Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

tiểu luận lý thuyết tài chính ảnh hưởng của CMCN 4 0 đến hoạt động quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.69 KB, 50 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa sự phát triển của thi
trường tài chính (TTTC) với sự phát triển kinh tế nói chung, cụ thể: thi trường tài
chính giữ vai trò to lớn đối với sự phát triển đất nước, mang tính quyết đinh một phần
lớn vào việc phục vụ hiệu quả các hoạt động kinh tế – xã hội của nền kinh tế quốc
dân. Hơn nữa, tình hình hoạt động của thi trường tài chính trong nước ảnh hưởng rất
nhiều đến đời sống của người dân nước đó. Thứ ba, trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu
hóa, giao lưu về mọi mặt giữa các nước đang diễn ra sôi nổi hiện nay, mỗi nước, đối
với các nước kém và đang phát triển, đều tự ý thức được rằng thật sự cần thiết để nỗ
lực bắt kip tốc độ phát triển của các nước khác bởi điều này là chiếc chìa khóa vàng
mở ra vô vàn cơ hội tốt cũng như khẳng đinh được vi thế và vi thế này tỉ lệ nghich với
khả năng gặp phải nguy cơ bi chèn ép, đe dọa, chiu thiệt từ các cường quốc. Cuối
cùng và cũng quan trọng nhất, thực trạng của nền kinh tế thi trường đã chứng minh
rằng lí thuyết bàn tay vô hình tỏ ra không đúng triệt để vì thực tế thi trường luôn tồn
tại khuyết tật của nó như tình trạng thông tin bất cân xứng, mất công bằng xã hội,
ngoại ứng, độc quyền,... Đặc biệt, trong lĩnh vực đầu tư tài chính, thường xuyên xảy ra
hiện tượng "người đi nhờ xe”mà tư nhân không thể tự mình giải quyết được. Chẳng
hạn đối vưới TTCK, vẫn còn tồn tại tình trạng không công khai hoặc sửa đổi báo cáo
tài chính để trình ra kết quả đẹp, mua bán thông tin nội bộ hay tung tin thất thiệt về
tình hình hoạt động của 1 công ty nào đó để đầu cơ, trục lợi, chủ ý gây xáo trộn thi
trường,… Mặc dù đã có các qui đinh xử phạt, các điều luật nhằm ngăn chặn các hành
vi gian lận này nhưng thực chất, rất khó đảm bảo cho những việc làm xấu này tuyệt
đối không diễn ra, nhất là nó thường mang lại cho chủ thể hành động số tiền lớn. Đặc
biệt trong bối cảnh CNTT bùng nổ như hiện nay - bối cảnh để đặt QLNN với TTTC
vào nghiên cứu theo chủ đề bài tiểu luận, các hành vi thiếu tính minh bạch này lại diễn
ra ngày càng tinh vi, phức tạp, khó phát hiện vì sự việc không chỉ được thực hiện bởi
một người mà có khi là sự cấu kết của nhiều người ở nhiều chức vi, nhiều bộ phận
khác nhau, trong đó có cả tội phạm công nghệ cao. Hơn hết, Nhà nước chứ không thể
là ai khác mới có khả năng giải quyết các vấn đề này. Vì vậy, công tác quản lí thi
1




trường này của Nhà nước phải luôn được chú trọng. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ
không hề nhẹ nhàng và dễ dàng với các nhà chức trách mà nếu thực hiện không tốt se
gây ra những hậu quả không lường trước được với phạm vi ảnh hưởng rộng lớn, khó
khắc phục. Bên cạnh đó, dường như trước bối cảnh thực tế này, việc quản lí thi trường
tài chính của các nước ít nhiều vẫn còn tồn tại hạn chế. Ngoài ra, cuộc cách mạng lần
thứ tư này được dự đoán ngày càng bùng nổ và tầm ảnh hưởng ngày càng mở rộng.
Từ việc phân tích để đưa ra được hai nguyên nhân trên, chúng ta nhận thấy tính cấp
thiết của việc phân tích sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đối với công
tác quản lí thi trường tài chính của Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về TTTC và quản lí Nhà nước đối với sự
phát triển của TTTC trong thời đại công nghệ 4.0.
- Nêu lên thực tiễn hoạt động của TTTC trước bối cảnh của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư nhằm làm rõ tác động của cuộc cách mạng này tới tình hình phát
triển TTTC hiện nay (giai đoạn 2015 – 2020) so với trước đây khi chưa có sự bùng
nổ CNTT.
- Đánh giá những thành tựu cũng như chỉ ra những hạn chế, bất cập của Nhà nước
trong việc thực hiện chức năng quản lí đối với TTTC trong thời đại 4.0.
- Đề xuất giải pháp nhằm củng cố việc lấp đầy các lỗ hổng để xây dựng cơ chế quản
lí hoàn thiện hơn, tạo điều kiện cho đất nước ngày càng phát triển.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu những chủ trương, chính sách mà Nhà nước
đã và dự kiến ban hành cũng như cách thức tổ chức, điều hành, giám sát mới để thích
ứng đối với sự biến đổi đang diễn ra trên thi trường tài chính. Đặc biệt, bài tiểu luận đi
sâu phân tích, cốt yếu để trả lời hai câu hỏi: thứ nhất là "Cuộc cách mạng công nghệ
4.0 đã mang lại sự thay đổi gì cho các hoạt động của TTTC và biểu hiện cụ thể ra
sao?”, thứ hai là "Trước những thay đổi ấy, Nhà nước đã làm gì để tạo điều kiện phát

triển cho TTTC để bắt kip xu thế tiến bộ chung của thi trường?"
3.2. Phạm vi nghiên cứu:

2


Bài tiểu luận chỉ nghiên cứu quản lý nhà nước đối với thi trường tài chính ở
riêng Việt Nam trong giai đoạn 2015 – 2020. Để làm rõ vấn đề này, bài viết nhìn nhận
TTTC thông qua TTCK và TTTT. Đối với TTCK, người viết phân tích sự quản lý của
nhà nước trên phương diện là quản lý các yếu tố cấu thành thi trường, bao gồm quản
lý cung – cầu trên TTCK, quản lý giá và quản lý sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham
gia trao đổi trên TTCK. Còn đối với TTTT, bài viết lại tập trung phân tích dựa trên
chức năng, nghiệp vụ của nhà nước mà đại diện là NHTW nhằm mục tiêu giám sát và
điều tiết TTTT.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu trong nước
Thi trường tài chính và hiệu quả hoạt động của thi trường này dựa trên sự quản lí
của nhà nước giữ vai trò then chốt đối với sự thinh suy của một đất nước. Cho nên,
đào sâu phân tích và mở rộng lý luận về vấn đề này là đề tài không bao giờ cũ trong
các bài tiểu luận của sinh viên, luận văn, luận án của thạc sĩ, tiến sĩ,…vì tuy chủ thể
nghiên cứu trước sau chỉ có một nhưng nó lại luôn thay đổi liên tục và có nhiều cách
nhìn nhận, nhiều yếu tố để chọn ra tập trung bàn luận.
Nhìn chung, các bài viết nói về QLNN lên TTCK không thiếu. Hầu như công
trình nghiên cứu nào, dù ít dù nhiều cũng đều đã góp phần làm rõ và hệ thống những
lý luận cơ bản về TTCK như: đinh nghĩa, các chủ thể tham gia, mô hình QLNN lên

TTCK, các cách phân loại TTCK, các hàng hóa được trao đổi trên thi trường này, giải
pháp để khắc phục các yếu kém trong quản lí,… Tuy nhiên, mỗi công trình, có thể do
khuôn khổ độ dài qui đinh hay năng lực hoặc ý chí của người viết mà phần lớn đều lựa
chọn phân tích QLNN đối với TTCK chỉ có thể chú trọng gắn với một chủ thể hay một
nhiệm vụ, bàn về một giải pháp,... nào đó. Ta có thể tìm thấy nhiều công trình về đủ
các chủ đề liên quan đến việc quản lí TTCK của nhà nước: luận án tiến sĩ “Quản lí nhà
nước đối với công ty chứng khoán ở Việt Nam” ( Ngiên cứu sinh Nguyễn Khánh
Toàn, Học viện Hành chính quốc gia, 2017), luận văn “ Cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt
động của các công ty niêm yết trên thi trường Hà Nội ( Th.s Nguyễn Tấn Vinh, Đại
học Đà Nẵng, 2017), “Vai trò của quĩ ETF trong sự phát triển thi TTCK Việt Nam”,
các đề tài nghiên cứu khoa học do UBCKNN đặt ra như "Xây dựng mô hình quản tri
rủi ro dành cho các công ty niêm yết", "Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công
chức, viên chức UBCKNN”, bài viết “ Thực trạng và giải pháp hoàn thiện thể chế thi
trường chứng khoán Việt Nam”,... Những nghiên cứu về QLNN với TTCK nói chung,
không đặt vào bất kì hoàn cảnh, xu hướng nào thì vô kể nhưng cũng đối tượng nghiên
cứu ấy mà đặt trong trường hợp cụ thể ở đây là tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 thì dường như còn vắng bóng. Người ta nhắc rất nhiều đến cụm từ "công
nghệ 4.0” nhưng ít thấy một luận văn, luận án,... viết về sức ảnh hưởng của nó lên
4


TTCK mà cụ thể là chỉ ra biểu hiện tác động, cách mà nhà nước phản ứng lại, hay bàn
về làm thế nào để cải thiện công tác quản lí,... mà nếu có thì chỉ thấy nhiều trên báo
những nội dung chung chung khẳng đinh sự bùng nổ của 4.0 và sức ảnh hưởng của nó
đến lĩnh vực tài chính ngân hàng - tài chính nói chung như giảm bớt chi phí chi các
thủ tục hành chính công, hạn chế tình trạng người có quyền sách nhiễu, đòi hỏi, gây
khó khăn khi người dân có nhu cầu cần được giải quyết,...hoặc đề cập đến thi trường
chứng khoán nhưng dưới góc độ là ảnh hưởng của 4.0 lên cách thức giao dich, kinh
doanh dich vụ của các công ty chứng khoán, công ty và những khó khăn nảy sinh ra từ
cách thức hoạt động mới ấy, ví dụ: bài báo "Làm mới thi trường chứng khoán thời

4.0”, “ Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến thi trường tài chính Việt Nam”,
… Nói về QLNN thời 4.0, người ta thường bàn về các giải pháp nâng cao chất lượng
quản lí, giám sát, đảm bảo hoạt động trên thi trường diễn ra lành mạnh nhiều hơn; từ
tổng hợp những thay đổi diễn ra quá mạnh me, rõ rệt, không ai không thấy rồi sau đó
đúc rút ra một số giải pháp quá khái quát và dường như có thể sử dụng vào các bài viết
cho mọi vấn đề ở các lĩnh vực khác của đất nước như phải cải cách pháp luật, nâng
cao đội ngũ quản lí,…như đề cập trong bài “ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự
tác động đến thi trường chứng khoán Việt Nam” cho đến nêu rõ phải cụ thể hóa những
giải pháp ấy ra sao, ví dụ: bài viết “ Ngành chứng khoán chủ động nắm bắt cơ hội từ
cuộc CMCN 4.0”. Nói tóm lại, đã có những đề cập về ảnh hưởng của công nghệ 4.0
lên công tác QLNN đối với TTCK nhưng chủ yếu là các bài báo ngắn mà chưa thấy
những công trình nghiên cứu bài bản, cụ thể về một phương diện nào đó liên quan đến
đề tài này.
Về phần TTTT, hiện nay, các nghiên cứu trong nước liên quan đến chủ đề này
đều chủ yếu bàn luận làm sao để phát triển và đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng
hoạt động trên thi trường hay nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế. Ví dụ như luận án tiến sĩ “Phát triển thi trường tiền tệ Việt Nam” của Tô Thi
Ánh Dương (đăng trên web Viện hàn lâm và khoa học xã hội Việt Nam năm 2016) hay
một nghiên cứu khác cùng tên cũng về vấn đề này của Đỗ Thi Bích Hồng (2019). Khá
nhiều nghiên cứu đề cập đến giải pháp phát triển TTTT Việt Nam như nghiên cứu của
Nguyễn Thi Kim Thanh (2008), Nguyễn Thi Thành (2013), Tô Thi Ánh Dương
(2016). Trong những nghiên cứu này tuy có đề cập đến sự quản lý của nhà
5


nước nhưng chỉ ở một khía cạnh nhất đinh. Tương tự như vậy, nghiên cứu về sự quản
lý TTTT cũng không thiếu nhưng mỗi bài nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một phần
như sự an toàn trong hoạt động của NHTW, NHTM ví dụ “Hoạt động ngân hàng
ngầm, tác động của nó đến an toàn hệ thống ngân hàng” của Nguyễn Vân Hà (2015);
“Cải thiện chất lượng quản tri công ty nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống

NHTM Việt Nam” của Nguyễn Thi Hoài Thu (2015) hay “Đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ của NHTM Việt Nam và một số khuyến nghi” của Phạm Thanh Thủy
(2015). Hoặc là những nghiên cứu góp ý về hành lang pháp lý như “Hoàn thiện pháp
luật về mua bán, sáp nhập Tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của Đỗ Mạnh Phương
(2015). Ngoài ra có thể kể đến nghiên cứu “Hoàn thiện khung pháp lý về xử lý NHTM
có vấn đề” gần đây do Viện Chiến lược Ngân hàng phối hợp nhóm nghiên cứu Đề tài
khoa học và công nghệ (2019) đã đề xuất một số giải pháp quan trọng về xử lý nợ xấu
và tái cơ cấu NHTM.
Nói tóm lại, mặc dù thực tế là nghiên cứu của một cá nhân không bao giờ có thể
đi sâu nghiên cứu hết tất cả các vấn đề của quản lý nhà nước đối với TTTC, tuy nhiên
một nghiên cứu để khái quát toàn bộ những vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước là
hoàn toàn có thể thực hiện được nhưng lại ít thấy được lựa chọn làm đề tài viết.
1.2. Đóng góp mới của bài tiểu luận
- Góp phần hệ thống hóa, hoàn thiện cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với
TTTC, đặc biệt trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển
mạnh me, chỉ ra các tác động của cách mạng lần thứ tư tới quản lý nhà nước đối với
TTTC Việt nam.
- Trên cơ sở phân tích được những cơ hội, thách thức, thành tựu đạt được và những
hạn chế còn tồn tại, bài tiểu luận góp ý một giải pháp không hẳn là mới nhưng chưa
thấy được đề cập trong các công trình nghiên cứu.
1.3. Cơ sở lí thuyết và khung phân tích:
(i) Cơ sở lý thuyết:
- Cách mạng công nghệ 4.0 là gì?
Theo Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tich điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế
Giới mang đến cái nhìn đơn giản hơn về Cách mạng Công nghiệp 4.0 như sau:

6


"Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ

giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất
hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động
hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách
mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ
thuật số và sinh học".
Cách mạng Công nghiệp 4.0 se diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ
sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý.
Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 se là: Trí tuệ nhân tạo
(AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào
nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế
biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu.
Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật
liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này đã và đang tác động mạnh me đến
mọi lĩnh vực của đời sống mà tài chính là một trong những lĩnh vực chiu ảnh hưởng
đầu tiên với sức ảnh hưởng rất lớn.
- Thế nào là quản lí Nhà nước đối với TTTC?
Quản lí nhà nước nói chung là quản lí TTTC nói riêng là việc các cơ quan của
Chính phủ xây dựng, ban hành khuôn khổ, qui đinh pháp luật để thi trường hoạt động
và dựa trên đó để tiến hành giám sát, quản lí các hoạt động của TTTC.
- Thế nào là hiệu quả quản lí Nhà nước?
TTTC là kênh dẫn vốn trung và dài hạn vô cùng quan trọng giúp phân bổ hiệu
quả nguồn vốn, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển nên vấn đề hiệu quả trong
công tác quản lí đối với TTTC luôn được chú trọng. Vậy thế nào là đạt hiệu quả quản
lí nhà nước với TTTC?
Có 3 hướng chính để rút ra tiêu chuẩn về hiệu quả này, mỗi hướng lại bao gồm
3 khía cạnh về sự hiệu quả khác nhau. Thứ nhất, hiệu quả được thường được đánh giá
trên 3 tiêu chí: hiệu quả phân bổ, hiệu quả giao dich và hiệu quả thông tin. Cách đánh
giá thứ hai gồm có: kĩ thuật, thể chế và thông tin. Cuối cùng, tính hiệu quả còn được

7


nhìn nhận dưới 3 góc độ: hiệu quả trao đổi, hiệu quả sản xuất và hiệu quả thông tin. Như
vậy, dù là đánh giá hiệu quả theo cách nào thì hiệu quả thông tin cũng luôn có mặt; đó là
việc trên TTTC các thông tin được công khai, minh bạch, người bán lẫn người mua trên
thi trường đều nắm bắt được các thông tin như nhau. Hay nói cách khác, thi trường mà tại
đó giá cả luôn phản ánh những thông tin sẵn có thì được gọi là thi trường hiệu quả ( theo
quan điểm của Fama, 1970) hay theo Malkiel (1992) cho rằng một thi trường vốn được
cho là hiệu quả nếu nó phản ánh chính xác và đầy đủ tất cả các thông tin liên quan đến
việc đinh giá chứng khoán. Sở dĩ người viết đưa ra 2 khái niệm về thi trường hiệu quả mà
lại để trả lời câu hỏi đặt ra bên trên là do như đã phân tích, thi trường không thể tự nó đạt
hiệu quả nếu không có một "bàn tay hữu hình can thiệp"nên thi trường hiệu quả chứng tỏ
công tác quản lí thi trường đạt hiệu quả.

- Từ những tồn tại nêu ra ở phần tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu cùng với việc
TTTC là thước đo rất nhạy cảm với mỗi biến động dù nhỏ nhất của nền kinh tế và
ngay lập tức tác động trở lại nền kinh tế, một lần nữa, bài tiểu luận khẳng đinh vai trò
quản lí của nhà nước lên TTTc là không thể thiếu. (ii) Khung phân tích:

CMCN 4.0

QLNN với TTCK

Công nghệ

QLNN với TTTT

Luật pháp
Thách thức


Cơ hội

Thách thức
Nhân sự
quản lý nhà

Cơ hội

Công nghệ thông tin

Cách thức giao
dich

Dữ liệu thông tin
(về khách hàng ,
thi trường)

Hình thức Kinh
doanh – Dich vụ

8


CMCN 4.0 có ảnh hưởng đến QLNN đối với TTTC mà xét riêng ở đây là TTCK
và TTTT. Đối với cả hai thi trường này, CM 4.0 đều đem tới những thách thức và cơ
hội tg tự nhau, tất nhiên là khi đi sâu phân tích thì cơ hội và thách thức ấy ở mỗi thi
trường lại biểu hiện ra khác nhau. Cuộc CMCN 4.0 có sự phát triển vượt bậc trong 3
lĩnh vực, trong đó có Kỹ thuật số. Vì vậy, cơ hội lớn nhất mà nó mang lại cho công tác
QLNN đối với TTTC là cơ hội về CNTT. Nhờ có sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo , vạn

vật kết nối và dữ liệu lớn mà các NH, các sàn GDCK,... thay đổi được cách thức giao
dich, ví dụ trên TTTT ngày nay, chúng ta không còn xa lạ với hình thức chuyển khoản
qua internet banking. Ngoài ra, các NH, các công ty đặc biệt là các công ty chứng
khoán, ngày nay còn có thể đáp ứng kip thời và tốt nhất nhu cầu của khách hàng khi
thu thập được tương đối đầy đủ các thông tin khách hàng như độ tuổi, nghề nghiệp,
thói quen,... kể cả những khách hàng chưa tham gia giao dich bao giờ. Và khi các chủ
thể này có trong tay cơ sở dữ liệu thông tin thi trường (tình hình hoạt động, tín hiệu
khả quan - tiêu cực, lượng người tham gia thi trường, xu hướng đầu tư,...) để cung cấp
cho khách hàng những thông tin họ cần. Bên cạnh đó, CN 4.0 đã làm phát sinh thêm
nhiều loại hình dich vụ mới như trên TTCK, có thể kể đến phần mềm i-Invest giúp
nhà đầu tư tự xây dựng và quản lí danh mục đầu tư. Đương nhiên, có cơ hội cũng
không thể không có thách thức. CMCN 4.0 yêu cầu cơ quan QLNN phải thay đổi hạ
tầng thông tin nhanh chóng, phù hợp với sự phát triển của thời đại, đồng thời cần liên
tục khảo sát và điều chỉnh luật để tạo điều kiện kinh doanh cho các chủ thể trên TTCK
và TTTT ccũng như ngăn chặn những hành vi lách luật do ke hở của luật. Thách thức
cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là nâng cao chất lượng đội ngũ trong bộ
máy QLNN, làm sao vừa nhạy bén, am hiểu CNTT, vừa phải có đạo đức và kĩ năng
quản lí tốt.

9


CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Những vấn đề cơ bản về thị trường tài chính:
Khái niệm thị trường tài chính:
Thi trường tài chính ra đời là do có sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ vì
trong nền kinh tế này mới bắt đầu làm nảy sinh các quan hệ tài chính ( mua bán, vay
mượn,…) và thi trường này ngày càng phát triển được là nhờ sự ra đời của Nhà nước.
Chính Nhà nước đã làm nảy sinh các quan hệ kinh tế gắn với hình thành và sử dụng
quĩ tiền tệ tập trung của Nhà nước.

Tài chính là một lĩnh vực rộng và phức tạp nên có nhiều khái niệm về thi trường
tài chính được đưa ra. Tuy nhiên, người viết đồng ý nhất với khái niệm sau: Thi
trường tài chính là nơi diễn ra việc chuyển giao các nguồn tài chính một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp giữa các chủ thể kinh tế với nhau thông qua những phương thức giao
dich và công cụ tài chính nhất đinh nhằm thảo mãn quan hệ cung cầu về vốn và mục
đích kiếm lời.
Phân loại thị trường tài chính:
- Theo thời gian của các công cụ tài chính: Thi trường tiền tệ và thi trường vốn.
- Theo tính chất pháp lí: Thi trường chính thức và thi trường không chính thức.
- Theo sự luân chuyển của các nguồn tài chính: Thi trường sơ cấp và thi trường thứ
cấp.
- Theo phương thức huy động nguồn tài chính: Thi trường nợ và thi trường vốn cổ
phần.
Chức năng của TTTC:
- Dẫn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu
- Cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán
- Cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá tri doanh nghiệp
- Là môi trường để Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ
Vai trò của TTTC:
- Thu hút, huy động các nguồn TC trong và ngoài nước để tài trợ cho nhu cầu đầu tư
và tiêu dùng.
- Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
10


- Thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính
- Vai trò trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Điều kiện cần để phát triển TTTC:
- Nền kinh tế hàng hóa phát triển, tiền tệ ổn đinh
- Hàng hóa của TTTC phải đa dạng, phong phú

- Phát triển các trung gian tài chính
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật kiểm soat TTTC, có tổ chức quản lí nhà nước để điều
khiển, giám sát TTTC.
- Tạo cơ sở vật chất, kĩ thuật cần thiết phục vụ cho hoạt động của TTTC
- Có đội ngũ các nhà Kinh doanh, nhà quản lí am hiểu các kiến thức của TTTC.
Các hàng hóa của TTTC:
- Các hàng hóa chủ yếu của thi trường tiền tệ
- Các hàng hóa chủ yếu của thi trường chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu và một số
công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm.
2.2. Quản lí nhà nước đối với TTTC:
2.2.1. Những điểm chung trong công tác quản lý nhà nước đối với TTCK và TTTT
- Đối với TTCK và TTTT – hai bộ phận cấu thành TTTC, nhà nước đều quản lý
nhằm:
+ Duy trì sự ổn đinh và phát triển lành mạnh cho TTTC
+ Bảo đảm môi trường phát triển ổn đinh và lành mạnh cho mỗi thành viên tham
gia thi trường, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, các nhà đầu tư
và các khách hàng khác liên quan đến các trung gian tài chính.
+ Bảo đảm sự hội nhập hiệu quả của TTTC trong nước vào TTTC quốc tế
- Để đảm bảo công tác quản lý diễn ra hiệu quả nhất, nhà nước đã ban hành khung
pháp lý, cải thiện, nâng cao cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin để cả hai thi trường
đều kip thời thích ứng với những tác động của cách mạng 4.0.
- Bên cạnh đó, dù là TTCK hay TTTT thì cuộc cách mạng lần thứ tư này cũng mang
lại những thách thức, cơ hội chung cho sự quản lý nhà nước đối với nó. Tương tự
như vậy, trong việc quản lý vẫn còn những tồn tại giống nhau trên TTCK và TTTT
mà nhà nước đang từng bước khắc phục và hoàn thiện.
Tất cả những điều vừa nêu trên se được dẫn chứng cụ thể ngay sau đây.
11


2.2.2. Vai trị quản lý của nhà nước đới với TTCK

2.2.2.1. Chủ thể quản lý
-

Quốc hội: phê duyệt và cho phép ban hành các điều luật, bộ luật làm cơ sở cho

các hoạt động diễn ra trên TTCK.
-

Chính phủ: trực tiếp ban hành những điều khoản đã được Quốc hội thông qua.

Ngoài ra, Chính phủ được quyền giao nhiệm vụ quản lí TTCK cho các bộ, các cơ
quan chuyên ngành như NHTW quản lí các NHTM thực hiện việc kinh doanh chứng
khoán, Bộ Tư pháp có liên quan xử lí các hành vi gian lận trên TTCK,... Trong đó,
UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan Nhà nước quan trọng, trực tiếp và nổi
bật nhất đảm nhận vai trò quản lí TTCK, cụ thể là thực hiện chức năng tham mưu,
giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán và thi trường chứng
khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thi trường chứng khoán;
quản lý các hoạt động dich vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thi trường chứng khoán
theo quy đinh của pháp luật. Nằm dưới UBCKNN còn có SGDCK trực thuộc - đây là
một tổ chức tự quản, nhằm tăng tính thanh khoản và đảm bảo cho các chứng khoán
phát hành được giao dich liên tục, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dễ dàng mua bán
chứng khoán niêm yết. Dù không phải là kênh dẫn vốn trực tiếp nhưng đổi lại,
SGDCK đã góp phần tạo ra một thi trường tự do, minh bạch, công bằng dựa trên đưa
ra các báo cáo một cách chính xác , liên tục về các chứng khoán , tình hình hoạt động
các tổ chức niêm yết , các công ty chứng khoán.

2.2.2.2. Nội dung quản lí Nhà nước đối với TTCK:

12



Vai trò chung nhất của Nhà nước đối với việc quản lí TTCK chính là tạo dựng khung
pháp lý. Ở đây, người viết se chỉ rõ những biểu hiện cụ thể dựa trên 4 cách tiếp cận:
- Thứ nhất, xuất phát từ chức năng quản lí, bao gồm các chức năng đơn vi sau:
+ Chức năng tổ chức: Xây dựng mô hình quản lí nhà nước đối với TTCK, kèm
theo đó là qui đinh nhiệm vụ cho mỗi thành phần cấu thành bộ máy quản lí.
+ Chức năng hoạch đinh: đề ra chiến lược, hướng phát triển cho TTCK cũng như
tạo lập hành lang pháp lí cho các chủ thể than gia TTCK hoạt động.
+ Chức năng điều tiết: bằng công cụ luật pháp, các cơ quan quản lí điều phối hoạt
động của cá chủ thể nhằm cân bằng lợi ích và kip thời điều chỉnh thi trường trở
lại trạng thái ổn đinh theo đúng đinh hướng đề ra nếu xảy ra biến động.
+ Chức năng thanh tra, giám sát: trên khuôn khổ pháp luật đã thực thi, giám sát
chặt che hoạt động của chủ thể tham gia TTCK và công tác QLNN của các cơ
quan thực thi nhiệm vụ.
+ Chức năng giáo dục, đào tạo: phổ biến kiến thức cơ bản, đào tạo kỹ năng cần
thiết cho các đối tượng tham gia trên thi truờng đặc biệt là các cán bộ quản lý
và công chúng đầu tư.
- Thứ hai, xuất phát từ nghiệp vụ trên TTCK:
+ Quản lí đối với hoạt động phát hành, niêm yết CK: cơ quan QLNN qui đinh các
điều kiện được phát hành để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước.
+ Quản lí đối với hoạt động trung gian tài chính: qui đinh các tiêu chuẩn tối thiểu
về vốn, các chuẩn mực và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ trong các tổ chức
(chủ yếu là các công ty chứng khoán) để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư.
+ Quản lí đối với các quĩ đầu tư chứng khoán: qui đinh các chuẩn mực về cấp phép,
hình thức pháp lí, cấu trúc các quĩ đầu tư, các qui đinh về công bố thông tin

để bảo vệ tài sản của nhà đầu tư.
+ Quản lí hoạt động giao dich chứng khoán: Nhà nước qui đinh niêm yết phải
được giao dich qua các TTGDCK hoặc các SGDCK theo phương thức khớp

lệnh hoặc thỏa thuận; qui đinh cơ sở cho thực hiện giao dich, công bố các chỉ số
đánh giá thi trường làm căn cứ tính toán của các nhà đầu tư. Nhà nước công bố
hoạt động giám sát giao dich chứng khoán của các Trung tâm hoặc SGDCK.
13


+ Quản lí đăng kí, lưu kí, giao dich và thanh toán bù trừ chứng khoán: Các cơ
quan QLNN phải xây dựng và ban hành các cơ sở pháp lí cần thiết cho các hoạt
động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán như qui đinh qui trình
thanh toán, qui đinh mô hình tổ chức và giám sát hoạt động của tổ chức này.
- Thứ ba, xuất phát từ các yếu tố cấu thành thi trường: QLNN đối với TTCK đòi hỏi
Nhà nước phải quản lý các yếu tố của TTCK. Đó là quản lý để tăng cung, tăng cầu,
quản lý sự biến động giá cả trên thi trường và quản lý sự cạnh tranh đảm bảo sự
phát triển lành mạnh của TTCK. QLNN đối với TTCK dựa trên các yếu tố của thi
trường, bao gồm:
+ Quản lý cung trên thi trường nhằm mục đích tăng cung cho thi trường: nguồn
cung chủ yếu từ trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu chào bán ra thi trường của các
doanh nghiệp cổ phần hóa
+ Quản lý cầu trên thi trường nhằm mục đích kích cầu, khuyến khích đầu tư dài
hạn và đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK
+ Quản lý giá trên thi trường nhằm tạo sự ổn đinh cần thiết để mở rộng thi trường,
thu hút đầu tư, tránh những giao dich nội gián không phản ánh đúng giá cả của
thi trường
+ Quản lý cạnh tranh trên thi trường nhằm giám sát các hoạt động kinh doanh và
dich vụ chứng khoán, xử lý các vi phạm của các chủ thể hoạt động trên TTCK
- Thứ tư, xuất phát từ các chủ thể tham gia vào TTCK:
+ QLNN đối với các tổ chức phát hành chứng khoán.
+ QLNN đối với các tổ chức kinh doanh dich vụ.
+ QLNN đối với các tổ chức liên quan ( Cơ quan quản lý Nhà nước, Sở giao dich
chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, Tổ chức lưu ký và

thanh toán bù trừ chứng khoán, Công ty dich vụ máy tính chứng khoán, Các tổ
chức tài trợ chứng khoán, Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm)
+ QLNN đối với các quĩ đầu tư.
2.2.2.3. Thách thức mà công nghệ 4.0 mang lại cho QLNN đối với TTCK:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh me và không bỏ qua tác
động đối với bất kì lĩnh vực nào, nhất là TTTC nói chung và TTCK nói riêng. Theo

14


các chuyên gia Tài chính, những cơ hội mà 4.0 đem lại cho ngành chứng khoán còn ở
dạng tiềm năng nhưng những thách thức đã đ1ặt ra rõ ràng trước mắt.
-

Như đã phân tích bên trên, sự minh bạch thông tin trên TTCK luôn được quan

tâm và ưu tiên nhằm mang lại hiệu quả hoạt động trên TTCK. Mặc dù nền tảng khoa
học dữ liệu đã giúp hệ thống và gắn kết toàn bộ các thông tin trước đây rời rạc với
nhau; thứ hai là các nguồn dữ liệu được thu thập liên tục, và phạm vi bao phủ toàn
cầu, không bi giới hạn bởi không gian và thời gian như trước đây; thứ ba là thông tin
se được chuyển đổi thành dạng số, để từ đó trích xuất các thông tin tiềm ẩn sâu hơn,
có thể phân tích, dự báo tình hình tài chính của các công ty niêm yết, diễn biến mua
bán chứng khoán đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có cái nhìn toàn diện về thi
trường, từ đó đưa ra những quyết đinh nhanh chóng, khoa học, mang lại lợi ích lớn
nhất trong việc lựa chọn danh mục đầu tư, lựa chọn điểm giao dich, quản trọ rủi ro,…
Thế nhưng, trong sự phát triển của khoa học dữ liệu, yếu tố then chốt trong tương lai
se nằm ở khả năng bảo mật, thay vì khả năng xử lý dữ liệu thành thông tin như hiện
tại bởi các đối tượng tin tặc liều lĩnh bất chấp trục lợi, sự suy thoái đạo đức của những
người có quyền lực trên TTCK muốn lợi dụng điều đó để tư lợi cho bản thân,... Thêm
vào đó, do dữ liệu thông tin quá phong phú về nguồn gốc và đồ sộ về khối lượng nên

công tác giám sát, thanh tra, quản lí chưa thể giải quyết triệt để được. Ngoài ra, đồng
bộ các ứng dụng và hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại cũng mang tính quyết đinh
đến hiệu quả của công tác quản lí vấn đề thông tin trên TTCK.
-

Cách mạng 4.0 đang thay đổi thi trường tài chính toàn cầu và Việt Nam cũng

không ngoại lệ. Đối với TTCK, nền móng mới đang dần thay thế hệ thống truyền
thống với chất liệu hiện đại như blockchain, machine learning, robotic process
automation (tự động qua robot)... Theo ông Mai Hoàng Long, Giám đốc Dich vụ
Chứng khoán của Techcom Securities nhận đinh, tại Việt Nam, dich vụ chứng khoán
đang đổi mới theo 3 xu hướng chính:
+ Thứ nhất, công nghệ giúp giảm chi phí giao dich: Công nghệ tự động từ khâu
mở tài khoản tới tự chăm sóc, tư vấn, triệt tiêu các chi phí vận hành và hành chính, từ
đó giảm chi phí thực tế trên mỗi khách hàng. Mô hình thành công này có thể kể tên
Robinhood trên thế giới, và tại Việt Nam là Công ty CP Chứng khoán Kỹ thương
(TCBS).
15


+ Thứ hai, kết nối tối đa các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội: Chẳng hạn, TCBS
tạo ra nền tảng kết nối là iShare, tương tự như Uber/Grab. Khách hàng và chuyên gia
tư vấn đều có mã số đinh danh riêng. Khách hàng lựa chọn chuyên gia tư vấn hoặc
giới thiệu cho bạn bè, người thân của mình sử dụng thông qua mã đinh danh. Mỗi mã
giới thiệu được tích điểm thưởng tương đương với một triệu đồng một khách hàng và
62% phí net trong quá trình giao dich.
+ Thứ ba, hình thành hệ sinh thái khép kín: Chỉ từ một cổng điện tử ( ví dụ: Ebanking của Techcombank), nhà đầu tư có thể thực hiện các dich vụ tài chính đa dạng,
từ thanh toán, tiết kiệm tới các giao dich đầu tư trái phiếu, chứng chỉ quỹ, cổ phiếu với
trợ giúp từ các ứng dụng hỗ trợ như TCWealth, i-Advisor, Social invest, One-Click
report, Copy trade,…

Cùng với những đổi mới trong dich vụ kinh doanh chứng khoán nêu trên là
những phức tạp nảy sinh trên TTCK đòi hỏi những điều luật chứng khoán, luật kinh
doanh bổ sung, làm cơ sở để TTCK phát triển lành mạnh, có căn cứ hoạt động rõ ràng.
2.2.2.4. Thực tiễn triển khai hành động QLNN với TTCK hiện nay:
a) Mô hình QLNN đối với TTCK:
Mô hình quản lí TTCK của nhà nước kể từ khi mới thành lập UBCKNN vào
28/11/1996 đến nay đã có nhiều thay đổi để phù hợp với từng bước phát triển của đất
nước, đặc biệt là để phù hợp với quá trình hội nhập, được đánh dấu bằng việc Việt
Nam gia nhập các tổ chức quốc tế như WTO (2007). Trong gần 20 năm phát triển (kể
từ năm 2000 – năm được coi là mốc bắt đầu hình thành và phát triển TTCK), nhà
nước ta đã liên tục cập nhật hướng đi chung trên thế giới để áp dụng vào trường hợp
trong nước và căn cứ vào đó mà tái cấu trúc TTCK. Hiện nay, mô hình quản lí TTCK
vẫn giữ nguyên như đã nêu tại mục “Chủ thể quản lí nhà nước đối vơi TTCK”, song,
trước ảnh hưởng của công nghệ 4.0, nhà nước ta vẫn đang trong giai đoạn thảo luận về
tái cấu trúc QLNN. Cụ thể:
Vấn đề đầu tiên: Có cần thay đổi mô hình tổ chức của Sở giao dich chứng khoán
hay không? Thứ trưởng Bộ Tài chính Huỳnh Quang Hải đề nghi phối hợp chặt che với
các đơn vi liên quan thuộc Bộ trình Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Sở GDCK
Việt Nam trên cơ sở sắp xếp lại Sở GDCK Hà Nội, Sở GDCK TP HCM để thống nhất
thi trường giao dich chứng khoán theo Đề án thành lập Sở GDCK Việt Nam đã được
16


Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong khi có, cũng có những ý kiến trái chiều như tại
Hội thảo Lấy ý kiến về Dự thảo Luật chứng khoán sửa đổi do Ủy ban Kinh tế tổ chức
sáng ngày 25/07/2019, đại biểu Quốc hội Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) cho rằng thay vì
vậy thì nên tăng thẩm quyền của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Nghĩa
là đảm bảo tính độc lập của Ủy ban và tăng tính hiệu quả của các đơn vi trực thuộc
UBCKNN. Và đây chính là điểm nóng thứ 2 trong công cuộc tái cấu trúc TTCK.
b) Khung pháp lí:

-

Trong năm 2017, UBCKNN đã trình Bộ Tài chính ban hành thông tư số

134/2017/TT-BTC ngày 19/12/2017 về Hướng dẫn giao dich điện tử trên TTCK (Thông
tư 134), thay thế Thông tư số 87/2013/TT-BTC ngày 28/6/2013 nhằm hoàn thiện cơ sở
pháp lý cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động giao dich chứng khoán trực
tuyến. Nội dung của Thông tư 134 quy đinh về nguyên tắc, thủ tục tổ chức giao dich điện
tử trong các hoạt động giao dich chứng khoán trực tuyến, trao đổi thông tin điện tử liên
quan đến chào bán chứng khoán ra công chúng, lưu ký chứng khoán, niêm yết chứng
khoán; hoạt động quản lý công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ (CTQLQ),
công ty đầu tư chứng khoán; hoạt động công bố thông tin (CBTT) và các hoạt động khác
liên quan đến TTCK theo quy đinh tại Luật Chứng khoán.

-

Đề cập đến các giải pháp phát triển TTCK Việt Nam thời gian tới, UBCKNN

đang tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật Chứng khoán (sửa đổi) theo chỉ đạo
của Bộ Tài chính, Chính phủ. Dự luật mới se hướng tới việc giải quyết các vướng mắc
hiện hành với Luật DN và Luật Đầu tư, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý trong
việc quản lý, giám sát và xử lý vi phạm trên thi trường, nâng cao chất lượng quản tri
DN, khơi thông cơ chế tái cấu trúc và xử lý CTCK hoạt động kém hiệu quả. Tăng
cường bảo vệ NĐT, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng hàng hóa ra thi trường. c) Cơ
sở hạ tầng thông tin:
Triển khai những mục tiêu quan trọng trong Chiến lược phát triển thi trường
chứng khoán (TTCK) Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đặt trong hoàn cảnh của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhà nước ta đã ứng dụng nhiều hệ thống CNTT
quan trọng vào công tác hỗ trợ và nâng cao công tác quản lý nhà nước về chứng khoán
và giám sát hoạt động trên TTCK. Điển hình như:


17


-

Xây dựng, triển khai các hệ thống ứng dụng CNTT cốt lõi, hệ thống quản lý cơ

sở dữ liệu, dich vụ công: Tính đến tháng 02/2017, UBCKNN đã xây dựng và đưa vào
sử dụng hiệu quả các hệ thống ứng dụng quy mô lớn và các hệ thống cơ sở dữ liệu cốt
lõi, mang tính tích hợp cao của UBCKNN gồm: Hệ thống cổng thông tin điện tử của
UBCKNN; Hệ thống công bố thông tin - IDS; Hệ thống giám sát giao dich trên TTCK
- MSS; Hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý công ty chứng khoán (CTCK) - SCMS; Hệ
thống cơ sở dữ liệu quản lý Công ty Quản lý Quỹ và Quỹ đầu tư chứng khoán – FMS;
Hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý Nhà đầu tư nước ngoài; Hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý
Người hành nghề chứng khoán; Hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác Thanh tra; và
Hệ thống Quản lý thống kê nội bộ.
-

Hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật để triển khai các hệ thống ứng dụng CNTT:
+ Tại Trụ sở cơ quan UBCKNN và các đơn vi trực thuộc đều đã tổ chức các hệ

thống mạng nội bộ, đảm bảo trao đổi thông tin, dữ liệu và thư điện tử giữa các đơn vi
thuộc UBCKNN được diễn ra nhanh chóng, hiệu quả và an toàn.
+ Hệ thống mạng diện rộng hình thành các kết nối cục bộ giữa UBCKNN và
mạng diện rộng của Bộ Tài chính, đồng thời kết nối với tất cả các đơn vi của
UBCKNN và các đơn vi trong ngành Chứng khoán - các Sở Giao dich Chứng khoán
và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD).
+ UBCKNN đã trang bi 63 máy chủ có khả năng lưu trữ nhiều dữ liệu, mức độ an
toàn cao. Dung lượng của hạ tầng lưu trữ đối với một số hệ thống lớn trong đó có Hệ

thống IDS và Hệ thống MSS đã sử dụng ở mức cao trên 90%. 2 hệ thống này thực sự
trở thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động giám sát của UBCKNN. Tính đến
nay đã có hơn 1.600 công ty đại chúng đăng ký và thực hiện công bố thông tin điện tử
qua hệ thống này. Hệ thống IDS cũng đã tiếp nhận trên 70.000 báo cáo và công bố
thông tin của các công ty đại chúng. Thông tin nhanh chóng được xử lý và công bố
công khai trên thi trường giúp các đối tượng tham gia thi trường được tiếp cận thông
tin một cách nhanh chóng và công bằng.
d) Quản lí cung trên TTCK:
Trên TTCK, trái phiếu Chính phủ là một hàng hóa phổ biến được Chính phủ phát
hành bằng đầu thầu qua NHNN( trước đây có hình thức bán lẻ trái phiếu chính phủ
cho công chúng qua hệ thống kho bạc nhà nước nhưng kể từ năm 2009, trái phiếu
18


chính phủ chỉ còn được bán ra dưới hình thức đấu thầu trên thi trường sơ cấp), và
người mua là các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thi trường thứ cấp.
Chính phủ phát hành trái phiếu như một công cụ nợ nhằm huy động nguồn vốn phục
vụ mục tiêu phát triển kinh tế, bù đắp thiếu hụt tạm thời cho ngân sách nhà nước; cho
các tổ chức tài chính, tín dụng, doanh nghiệp, chính quyền đia phương vay lại theo qui
đinh của pháp luật, cơ cấu lại khoản nợ và danh mục nợ Chính phủ, các mục đích khác
nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Tuy nhiên, nhằm làm sáng tỏ đề tài bài tiểu
luận, tức là sự tác động của công nghệ 4.0 lên sự quản lí của nhà nước với TTCK mà
trong mục này là quản lí về cung trái phiếu chính phủ, người viết chỉ quan tâm đến
mục tiêu phát triển kinh tế của Chính phủ. Thực tế, không một lĩnh vực đời sống xã
hội nào mà không liên quan đến kinh tế và ngược lại, mọi việc làm trên các lĩnh vực
khác của nhà nước, đều gián tiếp nhằm tạo điều kiện thuận lợi, vững vàng cho nền
kinh tế đi lên. Hệ thống pháp luật có phải sinh ra chỉ để đảm bảo công bằng giữa
người với người, đảm bảo trật tự xã hội thôi không? Gìn giữ, tái tạo và phát triển
những giá tri văn hóa phải chăng chỉ có tác dụng thể hiện lòng biết ơn, tự hào và ý
muốn không làm mất hay mai một đi những thành tựu, văn minh người xưa truyền

lại? – Đương nhiên là không thuần nhất lí do như thế, mà còn để thu hút khách du
lich, tăng GDP ngành dich vụ, du lich, thực phẩm,… Việt Nam là một quốc gia đang
phát triển; cho nên, trong khi các quốc gia đã phát triển từ lâu khác như Nga, Mỹ,
Trung Quốc,Nhật Bản,… dùng nguồn vốn huy động được đầu tư vào khoa học vũ trụ,
công nghệ sinh học,… thì Việt Nam mới đang sử dụng nguồn vốn ấy để xây dựng cầu,
đường, các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, nhà máy nước sạch, …và
đáng nói đến ở đây là đang ở giai đoạn bắt đầu phát triển và thử thách với công nghệ
4.0. Bởi vậy, nhu cầu vốn để trang bi cơ sở hạ tầng CNTT hiện đại, theo kip tốc độ
chung trên thế giới; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng kip thời được theo
sự biến đổi không ngừng của môi trường CNTT năng động thông qua hỗ trợ học phí,
trao học bổng, cử người sang nước ngoài học tập; rót vốn cho các start-up công nghệ
để tạo ra được hệ sinh thái khởi nghiệp để học tập đối thủ qua cạnh tranh hoặc gặp gỡ
chia sẻ kinh nghiệm cũng như những khó khăn, có thể chỉ là đối với một start-up
nhưng có thể nhờ đó lại phát hiện ra điểm yếu chung cho tất cả các doanh nghiệp khi
làn sóng 4.0 ập đến, …rất lớn. Điều này thúc đầy Chính phủ muốn tăng cung trái
19


phiếu. Nhưng tất nhiên không phải Chính phủ cứ đặt ra mục tiêu tăng cung là nguồn
vốn se tự động tăng lên theo, hay nói cách khác, không phải người bán cứ tăng số
lượng hàng hóa là doanh thu cũng tăng vì doanh thu tăng hay không là phụ thuộc vào
yếu tố cầu chứ không phải phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người bán. Tương tự như
vậy, mục tiêu tăng cung trái phiếu có đạt kết quả như Chính phủ mong đợi tùy vào có
nhiều nhà đầu tư muốn mua chúng hay không. Đến đây, bài toán làm sao để đạt được
mục tiêu tăng cung chuyển thành một bài toán tương đương khác, đó là làm thế nào để
kích cầu trái phiếu chính phủ từ phía các nhà đầu tư? Vậy, nhà đầu tư dựa theo những
tiêu chí nào để quyết đinh việc mua trái phiếu chính phủ? Thứ nhất, đó là sự ổn đinh
kinh tế vĩ mô; thứ hai là lãi suất của trái phiếu - 2 yếu tố được quyết đinh bởi sự quản
lí của nhà nước. Đây là hướng lí giải dựa trên góc nhìn của những nhà đầu tư. Về phần
mình, chính phủ cũng tính toán những chiến lược riêng nhằm tăng cung trái phiếu

thành công.
-

Xây dựng lich biểu tổ chức đấu thầu từ đầu năm và thông báo ra thi trường;

Xây dựng kế hoạch phát hành cả năm, hàng quý phân theo kỳ hạn để giúp các nhà đầu
tư có đinh hướng về kế hoạch mua trái phiếu phù hợp với nhu cầu đầu tư và dòng tiền;
Công khai các thông tin về lich biểu kế hoạch rộng rãi trên các trang thông tin của Bộ
Tài chính, KBNN, Sở Giao dich Chứng khoán Hà Nội... theo thông lệ quốc tế.
-

Tranh thủ điều kiện thi trường thuận lợi, nhu cầu đầu tư trái phiếu cao, để đẩy

mạnh tiến độ huy động vốn vào các thời điểm phù hợp nhằm huy động vốn với chi phí
hợp lý, tăng hiệu quả vay vốn cho ngân sách, tránh các thời gian thanh khoản thi
trường thấp, chi phí vay tăng cao, tạo gánh nặng lãi cho NSNN trong thời gian dài.
-

Tập trung phát hành theo phương thức đấu thầu để tăng tính minh bạch, hiệu

quả và giảm chi phí tổ chức; Thực hiện duy trì các phiên đấu thầu thường xuyên, đều
đặn hàng tuần, không để thi trường bi gián đoạn dễ dẫn đến mất lãi suất tham chiếu,
thi trường “đóng băng”.
-

Cải tiến kỹ thuật phát hành thông qua phát hành bổ sung vào các mã trái phiếu

đang lưu hành để tăng quy mô đối với từng mã trái phiếu, giảm số lượng mã trên thi
trường hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện thúc đẩy giao dich của thi trường trái phiếu
thứ cấp.


20


-

Từ năm 2015 trở lại đây, nhờ môi trường kinh tế vĩ mô ổn đinh, tăng trưởng

bền vững với chủ trương cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công của Quốc hội, Chính
phủ và Bộ Tài chính, KBNN từng bước chuyển dần sang phát hành TPCP có kỳ hạn
dài hơn, tăng dần kỳ hạn vay bình quân hàng năm và kỳ hạn danh mục nợ, giảm rủi ro
thanh khoản cho NSNN.
-

Thực hiện mở rộng cơ sở nhà đầu tư thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm trái

phiếu, từng bước đưa ra các trái phiếu có kỳ hạn dài tăng dần (năm 2015 thực hiện
phát hành kỳ hạn 20 và 30 năm lần đầu theo phương thức bán lẻ và sau đó thực hiện
đấu thầu thường xuyên), phù hợp với nhu cầu đầu tư của các đối tượng khác nhau để
thu hút sự tham gia của các nguồn vốn dài hạn như công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư... Từ
đó, giúp hình thành mức lãi suất chuẩn để thu hút các nhà đầu tư khác tư khác.
-

Ngoài các sản phẩm trái phiếu truyền thống trả lãi cố đinh, KBNN phát hành

linh hoạt trái phiếu không trả lãi đinh kỳ, trái phiếu có kỳ trả lãi đầu tiên ngắn hơn
hoặc dài hơn kỳ trả lãi chuẩn để đa dạng hóa sản phẩ m và hỗ trợ công tác quản lý
ngân quỹ, quản lý danh mục nợ TPCP. Chủ động và tích cực phối hợp với các đơn vi
liên quan như Sở Giao dich Chứng khoán Hà Nội, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
Việt Nam, các đơn vi liên quan trong quá trình tổ chức phát hành nghiên cứu cải tiến

quy trình, giảm dần thời gian từ khi phát hành đến khi trái phiếu được chính thức đưa
vào giao dich từ T+15 tại thời điểm năm 2000 xuống T+2 thời điểm hiện nay, góp
phần hỗ trợ và thúc đẩy thanh khoản thi trường trái phiếu.
-

Từ năm 2016 đến nay, để minh bạch hóa hoạt động vay của NSNN từ BHXH

Việt Nam và với mục tiêu thực hiện tập trung quản lý nợ đạt hiệu quả cao hơn, hướng
tới đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư TPCP, hỗ trợ thanh khoản cho thi trường và từng
bước chuyên nghiệp hóa hoạt động đầu tư quỹ của BHXH – gắn đầu tư với quản lý
dòng tiền, KBNN đã phối hợp với các đơn vi liên quan, đặc biệt là BHXH để thúc đẩy
cải tiến phương thức thực hiện đầu tư TPCP của BHXH bằng cách tham gia thi trường
như một nhà đầu tư chuyên nghiệp mua TPCP tương tự các nhà đầu tư khác – thực
hiện từ năm 2017.
-

KBNN thực hiện trao đổi thường xuyên, nắm bắt nhu cầu của các nhà đầu tư để

có các quyết đinh phù hợp trong điều hành kỳ hạn và khối lượng TPCP phát hành ra
thi trường trong từng thời điểm, qua đó đảm bảo khả năng vay vốn cho NSNN; Tổ
21


chức các hội nghi thành viên đinh kỳ quý/năm để phổ biến các quy đinh, đinh hướng
mới, đồng thời, nắm bắt nhu cầu, khó khăn và nhận sự tham vấn của các nhà tư vấn để
phát triển thi trường bền vững.
-

Như vậy, ở đây, cuộc CMCN 4.0 không tác động đến sự QLNN về mặt tạo ra


những cách thức quản lí đột phá dựa trên nền tảng công nghệ mà đã tác động theo
hướng là đặt ra các mục tiêu mới do 4.0 mang lại khiến muốn có được nguồn vốn
phục vụ cho các mục tiêu ấy thì nhà nước phải thay đổi cách thức quản lí. e) Quản lí
cầu trên TTCK:
- Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào TTCK Việt Nam:
Khi đầu tư vào thi trường chứng khoán Việt Nam, lạm phát, chính sách tiền tệ,
lãi suất, tính ổn đinh của hệ thống ngân hàng là điều mà nhà đầu tư nước ngoài quan
tâm nhiều nhất. Quan điểm đầu tư của khối ngoại là phải nhìn thấy khả năng sinh lời
chắc chắn chứ không giống nhiều nhà đầu tư trong nước đầu tư theo kiểu "nhắm mắt
làm liều", mà không cần quan tâm đến sự sai lệch thông tin công bố giữa các cơ quan,
tổ chức về cùng một vấn đề, ví dụ như tỉ lệ nợ xấu, nợ công. Trái ngược hoàn toàn,
nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi sự minh bạch rất quyết liệt vì khoản tiền họ đầu tư
không hề nhỏ so với quy mô của thi trường hiện tại. Để an toàn cho đồng vốn, khối
ngoại tìm hiểu rất kỹ về sức khỏe doanh nghiệp, giao dich cổ phiếu.
Như vậy, muốn thu hút được vốn ngoại vào TTCK, bên cạnh những chính sách
điều tiết môi trường vĩ mô tất yếu, điều quan trọng nhất mà nhà nước ta cần làm được
đó là xóa bỏ mối lo ngại, dè chừng về tính minh bạch thông tin của các nhà đầu tư
nước ngoài. Và trên thực tế, nhờ có công nghệ 4.0, nhiệm vụ này đang được hoàn
thành rất tốt (đã nêu trên). Bên cạnh đó, nhà nước cũng đã ban hành các qui đinh về
công bố thông tin (Thông tư 155/2015/TT-BTC công bố thông tin trên thi trường
chứng khoán, Nghi đinh 81/2015/NĐ-CP quy đinh về việc công bố thông tin của
doanh nghiệp Nhà nước được ban hành ngày 18/09/2015), yêu cầu các DN cần minh
bạch, công khai kết quả kinh doanh của mình và thực hiện kiểm toán theo chuẩn mực
quốc tế (IFRS). Vấn đề cổ phần hóa DN và niêm yết trên TTCK cũng cần được đẩy
mạnh và thực hiện một cách quyết liệt, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, có hiệu lực từ ngày 1/10/2015, Thông tư 123/2015/TT-BTC thay thế Thông tư
213/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài trên thi
22



trường chứng khoán Việt Nam, với nhiều quy đinh mới tạo bước ngoặt lớn trong đơn
giản hóa thủ tục đối với nhà đầu tư nước ngoài khi triển khai các bước để đầu tư vào
thi trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. Điều này được thể hiện trên 3 nội dung cải
cách lớn: 1, bãi bỏ cơ chế hợp pháp hóa lãnh sự, nên thời gian để nhà đầu tư nước
ngoài hoàn tất các thủ tục mở mã số giao dich chứng khoán nhằm triển khai các hoạt
động đầu tư tại TTCK Việt Nam được rút ngắn tối đa. Cụ thể, với cơ chế hiện hành,
nhà đầu tư nước ngoài phải mất khoảng từ 9 tháng – 1 năm để hoàn tất thủ tục hợp
pháp hóa lãnh sự, sau đó mất 5 ngày để được cấp mã số giao dich chứng khoán, thì
nay với quy đinh mới tại Thông tư 123/2015/TT-BTC, họ chỉ mất 1 ngày là được cấp
mã số giao dich chứng khoán; 2, mở ra cơ chế cấp mã số giao dich chứng khoán trực
tuyến cho nhà đầu tư nước ngoài. Bước cải cách này không chỉ góp phần tiết giảm tối
đa thời gian cho nhà đầu tư nước ngoài, mà còn giúp họ tiết kiệm chi phí, tận dụng tốt
hơn các cơ hội đầu tư trên thi trường; 3, với những tài liệu bằng tiếng Anh, thì khi
thực hiện thủ tục để mở mã số giao dich chứng khoán, nhà đầu tư nước ngoài không
phải dich sang tiếng Việt.
Nhờ vậy mà tình hình đầu tư nước ngoài vào TTCK 6 tháng đầu năm 2019 đạt
được những kết quả khả quan như sau: 1, Thu hút được nguồn vốn từ nhiều quốc gia:
Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Nhật bản, Đài Loan,
BritishVirginIsland, Thái Lan, Samoa, Mỹ. Trong đó, Hồng Kông đầu tư vốn nhiều
nhất (5,304 triệu USD) rồi đến 4 nước theo thứ tự kể tên bên trên với số vốn đầu tư
lần lượt là 2,371 ; 2,285 ; 2,199 ; 1,950 ( triệu USD); 2, Có 1732 dự án mới được cấp
giấy chứng nhận đầu tư (tăng 26,1%), 18,47 tỉ USD vốn đầu tư đăng kí ( giảm 9,2%),
9,1 tỉ USD vốn thực hiện ( tăng 8,1%) so với năm 2018.
Bên cạnh những gì đạt được, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 còn đặt ra những
yêu cầu đối với nhà nước ta trong vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thi trường
chứng khoán. Đó là xây dựng hệ thống thống kê và cung cấp thông tin đầy đủ, chính
xác về lượng chứng khoán các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ, tỷ lệ nắm giữ
trong tổng số chứng khoán phát hành, từ đó phân tích, dự báo xu hướng biến động và
những ảnh hưởng có thể tạo ra từ động thái mua, bán chứng khoán của nhà đầu tư
nước ngoài.

- Quản lí nhằm kích cầu chứng khoán trong nước:
23


Trong công tác QLNN đối với lượng cầu chứng khoán trên TTCK đang nói tới,
có một câu chuyện tuy không mới, đã được nhấn mạnh và nhắc lại nhiều lần trong bài
tiểu luận nhưng đang là thực trạng “nóng”, đó là tính minh bạch trên thi trường và
niềm tin trong nhà đầu tư. Chức năng quan trọng nhất của TTCK là huy động vốn cho
doanh nghiệp, nên cần phải khiến nhà đầu tư quan tâm đến thi trường và giải pháp
nằm chính là tính minh bạch của thi trường và niềm tin của nhà đầu tư. Thực tế, nhiều
nhà đầu tư vẫn còn nghi ngờ rằng doanh nghiệp chưa thực sự đồng hành cùng họ và
TTCK không phải thực sự là nơi để giữ tiền như trên lý thuyết vì họ cho rằng doanh
nghiệp chỉ quan tâm hút tiền, sau đó tiêu tiền vào những việc câu lợi cho doanh
nghiệp theo ý của doanh nghiệp, chưa coi nhà đầu tư là người chủ thực sự. Và câu trả
lời cho giải pháp tăng cường minh bạch thông tin đến từ cơ quan quản lí nhà nước đã
được người viết nêu ra ngay bên trên.
f) Quản lí giá trên TTCK:
Một trong những tiêu chí quan trọng và cần được giám sát chặt che, chú trọng
đảm bảo tính chính xác cao, giúp TTCK hoạt động lành mạnh, thu hút được nhiều nhà
đầu tư cả trong nước lẫn nước ngoài, đó chính là giá cả của những hàng hóa được trao
đổi. Tuy nhiên, vì lợi ích hoặc ý đồ bất chính của một cá nhân, một đường dây, mà giá
chứng khoán có thể phản ánh không đúng tình hình hoạt động của công ty, doanh
nghiệp phát hành ra nó vì xảy ra các hành vi phạm tội sau: 1, cố ý thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; 2, tội sử dụng thông tin nội bộ để
mua bán chứng khoán; 3, tội thao túng giá chứng khoán. Với bản chất ranh mãnh và
động lực từ lòng tham danh lợi, kết hợp với sự trợ giúp của công nghệ 4.0, các đối
tượng có thể can thiệp sửa đổi, hack các hệ thống thông tin trên TTCK. Để ngăn chặn
tối đa tình trạng này, bên cạnh yêu cầu bản thân các doanh nghiệp phải công bố thông
tin đầy đủ, rõ ràng, chính xác; nhà nước đã ban hành Thông tư liên tich 10/2013 (TT
10) hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh

vực thuế, tài chính - kế toán và chứng khoán mà cụ thể là 3 tội danh vừa kể trên. g)
Quản lí cạnh tranh trên TTCK:
Các chủ thể tham gia thi trường chứng khoán thường có mục đích, quyền lợi
hoặc trái ngược nhau hoặc triệt tiêu nhau một phần. Nhìn chung, quyền lợi và mục
tiêu của các chủ thể mặc dù có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ nhưng lại luôn bi chia
24


sẻ. Mỗi chủ thể đều bằng cách này hay cách khác cố gắng tối đa hoá lợi ích của mình.
Chính vì vậy, họ thực hiện những hoạt động đa dạng, phức tạp và cạnh tranh lẫn nhau
và từ đó tạo nên động lực cho thi trường phát triển. Nhưng khi sự cạnh tranh quá lớn,
nó se chuyển sang một thái cực xấu, thi trường do đó trở nên hỗn loạn, mất ổn đinh.
Vì vậy, với những mâu thuẫn có chiều hướng trái ngược nhau trên thi trường chứng
khoán nên nhà đầu tư chỉ yên tâm khi có một chủ thể trung lập, không vì mục tiêu lợi
nhuận đứng ra quản lý, giám sát quá trình cung cấp thông tin và các hoạt động trên thi
trường nhằm hạn chế tối đa các tiêu cực để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
họ. Bởi thế, vai trò quản lí của nhà nước trong trường hợp này là không thể phủ nhận.
Vấn đề cần quan tâm là, cuộc cách mạng 4.0 đã mang lại cách thức hay công cụ
cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán gì mới so với trước đây?
Nhiều công ty chứng khoán đang nỗ lực nâng cấp hạ tầng, hệ thống công nghệ,
ra mắt các ứng dụng công nghệ mới để cải thiện chất lượng phục vụ nhà đầu tư trên
sàn. Các công ty ngày nay cạnh tranh với nhau dựa trên 3 thứ: phần mềm ứng dụng;
vốn, lãi suất cho vay; chất lượng tư vấn và thông tin cung cấp cho nhà đầu tư; trong
đó, chất lượng sản phẩm, chất lượng dich vụ tư vấn được xem là có thể tạo vũ khí
cạnh tranh mạnh nhất trong cuộc đua giành thi phần trên TTCK; hệ thống công nghệ
được đầu tư bài bản, hệ thống phần mềm liên tục được cải tiến:
+

Công ty Chứng khoán SSI cho ra mắt tính năng đặt lệnh nhanh - One Click -


trên hệ thống giao dich chứng khoán phái sinh SSI Web Trading, cho phép nhà đầu tư
thiết lập lệnh mua/bán các hợp đồng một lần duy nhất, bao gồm các thiết lập lựa chọn
mã hợp đồng, khối lượng, xác nhận và đẩy vào sàn. Các lệnh đặt tiếp theo khách hàng
chỉ việc chọn nhấn “Mua” hoặc “Bán”, ngay lập tức lệnh se được đẩy vào sàn. Việc
cắt giảm hết các khâu xác nhận trung gian, chỉ còn một lần nhấp chuột là có thể đưa
lệnh vào sàn se giúp các nhà đầu tư tận dụng tối đa thời gian khớp lệnh, nhất là trên
TTCK phái sinh do giá dao động trên thi trường này thay đổi rất nhanh.
+

Tháng 4/2019, Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển Việt

Nam (BSC) đã ra mắt sản phẩm mới i-Invest. Ðây là công cụ tự động, giúp nhà đầu tư
xây dựng và quản lý danh mục đầu tư theo mục tiêu và khẩu vi rủi ro. Ðây cũng là sản
phẩm quản lý đầu tư hoàn toàn mới tại Việt Nam.
+

Tại Công ty Chứng khoán VPS, Công ty đang có ứng dụng di động SmartPro 25


×