2016 các sản phẩm có thể đưa vào triển khai thực
hiện.
2.2 Nguyên nhân
Thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam chưa phất triển và còn non kém
do:

Nguyễn Thị Vân

9

MSSV: 1814410233


- Từ cuối năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2006/NĐ-CP
thiết lập thị trường phái sinh hàng hóa tập trung và đã giao cho Bộ Công thương chủ
trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn hướng dẫn thực hiện. Nhưng rất tiếc, cho đến nay, cơ quan quản lý
thị trường phái sinh hàng hóa, có vai trò giống như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
vẫn chưa được thành lập nên hoạt động của thị trường này chưa có gì đáng kể.
- Những đối tượng tham gia vào thị trường chứng khoán phái sinh chưa hiếu
rõ hết bản chất của thị trường này nên có thể có một số cái nhìn sai lầm.

- Việt Nam nền kinh tế vẫn còn ở trình độ thấp, nông nghiệp là chủ yếu, lạc
hậu nên khi mở của thị trường ra nhập WTO, thực hiện toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế thì thị trường chứng khoán phái sinh vẫn còn được coi là mới mẻ với chúng
ta.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, trang thiết bị hệ thồng thông tin chưa được
đồng bộ hóa.
- Nguồn nhân lực ở trình độ thấp, tỏ ra nhiều yếu kém, không được đào tạo bài
bản.
- Chúng ta chỉ mới hoàn thành xong lộ trình cổ phần hóa.
2.3 Giải pháp
2.3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý
Yêu cầu về một khung pháp lý hoàn chỉnh và đầy đủ cho hoạt động của thị
trường, cho các đối tượng liên quan và đảm bảo phù hợp khi hoạt động trong nước

Nguyễn Thị Vân

10

MSSV: 1814410233


và kết nối và quốc tế, sự ra đời và phát triển của TTCKPS muốn có sự phát triển an
toàn, lành mạnh, công bằng và bền vững đòi hỏi một khung pháp lý, các văn bản
hướng dẫn thi hành một cách rõ ràng, chặt chẽ và toàn diện. Vì vậy, việc xây dựng
khung pháp lý chặt chẽ và toàn diện là một công việc tất yếu cho việc hình thành và
phát triển thị trường này.
2.3.2 Thông tin, tư vấn công cụ phái sinh đến các nhà đầu tư
Việc thông tin, tuyên truyền và phổ biến kiến thức có thể thực hiện bằng nhiều
cách như: Qua báo đài, TV, các phương tiện thông tin đại chúng… Thành lập trung
tâm tư vấn đầu tư về chứng khoán nói chung và CKPS nói riêng, trung tâm này có

nhiệm vụ đào tạo, cấp chứng chỉ, tư vấn cho các nhà đấu tư, các doanh nghiệp. Đa
dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối
tượng, thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về thị trường chứng khoán cho
công chúng. Cho phép các tổ chức đào tạo chứng khoán nước ngoài có uy tín thực
hiện dịch vụ đào tạo chứng khoán tại Việt Nam. Công nhận các chứng chỉ Quốc tế
trong lĩnh vực chứng khoán.
2.3.3 Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin
Đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị, đồng bộ hóa giải pháp công nghệ thông tin,
gồm hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát, hệ thống công bố và phân phối thông
tin, hệ thống lưu ký, hệ thống thanh toán và bù trừ, hệ thống đăng ký… các hệ
thống phải được xây dựng và thiết kế hiện đại,tiên tiến và theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Hệ thống công bố và phân phối thông tin phải có tính tự động hóa cao, nhằm
đảm bảo tính minh bạch, tức thời, bảo mật và toàn vẹn thông tin.

Nguyễn Thị Vân

11

MSSV: 1814410233


- Hệ thống giám sát trực tuyến có khả năng xử lý các tiêu chí giám sát phức
tạp, có khả năng tái tạo thị trường và đảm bảo truy xuất khối lượng dữ liệu giao
dịch lớn.
- Hệ thống giao dịch hỗ trợ nhiều phương thức giao dịch, nhiều hình thức giao
dịch, hỗ trợ cơ chế chuyển lệnh giao dịch thông sàn từ các công ty chứng khoán,
bảo đảm tự động hóa quy trình của nhà đầu tư, hướng tới mô hình xử lý thẳng.
Từng bước kết nối giao dịch với các SGDCK trong khu vực và trên thế giới. Xây
dựng hệ thống tổng hợp thông tin hiện đại, đồng bộ cho toàn bộ thị trường bao gồm:
Giám sát giao dịch trực tuyến theo thời gian thực, kết nối trực tiếp vào hệ thống

giao dịch và giám sát của các SGDCK đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong
hoạt động theo thông lệ Quốc tế.
2.3.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Để phát triển TTCKPS thì Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần phải có một kế
hoạch đào tạo, phổ biến kiến thức rất cụ thể, chi tiết và có lộ trình theo sự phát triển
của TTCK.
Tiến hành đào tạo các kiến thức cơ bản về chứng khoán và các công cụ tài
chính trong đó cần đặc biệt coi trọng và chú ý đến CKPS và TTCKPS. Sau khi đã
có một số lượng kiến thức cơ bản nhất định giai đoạn tiếp theo đó là quá trình đào
tạo chuyên sâu thậm chí là cấp chứng chỉ hành.
Hình thức đào tạo, có thể đào tạo tập trung, đào tạo cập nhật, phổ biến kiến
thức hoặc tuyên truyền dưới hình thức báo chí, truyền hình…Tuy nhiên, về lâu dài
cần đào tạo bài bản và quy trình cụ thể.

Nguyễn Thị Vân

12

MSSV: 1814410233


CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
- Công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, kĩ thuật tài
chính này đòi hỏi một lộ trình hiểu biết và phát triển nhất định của bất kì nền kinh tế
nào.
- Chứng khoán phái sinh là những công cụ phức tạp và còn nhiều mới mẻ trên
thị trường Việt Nam cần phải nghiên cứu một cách cụ thể rõ ràng để có thể thấu
hiểu và vận dụng chúng một cách có hiệu quả nhất.
- Muốn thị trường chừng khoán phái sinh phát triển thì hàng hóa trên thị
trường phải phong phú đa dạng, khối lượng lớn nhiều chủng loại.

- Việc xây dựng thị trường phái sinh là một mục tiêu quan trọng trong chiến
lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 2011 - 2020. Tuy nhiên,thực trạng
thị trường hiện tại lại đang đặt ra một bài toán khó. Điểm chung mà ai cũng phải
nhìn nhận rằng thị trường phái sinh ở Việt Nam không thể triển khai trong một sớm
một chiều mà cần có thời gian chuẩn bị lâu dài. Vì vậy chúng ta cần đẩy nhanh tiến
độ trông việc phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam một cách có
hệ thống và hoàn thiện nhất.

Nguyễn Thị Vân

13

MSSV: 1814410233


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Thị Khánh Ly, “Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán
pháo sinh tập trung – Cơ sở thực tiễn, lý luận và những thách thức đặt ra”, Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước.
2. Nghị định số 42/2015/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng
khoán phái sinh.
3. Giáo trình môn Thị Trường Chứng Khoán, Học viện Ngân Hàng.
4. Quyết định số 366/QĐ-TTg: Phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển thị
trường chứng khoán phái sinh Việt Nam.

Nguyễn Thị Vân

14

MSSV: 1814410233




×