Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LV Thạc sỹ_nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 93 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay đất nước CHDCND Lào đang thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội đến năm 2020 trở thành nước đang phát triển và thực hiện mục tiêu Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm tiền đề cơ sở vật chất cho giai đoạn tiếp theo
tiến con đường xã hội chủ nghĩa xã hội, dân giầu nước mạnh xã hội công bằng văn
minh là một trong mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào để thực hiện mục tiêu trên Đảng đã và đang thực hiện thúc đẩy,
khai thác mọi nguồn lực đất nước, Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã có những
chính sách, chiến lược nhằm khuyến khích các tổ chức, đơn vị và dân cư hoạt động
đóng góp vào nền kinh tế có hiệu quả hơn.
Ngân hàng ngoại thương Lào Trụ Sở Chính đóng tại VIÊNG CHĂN, là một
trong những ngân hàng đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp phát triển và thúc đẩy nền
kinh tế thông qua việc tạo nguồn vốn cho các doanh nghiệp và cá nhân. Trong
những năm qua Ngân hàng ngoại thương Lào đã khẳng định vai trò của mình trong
việc đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước.
Trong thời gian qua hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng
mang lại lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
và khuyến khích hoạt động đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp và hộ gia đình.
Hoạt động cho vay vừa là mang lại lợi nhuận to lớn cho ngân hàng nhưng cũng tiềm
ẩn các rủi ro ảnh hưởng tới, uy tín và lợi nhuận của ngân hàng. Để tránh tình trạng
đó, đòi hỏi ngân hàng phải có các biện pháp tốt kịp thời và hiệu quả để đánh giá,
thẩm định về tính khả thi của dự án trước khi thực hiện cho vay. Muốn vậy ngân
hàng phải nâng cao chất lượng thẩm dự án trong đó có thẩm định tài chính dự án để
đảm bảo tính hiệu quả các khoản cho vay, tài trợ dự án. Trong thời gian nghiên cứu
và thu thập số liệu tại Ngân hàng ngoại thương Lào, em thấy rằng công tác thẩm
định tài chính dự án đầu tư đóng một vai trò quan trọng góp phần vào sự thành công
trong hoạt động kinh doanh của NHNT Lào. Tuy nhiên công tác thẩm định tài chính



2

dự án đầu tư ở đây vẫn còn có những hạn chế nhất định. Do đó, em đã nghiên cứu
và lựa chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
Ngân hàng ngoại thương Lào” làm luận án thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định tài
chính dự án của ngân hàng thương mại
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng thẩm định dự án trong hoạt động
cho vay tại ngân hàng ngoại thương Lào
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại
Ngân hàng ngoại thương Lào
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: chất lượng thẩm định tài chính trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thượng mại
- Phạm vi nghiên cứu: chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động
cho vay của NHNT Lào từ năm 2005 - 2009
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp mô hình hoá
- Phương pháp Phân tích, Tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu kết luận, bảng biểu và tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại .
CHƯƠNG 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của
ngân hàng ngoại thương Lào .

CHƯƠNG 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
của ngân hàng ngoại thương Lào

CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


3

1.1. Hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
* Khái niệm về ngân hàng thương mại.
NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và
các dịch vụ khác. Vậy, có thể nói rằng NHTM là trung gian tài chính cung cấp đa
dạng các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế như huy động tiền gửi, cho vay, bảo lãnh,
thanh toán,… ngân hàng “bán” dịch vụ thông qua lãi suất, phí, chênh lệch giá… Đó
chính là giá các dịch vụ ngân hàng.
Như vậy, NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ và cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hoạt động của NHTM
ngày càng đa dạng hơn. NHTM là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai
trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Chính vì vậy cách tiếp cận thận trọng nhất
là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện các dịch vụ mà chúng cung cấp như
sau: “NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong

nền kinh tế”
* Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hoạt động của NHTM ngày
càng nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá; để mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Tuy nhiên, nhìn chung một NHTM thường thực hiện 3 hoạt động cơ bản sau:
 Hoạt động huy động vốn
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ các NHTM phải có một lượng vốn tự
có để làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn này do các chủ sở hữu


4

ngân hàng đóng góp, có thể sử dụng lâu dài, hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho
ngân hàng, đây là loại vốn rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu. Tuy nhiên nguồn
vốn chính của các NHTM là vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh
tế. Nguồn chủ yếu của các ngân hàng là nhận tiền gửi từ những người gửi tiền.
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh mạnh mẽ, các NHTM đã đưa ra rất
nhiều hình thức khác để huy động vốn nhằm đảm bảo và mở rộng hoạt động của
mình. Ngân hàng huy động được một số vốn lớn thông qua việc cung cấp các dịch
vụ như: tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, chứng chỉ
tiền gửi...Đồng thời đó, khi ngân hàng cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay đầu tư,
cho vay, các NHTM có thể đi vay từ ngân hàng trung ương, từ các NHTM khác,
hay vay trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Ngoài vốn tự có, vốn huy
động, vốn đi vay, nguồn vốn ngân hàng còn bao gồm một số nguồn khác từ các dịch
vụ khác của ngân hàng.
Vì vây, hoạt động huy động vốn là ngân hàng phải bỏ ra chi phí như:chi phí
giao dịch, chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay và các chi phí có liên quan khác. Sau đó,
các NHTM phải tiến hành hoạt động cho vay, đầu tư và các hoạt động trung gian
khác để đem lại thu nhập cho ngân hàng.
Hoạt động sử dụng vốn .

Hoạt động sử dụng nguồn vốn của ngân hàng là hoạt động cung cấp cho các
đối tượng có nhu cầu với những điều kiện do hai bên thỏa thuận. Hoạt động này bao
gồm:
Cho vay (Tín dụng):
Tín dụng ngân hàng là một quan hệ giao dịch giữa ngân hàng chuyển giao
tiền cho các chủ thể khác được sử dụng trong một thời gian nhất định và bên nhận
tiền phải cam kết hoàn trả theo thời hạn thỏa thuận.
Đây là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng vì hoạt động này tạo ra cho NHTM khoản thu
nhập chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của NHTM.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau người ta có thể chia thành các loại cho vay


5

khác nhau:
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: Cho vay bất động sản, cho vay công
nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay xây dựng,…
+ Căn cứ vào thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn
+ Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: Cho vay trả góp, cho vay hoàn trả theo
yêu cầu,…
+ Căn cứ vào thành phần kinh tế: Cho vay quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Thông qua hoạt động tín dụng các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã
hội của mình, góp phần làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng
và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.
Đầu tư:
NHTM có thể sử dụng nguồn vốn để đầu tư như đầu tư vốn trực tiếp vào các
doanh nghiệp dưới dạng góp vốn, thành lập công ty, hùn vốn dưới hình thức liên
doanh, liên kết. Đây cũng là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra
lợi nhuận ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của mình cũng giống như các

doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế ngân hàng có những khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi, ngân hàng có thể gửi khoản tiền đó vào các tổ chức tín dụng khác hay đầu
tư trái phiếu Chính phủ để tăng thêm lợi nhuận.
Cho thuê tài chính:
Là hoạt động tín dụng trung gian, dài hạn trên cơ sở các hợp đồng cho thuê
tài sản giữa bên cho thuê là NHTM với khách hàng. Khi kết thúc hợp đồng khách
hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận
trong hợp đồng thuê. Trong thời gian thuê các bên không được đơn phương chấm
dứt hợp đồng.


6

 Hoạt động trung gian khác
Ngoài hoạt động huy động vốn, cho vay các NHTM còn thực hiện hoạt động dịch
vụ trung gian khác cho khách hàng. Các hoạt động này gồm: các dịch vụ thanh toán
trong và nước ngoài, thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ cung
cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…), nhận bảo quản các tài sản quý giá, các giấy tờ, chứng
thư quan trọng của dân chúng, bảo quản mua bán hộ chứng khoán theo ủy nhiệm của
khách hàng, tư vấn tài chính, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý…
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế và công nghệ, các dịch vụ trung
gian của ngân hàng thương mại ngày càng được chú trọng do nguồn thu ổn định và
độ rủi ro thấp. Các dịch vụ này không ngừng phát triển góp phần hoàn thiện chất
lượng dịch vụ ngân hàng. Khách hàng khi có nhu cầu đều được đáp ứng một cách
thuận tiện nhanh chóng, tiết kiệm và an toàn. Do vậy các ngân hàng thương mại, thu
hút được số lượng lớn và đa dạng đối tượng khách hàng kéo theo doanh thu của
ngân hàng từ hoạt động này cũng tăng nhanh.
1.1.2. Hoạt động cho vay theo dự án của ngân hàng thương mại
Ngân hàng cho vay theo dự án đầu tư nhằm cung ứng vốn cho khách hàng để
thực hiện các dụ án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án phụ

vụ đời sống. Đối tượng cho vay theo hình thức là các dự án đầu tư về thiết bị, máy
móc, nhà xưởng, công trình xây dựng cơ bản, nên cho vay theo dự án thường có đặc
điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, thời hạn cho vay thường dài (trên 1 năm), do vậy cho vay theo dự
án đầu tư thuộc loại tín dụng trung dài hạn.
Thứ hai, mức vốn đầu tư của các dự án này thường rất lớn.
Xuất phát từ hai đặc điểm cơ bản trên, nên cho vay theo dự án luôn là hoạt
động sinh lời lớn nhất, song cũng tiềm ẩn rủi ro cao nhất cho NHTM. Rủi ro này có
rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng;
thấm chí, có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể đẩy ngân hàng phá sản .
Vì vậy, các NHTM phải cần nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và
sinh lời khi quyết định cho vay nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả và chất lượng tín


7

dụng, đảm bảo an toàn vốn và một biện pháp rất quan trọng trong số đó là nâng cao
chất lượng thẩm định dự án, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án trong hoạt động
cho vay của NHTM.
Để bù đắp những chi phí đã bỏ ra trong hoạt động huy động vốn và chi phi
hoạt động khác, các NHTM phải tiến hành sử dụng nguồn vốn đã huy động được
cung cấp cho các đối tượng có nhu cầu với những điều kiện do hai bên thoả thuận.
Hoạt động này bao gồm: cho vay và đầu tư.
1.2. Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
1.2.1.Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Thẩm định tài chính dự án là khâu quan trọng trong quá trình thẩm định dự
án đầu tư nên được chủ đầu tư và ngân hàng tài trợ vốn quan tâm. Kết quả thẩm
định tài chính dự án đầu tư là một căn cứ quan trọng để các nhà quản trị ngân hàng

đưa ra quyết định có nên đầu tư cho dự án hay không. Thẩm định tài chính dự án
bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó thông thường bao
gồm các nội dung chính sau.
 Thẩm định tổng vốn đầu tư và nguồn tài trợ
Việc xác định tổng vốn đầu tư được hiểu là việc phân tích và xác định nhu
cầu vốn đầu tư dành cho một dự án đang được xem xét. Trong đó vốn đầu tư của dự
án là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định và tài sản lưu
động cần thiết. Những tài sản này sẽ được sử dụng trong việc tạo doanh thu, chi phí,
thu nhập trong suốt vòng đời hữu ích của dự án.
Một dự án có thể có nhiều nguồn tài trợ khác nhau có thể bằng vốn tự có, có
thể bằng vốn vay, có thể bằng việc thuê mua tài chính hoặc có thể kết hợp hai hay
nhiều phương thức khác nhau. Mỗi phương thức đều có những đặc trưng riêng và đi
kèm với nó là những lợi thế và bất lợi riêng đối với các chủ đầu tư. Trong thực tế rất
ít các dự án đầu tư mà chỉ huy động một nguồn tài trợ, một phương thức tài trợ nhất
định mà thường là kết hợp các nguồn tài trợ và các phương thức tài trợ khác nhau.


8

Và thông thường các NHTM cũng chỉ cho vay khi các chủ đầu tư có vốn đối ứng
(vốn tự có) nhất định tham gia vào dự án như là một cách tự bảo hiểm cho hoạt
động cho vay của mình.
 Thẩm định dòng tiền của dự án .
Sau khi thẩm định tổng nhu cầu vốn, cơ cấu nguồn vốn và tiến độ huy động
vốn, bước tiếp theo là thẩm định các chỉ tiêu kinh tế tài chính của dự án, tức là NH
xem xét tới các yếu tố thu, chi, từ đó xem xét được dòng tiền của dự án. Việc thẩm
định các chỉ tiêu này được thực hiện thông qua việc thẩm định báo cáo tài chính dự
tính cho từng năm hoặc từng giai đoạn của đời dự án. Tuy nhiên để đi vào thẩm
định dòng tiền của dự án thì phải hiểu được khái niệm giá trị thời gian của tiền. Tiền
có giá trị về mặt thời gian do ảnh hưởng của các yếu tố: lạm phát, rủi ro, thuộc tính

vận động và khả năng sinh lời của tiền. Thông thường NH thẩm định dòng tiền của
DAĐT thì thẩm định các yếu tố sau:
* Thẩm định dòng tiền vào của dự án
Dòng tiền vào của dự án là dòng tiền sau thuế mà DN có thể thu hồi để tái
đầu tư vào một dự án khác. Dòng tiền vào của dự án mang dấu dương. Các dòng
tiền vào của dự án thường được tính theo năm và được đưa vào kế hoạch sản xuất,
tiêu thụ hàng năm của dự án để xác định. Trong bước này, cán bộ thẩm định xác
định công suất huy động dự tính của chủ dự án có chính xác hay không; khả năng
tiêu thụ sản phẩm; giá cả của sản phẩm bán ra… Dựa vào định hướng phát triển của
ngành nghề và dự báo ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.
* Thẩm định dòng tiền ra của dự án
Dòng tiền ra của dự án được thể hiện thông qua chi phí của dự án nên mang
dấu âm. Dòng tiền ra liên quan đến các chi phí đầu tư cho TSCĐ, cho xây dựng và
cho mua sắm. Và các chỉ tiêu phản ánh chi phí cũng được tính theo từng năm trong
suốt dòng đời của dự án. Việc dự tính các chi phí sản xuất, dịch vụ được dựa trên kế
hoạch sản xuất hàng năm, kế hoạch khấu hao, kế hoạch trả nợ của dự án. Cán bộ
thẩm định xem xét tính đầy đủ của các loại chi phí, kế hoạch trích khấu hao có phù
hợp hay không…


9

Khấu hao là một yếu tố của chi phí sản xuất. Bởi vậy mức khấu hao có ảnh
hưởng đến lợi nhuận, đến mức thuế thu nhập phải nộp hàng năm của DN. Nếu khấu
hao tăng, lợi nhuận giảm và do đó thuế thu nhập DN giảm và ngược lại. Vì vậy, việc
xác định chính xác mức khấu hao có ý nghĩa rất quan trọng trong phân tích tài chính
dự án. Mức khấu hao được xác định hàng năm lại phụ thuộc vào phương pháp tính
khấu hao.
* Thẩm định dòng tiền ròng của dự án
Trên cơ sở số liệu dự tính về dòng tiền vào và dòng tiền ra từng năm có thể

dự tính mức lãi lỗ hàng năm của dự án. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng, nó phản
ánh kết quả của hoạt động sản xuất, dịch vụ trong từng năm của dòng đời dự án.
Đối với NHTM nó là cơ sở về mặt tài chính để đánh giá dự án một cách chính xác.
Trong thẩm định tài chính DAĐT, việc thẩm định dòng tiền của dự án có thể
nói là việc khó nhất. Thẩm định tài chính dự án quan tâm tới lượng tiền đi vào
(dòng vào) và đi ra (dòng ra) của dự án. Đảm bảo cân đối thu chi (cân đối dòng tiền
vào và dòng tiền ra) là mục tiêu quan trọng của phân tích tài chính dự án.
Thu chi của dự án được xác định từ những thông tin trong các báo cáo thu
nhập và chi phí của dự án, song vấn đề là cần phân biệt giữa khoản thu và doanh
thu, giữa chi phí và khoản chi trước khi xây dựng bảng cân đối thu chi của dự án.
- Thẩm định dòng tiền ra hay chính là chi phí của dự án: cần phân biệt giữa
các chi phí và khoản chi. Đối với chi phí, DN đã chấp nhận mua hàng hóa, dịch vụ
nhưng có thể luồng tiền đi ra chưa xuất hiện; còn các khoản chi thì DN đã thực sự
bỏ tiền, tức là đã có luồng ra xuất hiện. Chi phí mà chủ dự án phải bỏ ra đầu tiên
phải kể đến là chi phí cho máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị, ngoài ra cũng phải
tính đến các chi phí đi kèm như chi phí lắp đặt, vận chuyển, bảo hiểm, chi phí cho
việc đào tạo công nhân vận hành, chi phí chạy thử…
Trong việc tính toán chi phí cũng cần phải tính đến yếu tố chi phí cơ hội,
“chi phí cơ hội được định nghĩa là cơ hội thu nhập bị bỏ qua do chấp nhận dự án
này mà không chấp nhận dự án khác”. Khi tính toán các khoản chi cho máy móc và
thiết bị, một dữ kiện dễ bị bỏ qua là vốn luân chuyển cần cho vận hành công trình


10

đầu tư, cũng phải được đưa vào để tính toán chi phí đầu tư. Nếu số vốn luân chuyển
được thu hồi khi dự án ngưng hoạt động thì dự án có giá trị ròng tại thời điểm cuối
và dữ kiện cần phải được tính tới. Các chi phí chìm sẽ không được tính đến trong
phân tích, nó không nên coi là chi phí để đưa vào dòng tiền, bởi nó là chi phí mà
chủ dự án bỏ ra cho dù dự án đó có được chấp nhận hay không. Ngoài ra, chi phí

khấu hao là một chi phí khá quan trọng, trong báo cáo thu nhập của kế toán, khấu
hao được khấu trừ vào chi phí để xác định lợi nhuận trong kỳ, nhưng nó là chi phí
không xuất quỹ, khấu hao được coi như là một nguồn thu nhập của dự án.
Trong khi thẩm định dòng chi phí cũng cần chú ý đến lãi vay, lãi vay vừa là
khoản chi phí, vừa là khoản chi tiêu bằng tiền thật sự nhưng lãi vay thì cũng không
được đưa vào dòng tiền vì lãi vay tượng trưng cho giá trị thời gian của tiền và
khoản này được tính bằng cách chiết khấu dòng tiền tương lai
- Thẩm định dòng thu nhập: Cần phân biệt được doanh thu và các khoản thu.
Doanh thu là giá trị của hàng hóa, dịch vụ đã được bán ra và người mua chấp nhận
mua hàng hóa dịch vụ. Tuy nhiên, đối với các khoản được ghi nhận là doanh thu thì
không xác định được người mua đã trả tiền hay chưa, còn đối với các khoản thu thì
chắc chắn là DN đã thu được tiền. Tức là doanh thu thì có thể chưa xuất hiện dòng
tiền đi vào DN nhưng đối với khoản thu thì chắc chắn dòng tiền đã xuất hiện.
Trong dòng thu của dự án cũng cần phải tính tới giá trị còn lại của thiết bị,
máy móc khi dự án kết thúc. Giá trị còn lại của một tài sản là giá trị tài sản có thể
bán được tại thời điểm dự án kết thúc. Đối với dòng thu còn cần phải chú ý các
khoản thu từ dự án phải loại bỏ thuế thu nhập để tính toán dòng tiền được chính xác.
Chính vì vậy, dòng tiền được sử dụng để tính toán trong thẩm định DAĐT là dòng
tiền sau thuế.
Vậy dòng tiền của dự án là chênh lệch giữa số tiền nhận được và số tiền chi
ra. Dòng tiền mặt không giống như lợi nhuận hay thu nhập. Thu nhập vẫn có thể
thay đổi trong khi không có sự thay đổi tương ứng trong dòng tiền mặt.
Và dòng tiền của dự án được tính như sau:


11

Giá trị thanh lý thường xuất hiện ở năm cuối cùng, được từ việc bán các máy
móc, các tài sản cổ định khác sau khi dự án không tiếp tục hoạt động .
 Thẩm định lãi suất chiết khâu.

Lãi suất chiết khấu được hiểu là tỷ lệ được sử dụng để đưa các dòng tiền của
dự án được quy định về hiện tại để tính giá trị hiện tại ròng (NPV). Cơ sở để lựa
chọn lãi suất chiết khấu là phân tích rủi ro và khả năng sinh lời của dự án. Bên cạnh
đó, cơ cấu vốn cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn lãi suất
chiết khấu. Nếu dự án được đầu tư hoàn toàn bằng vốn tự có của chủ đầu tư thì lãi
suất chiết khấu của dự án chính là chi phí cơ hội của vốn đầu tư đó. Chi phí cơ hội
là thu nhập tốt nhất có thể trong số các cơ hội đầu tư bỏ qua để thực hiện dự án. Và
trên thực tế, chi phí cơ hội thường được xem xét trên giác độ của thị trường tài
chính, tức là chi phí cơ hội là thu nhập bỏ qua do không đầu tư vào tài sản tài chính
(trái phiếu, cổ phiếu…) tốt nhất để theo đuổi thực hiện dự án. Thu nhập bỏ qua ở
đây là thu nhập kỳ vọng của tài sản tài chính tốt nhất. Do đó, việc phân tích và xác
định lãi suất chiết khấu không thể tách rời phân tích mối quan hệ giữa rủi ro và lợi
tức của tài sản tài chính.
Tuy nhiên đối tượng nghiên cứu của chúng ta ở đây là các dự án có sự tham
gia tài trợ vốn của NHTM, chính vì vậy việc xác định lãi suất chiết khấu của dự án
có sự ảnh hưởng rất lớn của cơ cấu vốn đầu tư cũng như mức độ xác định rủi ro của
dự án trên quan điểm của các NHTM. Thông thường trên thực tế các NHTM thường
xác định lãi suất chiết khấu dựa trên lãi suất trái phiếu kho bạc hay lãi suất cơ bản
của ngân hàng nhà nước cộng với một biên độ nhất định, biên độ này tùy thuộc vào
mức độ rủi ro của dự án (ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, tính chất của dự án…) hoặc
chi phí sử dụng vốn bình quân (tính trên cơ sở bình quân gia quyền theo cơ cấu vốn)
cộng với tỷ lệ dự phòng rủi ro nhất định. Vì vậy, lãi suất chiết khấu được tính theo
chi phí vốn bình quân gia quyền WACC theo công thức sau:
n

WACC = ws k s + ∑ wbi k bi (1 − t )
i =1

Trong đó: ws là tỷ trọng vốn tự có tham gia vào dự án



12

k s là chi phí vốn tự có
wbi tỷ trọng của nguồn vốn vay thứ i
k bi lãi vay của nguồn vốn vay thứ i

t thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
 Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án.
Đây là yếu tố then chốt, quyết định đến thẩm định tài chính dự án, đặc biệt là
đối với dự án có nhiều phương án lựa chọn. Việc xác định tiêu chuẩn đánh giá tài
chính dự án đúng đắn sẽ giúp nhà đầu tư cũng như các NHTM lựa chọn được
phương án tối ưu. Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính dự án thường được sử
dụng là:
 Giá trị hiện tại ròng (NPV – Net Present Value)
NPV – giá trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các
dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dư án với vốn đầu tư bỏ ra được hiện
tại hóa ở mốc 0. NPV có thể mang giá trị dương, âm hoặc bằng không. Đây là chỉ
tiêu được sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định tài chính dự án.
NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư, do vậy một dự án có NPV
mang giá trị dương nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ
đầu tư hay nói một cách khác là dự án có hiệu quả bởi dự án không những bù đắp
được vốn đầu tư bỏ ra mà còn mang lại một phần lợi nhuận cho chủ đầu tư trên cơ
sở đã tính đến giá trị thời gian của tiền. Ngược lại, nếu NPV âm có nghĩa là dự án
không hiệu quả, không bù đắp được vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư.
NPV là một chỉ tiêu rất quan trọng, là chỉ tiêu cơ sở trong qua trình thẩm
định và quyết định cho vay của ngân hàng thương mại là chỉ tiêu đánh giá tính khá
thi của dự án. Vì vậy, ngân hàng đã dùng chỉ tiêu NPV làm cơ sở quyết định cho
vay, nếu NPV > 0 thì cho vay và NPV < 0 thì từ chối, không cho vay.
Công thức tính:

n

NPV = ∑
t =1

CFt
− CF0
(1 + k ) t


13

Trong đó:
CF0 : Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu, giả định vốn đầu tư được bỏ ra một lần, vào

đầu năm thứ nhất của dự án.
CFt : Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n.
n : Số năm thực hiện dự án.
k : Lãi suất chiết khấu, giả định là không đổi trong các năm

Khi sử dụng phương pháp NPV để đánh giá hiệu quả dự án, ta cần phải phân biệt
các tinh huống như sau:
-

Đối với các dự án đầu tư là độc lập thì lựa chọn dự án có NPV>0

-

Đối với dự án đầu tư loại trừ nhau (chấp nhận dự án này thì phải loại


bỏ dự án khác) thì dự án đầu tư được lựa chọn là dự án có NPV>0 và cao nhất.
Ưu điểm chính của chỉ tiêu NPV là đơn giản vì dự án được chấp nhận khi có
NPV dương và lớn nhất. Ngoài ra, NPV cho biết chính xác quy mô số tiền lãi ròng
có thể thu được từ dự án, đây là chỉ tiêu được nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất.
Nhược điểm chính của chỉ tiêu này là không đưa ra quyết định chính xác đối
với các phương án có quy mô vốn đầu tư khác nhau, vòng đời khác nhau. Ngoài ra,
chỉ tiêu này phụ thuộc rất nhiều vào lãi suất chiết khấu, lãi suất chiết khấu càng nhỏ
thì NPV càng lớn. Do đó, yếu tố then chốt để đưa ra được quyết định đầu tư đúng
đắn đối với các nhà thẩm định dự án là lựa chọn chính xác lãi suất chiết khấu.
 Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (Internal Rate of Return – IRR)
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR) là chỉ tiêu đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của
một dự án. IRR là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu, ở đó NPV bằng
không.
IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền thu
được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên,
việc giả định các dòng tiền tái đầu tư với lãi suất chiết khấu là không thuyết phục, vì
lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi trong các năm, thể hiện chi phí cơ hội của chủ đầu tư
trong từng năm thay đổi.


14

Cách xác định IRR:
- Phương pháp hay dùng để tính IRR là thử và điều chỉnh: Lần lượt thử các
giá trị lãi suất chiết khấu làm cho NPV bằng không, chọn lãi suất chiết khấu nào
làm cho NPV gần giá trị không nhất thì đó chính là IRR. Phương thức này tốn rát
nhiều thời gian và công sức cũng như là chi phí, tuy nhiên nó đem lại kết quả chính
xác nhất.
- Ngoài ra, phương pháp nội suy cũng được sử dụng để tính IRR. Đây là
phương thức được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tế, bởi nó đơn giản và hiệu quả

thêm vào đó là chi phí thấp. Cách xác định như sau: Chọn một lãi suất chiết khấu k1
sao cho NPV1>0 và gần 0, chọn một lãi suất chiết khấu k2 sao cho NPV2<0 và gần
0. Để đảm bảo độ chính xác cao thì điều kiện được nêu ra là chênh lệch hai giá trị
lãi suất chiết khấu k1, k2 không quá 5%.
IRR = k1 +

NPV1 (k 2 − k1 )
NPV1 − NPV2

Khi sử dụng phương pháp IRR để đánh giá hiệu quả dự án, ta cần phải phân
biệt các tinh huống như sau
Đối với các dự án đầu tư là độc lập thì lựa chọn dự án có IRR lớn hơn lãi
suất chiết khấu.
Đối với các dự án loại trừ nhau thì dự án đầu tư được lựa chọn là dự án có
IRR dương lớn nhất và lớn hơn lãi suất chiết khấu.
Trường hợp đặc biệt dự án có nhiều giá trị IRR, nghĩa là dự án có nhiều lãi
suất chiết khấu làm cho NPV bằng không (trường hợp này người ta gọi là dự án có
IRR đa trị thường gặp ở dự án có dòng tiền đổi dấu). Khi đó để đánh giá ngừơi ta
phải điều chỉnh để chuyển từ IRR đa trị thành IRR đơn trị từ đó mới có thể đánh
giá, so sánh hiệu quả dự án một cách tương đối chính xác.
Ưu điểm của IRR là nó có thể so sánh được các dự án có thời gian khác nhau
cũng như các dự án có vốn đầu tư khác nhau, nó thể hiện tỷ suất sinh lời bình quân
hàng năm của dự án. Tuy nhiên, phương pháp IRR lại không xác định được hiệu
quả theo quy mô của dự án đầu tư.


15

Nhược điểm của IRR là phụ thuộc vào độ chính xác của các dự tính về luồng
tiền. ngoài ra, IRR là một chỉ tiêu mang tính tương đối, tức là nó chỉ phản ánh tỷ lệ

hoàn vốn nội bộ của dự án là bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi (hay
lỗ) bằng tiền.
Khi sử dụng hai phương pháp NPV và IRR để đánh giá về dự án đầu tư thì
thường đem lại một kết luận như nhau. Tuy nhiên có một số trường hợp hai tiêu
chuẩn này lại cho kết quả trái ngược nhau vì dòng tiền hai dự án đang xem xét là
trái ngược nhau về độ lớn. Việc lựa chọn dự án nào sẽ phụ thuộc vào chỉ tiêu lựa
chọn và tỷ lệ thu nhập yêu cầu từ dự án.
 Chỉ số doanh lợi (Profit Index – PI)
Chỉ số doanh lợi (PI) là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, tính
bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư ban
đầu bỏ ra.
Chỉ số PI cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu
nhập. Thu nhập chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
Cách xác định:
n

PI =

CFt

∑ (1 + k )
t =1

t

CF0

CF0 : Vốn đầu tư bỏ ra ban đầu, giả định vốn đầu tư được bỏ ra một lần, vào

năm thứ nhất của dự án.

CFt : Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n.
n : Số năm thực hiện dự án.
k : Lãi suất chiết khấu, giả định là không đổi trong các năm

Tiêu chuẩn lựa chọn dự án: Dự án nào có PI càng cao thì càng dễ được chấp
nhận, những dự án đó phải có PI tối thiểu bằng với lãi suất chiết khấu. Bới ít nhất tỷ
suất sinh lợi của dự án phải bù đắp được chi phí cơ hôi đã bỏ qua khi thực hiện dự
án.
Vì PI phản ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn bỏ ra trong suất vòng đời


16

của dự án chính vì vậy nó khắp phục được nhược điểm của NPV là có thể so sánh
được các dự án có thời gian khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau. Tuy nhiên cũng
giống như tiêu chuẩn IRR, PI là một chỉ số mang tính tương đối do đó nó không
phản ánh được quy mô giá trị gia tăng cho chủ đầu tư như NPV.
 Thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn đầu tư (PP) là thời gian cần thiết để chủ đầu tư thu hồi số
vốn đã đầu tư vào dự án.
PP là chỉ tiêu phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, nó cho biết
sau bao lâu thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư; do vậy, PP cho biết khả năng tạo thu
nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn. Chính vì vậy, chỉ tiêu
PP giúp cho thẩm định viên có một cái nhìn tương đối chính xác về mức độ rủi ro
của dự án. Chỉ tiêu này được các nhà tài trợ, đặc biệt là các NHTM ưa thích vì thời
gian thu hồi vốn càng dài thì mức độ rủi ro càng cao. Ngay cả chủ đầu tư cũng ưa
thích các dự án có PP thấp do thời gian thu hồi vốn càng ngắn đồng nghĩa với việc
khả năng quay vòng vốn của chủ đầu tư càng nhanh.
Cách xác định:
PP = n +


Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi
Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn

Trong đó: n là năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư
Ưu điểm của PP là cho biết tương đối chính xác khả năng tạo thu nhập của
dự án từ khi đầu tư cho đến khi thu hồi vốn.
Nhược điểm của PP không quan tâm đến khả năng tạo thu nhập của vốn đầu
tư của quãng thời gian sau khi thu hồi vốn, không có tiêu chuẩn rõ ràng để lựa chọn
do đó chưa phản ánh chinh xác hiệu quả đầu tư của dự án.
Tiêu chuẩn lựa chọn dự án: Vì PP chỉ quan tâm đến thời hạn thu hồi vốn và
khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi đầu tư đến thời điểm hoàn vốn nên khó có
thể đưa ra được một tiêu chuẩn chung cho việc lựa chọn dự án theo PP. Do vậy,
thông thường PP chỉ được sử dung như là một chỉ tiêu bổ sung hoặc được sử dụng


17

như một công cụ sàng lọc chứ ít khi được dùng như là một chỉ tiêu độc lập để lựa
chọn dự án hay để đưa ra quyết định đầu tư.
 Khả năng trả nợ dài hạn
Nguồn trả nợ của dự án thường bao gồm lợi nhuận sau thuế + khấu hao cơ
bản + các nguồn bổ sung khác (nếu có), ngân hàng sẽ chỉ chấp nhận tài trợ cho các
dự án có thặng dư nguồn trả nợ.
Khả năng trở nợ dài hạn của dự án được đánh giá qua chỉ số DSCR (Debt
Service Coverage Ratio-Chỉ số đánh giá khả năng trả nợ dài hạn của dự án)
Lợi nhuận sau thuế + khấu hao

DSCR =


Nợ gốc trung, dài hạn + Lãi vay trung, dài hạn
 Điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn (BP) là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn
đầu tư. Nói một cách khác điểm hòa vốn là điểm là tại đó doanh thu vừa đủ bù đắp
các khoản chi phí bỏ ra. Nếu biểu diễn trên đồ thị, điểm hòa vốn là giao điểm của
điểm biểu diễn doanh thu và điểm biểu diễn chi phí.
Cách xác định điểm hòa vốn
Qhv =

FC
P − AVC

Trong đó:
Q : Sản lượng hoàn vốn
FC : Tổng chi phí cố định, là chi phí không thay đổi khi sản lượng sản xuất

thay đổi.
AVC : Chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm, AVC thay đổi khi sản

lượng sản lượng sản xuất thay đổi.
P : Giá bán.

Tiêu chuẩn lựa chọn dự án: Mặc dù BP giúp cho người thẩm định có cái nhìn
trực quan về khả năng hòa vốn của dự án bởi chỉ cần tiêu thụ vượt quá mức sản
lượng hoàn vốn thì chủ đầu tư có lãi. Tuy nhiên, cũng giống như PP, BP không quan


18

tâm đến khả năng tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hồi vốn đầu tư. Do vậy, việc so

sánh các dự án có thời gian khác nhau, vốn đầu tư khác bằng chỉ tiêu BP có chính
xác không cao. Và như vậy, đương nhiên khó có thể sử dụng BP như là một tiêu chí
độc lập để đánh giá và lựa chọn dự án được, nó cũng chỉ được dùng như là một tiêu
chí phụ hoặc được sử dụng kết hợp với các tiêu chí khác để giúp cho nhà thẩm định
có được cái nhìn tổng quan hơn về dự án đầu tư.
 Lợi nhuận kế toán bình quân
Lợi nhuận kế toán bình quân (AAP) là lợi nhuận kế toán thuần túy bình quân
qua các năm của dự án.
Cách xác định:
AAP =

∑( Doanh thu – Chi phí – Thuế thu nhập doanh nghiệp)
n

Trong đó: n là số năm thực hiện dự án
AAP là chỉ tiêu giúp cho nhà thẩm định biết được khả năng tạo ra lợi nhuận
về mặt kế toán qua các năm thực hiện các dự án đầu tư. AAP là chỉ tiêu tuyệt đối,
nó cho biết chính xác lợi nhuận bình quân qua các năm mà dự án đầu tư tạo được
qua các năm trong suốt vòng đời của dự án.
AAP là chỉ tiêu phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận kế toán bình quân qua
các năm thực hiện dự án, do đó dự án nào có AAP càng lớn thì càng mang lại nhiều
thu nhập cho chủ đầu tư nên càng dễ được chủ đầu tư lựa chon. Tuy nhiên, AAP là
chỉ tiêu xem xét lợi nhuận kế toán bình quân thuần túy qua các năm thực hiện dự
án, nó không xét đến giá trị thời gian của tiền cũng như các dòng tiền tạo ra từ dự
án. Do vậy, AAP chỉ được sử dụng như là một chỉ tiêu hỗ trợ chứ không được dùng
như là một chỉ tiêu độc lập để lựa chọn dự án. Thông thường trên thực tế người ta
hay sử dụng AAP như là một chỉ tiêu hỗ trợ cho chỉ tiêu NPV.
 Thẩm định rủi ro dư án.
Rủi ro của dự án theo một cách hiểu chung nhất chính là khả năng để một
biến cố không có lợi xẩy ra. Đối với các nhà đầu tư thì rủi ro chính là khả năng mà



19

lợi tức thực tế từ việc đầu tư thấp hơn so với lợi tức dự kiến. Còn rủi ro đối với các
NHTM trong việc tài trợ dự án chính là việc không thu hồi được một phần hay toàn
bộ vốn (gốc + lãi), hay nói một cách khác chính là khả năng mất vốn đầu tư. Rủi ro
chính là yếu tố được các NHTM quan tâm hàng đầu trong hoạt động cho vay bởi nó
quyết định sự tồn vong cũng như sự phát triển của ngân hàng.
Do đó khi nghiên cứu rủi ro của một dự án đầu tư người ta thường nghiên
cứu các rủi ro của các yếu tố cấu thành lên lợi tức như doanh thu, chi phí biến đổi…
Bên cạnh đó ngay cả đối với các dự án có mức lợi tức thực tế bằng hoặc cao hơn dự
kiến cũng có thể có rủi ro do yếu tố lãi suất chiết khấu thay đổi. Do đó khi thẩm
định dự án các NHTM thường thẩm định phần lợi tức đi kèm với dự báo về mức lợi
tức có thể đạt được khi có sự thay đổi dẫn đến thay đổi của doanh thu và lãi suất
chiết khấu. Với rủi ro này ngân hàng áp dụng các phương pháp sau:
 Phần tích độ nhạy
Đây là phương pháp phân tích rủi ro phổ biến nhất. Phương pháp phân tích
độ nhạy nhằm chỉ ra chính xác sự thay đổi của các chỉ tiêu tài chính (thường NPV,
IRR), khả năng trả nợ của dự án (thông qua chỉ tiêu DSCR) khi các biến đầu vào
thay đổi. Sự thay đổi của các chỉ tiêu tài chính, khả năng trả nợ của dự án có thể
khảo sát theo sự thay đổi của một biến đầu vào (nhằm xem xét ảnh hưởng đơn lẻ
của từng yếu tố đầu vào nhằm tìm ra yếu tố gây nên sự nhạy cảm lớn của chỉ tiêu
hiệu quả xem xét) hoặc nhiều biến (nhằm xem xét ảnh hưởng đồng thời của nhiều
yếu tố đầu vào).
 Phương pháp toán xác suất
Phương pháp này được sử dụng trong phân tích, đánh giá dự án trong trường
hợp có nhiều khả năng xảy ra rủi ro. Bằng việc tính kỳ vọng toán của các biến cố,
người đầu tư có thể cân nhắc để lựa chọn phương án tối ưu trong các phương án có
thể có. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ tiêu kỳ vọng toán của các biến cố chỉ có ý nghĩa

để chủ đầu tư xem xét đánh giá hiệu quả tài chính của dự án trong trường hợp có
nhiều khả năng và rủi ro chứ không phản ánh đúng giá trị thực của các biến cố.


20

 Phương pháp mô phỏng của Monte Carlo
Phương pháp này phân tích kết quả của dự án dưới sự tác động đồng thời của
các yếu tố trong các tình huống khác nhau có tính tới phân bố xác suất và giá trị có
thể có của các biến số yếu tố đó. Ưu điểm của phương pháp mô phỏng của Monte
Carlo so với các phương pháp trên là xem xét đồng thời sự kết hợp của các yếu tố,
có tính tới mối quan hệ của các yếu tố đố. Tuy nhiên, đây là phương pháp khá phức
tạp, đòi hỏi người phân tích phải có kinh nghiệm, kỹ năng thực hiện tốt với sự trợ
giúp của máy tính, việc ước lượng về xác suất xảy là khó, bởi vậy, nếu sử dụng
phương pháp này phải tốn nhiều chi phí và thời gian.
1.2.2. Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
Chất lượng thẩm định tài chính dự án là Mức độ chuẩn xác của các kết quả
thẩm định tài chính dự án trên cơ sở các nguồn thông tin tin cậy, các giả định có căn
cứ thuyết phục với việc áp dụng các phương pháp thẩm định, qui trình thẩm định,
nội dung thẩm định phù hợp trong điều kiện thời gian ngắn nhất và với chi phí thấp
nhất.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án là một khái niệm trừu tượng và khó có
thể lượng hóa, nó phụ thuộc vào quan điểm của mỗi chủ thể liên quan đến dự án
Chính vì vậy đối với NHTM chất lượng thẩm định tài chính dự án chính là
việc có được câu trả lợi nhanh nhất và chính xác nhất: dự án của khách hàng đề ra
có hiệu quả về mặt tài chính hay không? Từ đó làm cơ sở để trả lời khách hàng là
cho vay hay không cho vay đối với một dự án đầu tư mà khách hàng đã đưa ra. Nếu
có thì là bao nhiêu với thời gian cho vay bao lâu, việc phần kỳ trả nợ ra sao kế

hoạch phòng ngừa rủi ro như thế nào?
Đối với chủ đầu tư: chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư nghĩa là
cung cấp cho chủ đầu tư những thông tin mang ý nghĩa, đáng tin cậy cho việc lựa
chọn được dự án đầu tư có hiệu quả tài chính cao nhất.
Đối với Nhà nước: chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là việc chấp


21

nhận, phê duyệt những dự án có tính khả thi về mặt tài chính, mang lại lợi ích cho
người tham gia đầu tư và góp phần thực hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
1.2.2.2. Một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của
ngân hàng thương mại
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của NHTM đã thể hiện thông
qua các chỉ tiêu sau đây:
 Doanh số cho vay, thu nợ và dư nợ
Doanh số cho vay trong kỳ: Tổng số tiền đã cho vay trong kỳ tính cho ngày,
tháng, quí, năm.doanh số cho vay phản ánh số lượng hoạt động cho vay trong kỳ.
Doanh số thu nợ trong kỳ: Tổng các khoản thu nợ phát sinh trong kỳ, tính
cho ngày, tháng, quí và năm.
Dư nợ: là chỉ tiêu phản ánh số tiền mà ngân hàng hiện đang cho vay tính đến
thời điểm cụ thể, dư nợ là chỉ tiêu tích lũy qua các kỳ

Dư nợ
cuối kỳ

Dư nợ
= đầu kỳ


Dư nợ bình
quần trong kỳ

Doanh số
Doanh số thu
+ cho vay trong kỳ - nợ trong kỳ

Tổng dư nợ cuối kỳ các ngày

=

365 ngày

Dư nợ ròng = Dư nợ - Dự phòng tổn thật tín dụng
 Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa tổng dư nợ quá hạn trong tổng dư
nợ của ngân hàng. Xác định bằng công thức sau:
Tỷ lệ nợ
quá hạn

=

Tổng dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ

x 100%


22

Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu định lượng cơ bản và quan trọng nhất phản ánh

chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng thẩm định tài chính dự án nói riêng của
NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao chứng tỏ chất lượng thẩm định càng thấp và
ngược lại.
 Tỷ lệ các dự án không trả nợ đúng kế hoạch là tỷ lệ phần trăm giữa số dự
án không trả nợ đúng kế hoạch trong tổng dư nợ. Xác định bằng công thức sau:
Tỷ lệ các dự án không trả
nợ đúng kế hoạch dự kiến

=

Số dự án không trả nợ đúng kế hoạch
Tổng dư nợ

x 100%

Tỷ lệ các dự án không trả nợ đúng kế hoạch là chỉ liệu định lượng phản ánh
chất lượng thẩm định tài chính dự án không nhỏ, nếu tỷ lệ các dự án không trả nợ
đúng kế hoạch cao và tăng thì thẩm định tài chính dự án có chất lượng chưa tốt và
ngược lại.
Ngoài ra, ta có thể đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án qua các chỉ
tiêu: dư nợ gốc cho vay theo dự án hoạch toán ngoại bảng, dư lãi treo của các khoản
cho vay theo dự án. Các chỉ tiêu này cho biết việc thu hồi vốn của dự án có đúng theo
quy mô, thời gian, phương thức như dự kiến hay không. Nếu dư nợ gốc và lãi treo
giảm xuống thì có nghĩa chất lượng thẩm định tài chính dự án tăng lên và ngược lại.
1.3. Các nhân tổ ánh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án trong
hoạt động cho vay của NHTM.
1.3.1. Nhân tổ chủ quan
 Nhân tố con người
Đội ngũ cán bộ bao gồm cả cán bộ quản lý dự án và cán bộ thẩm định là
nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng thẩm định. Nếu nhà quản lý nhận thức

đúng ý nghĩa của thẩm định tài chính dự án thì mới tạo những điều kiện cho cán bộ
thẩm định. Đồng thời đối với cán bộ thẩm định, nếu cán bộ thẩm định có năng lực
chuyên môn tốt và tuân thủ tốt quy trình thẩm định thì kết quả thẩm định tài chính
dự án thường đáng được tin cậy. Con người được coi là động lực của sự phát triển
xã hội với ý nghĩa họ chính là chủ thế đồng thời là đối tượng phục vụ mà các hoạt


23

động xã hội hướng tới và là nhân tố trung tâm trong mọi công việc. Do vậy có thể
nói rằng con người là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định
tài chính dự án. Chính họ là chủ thể trực tiếp lựa chọn phương pháp, chỉ tiêu thẩm
định đồng thời họ cũng là người quyết định công tác thu thấp, lựa chọn và xử lý
thông tin để đưa ra quyết định cuối cùng về dự án.
Vì vậy, việc thẩm định tài chính dự án đòi hỏi người làm công tác thẩm định
không những phải có kiến thức chuyên sâu, hiểu biết rộng mà còn phải có đạo đức
nghề nghiệp tốt. Nếu không có đạo đức nghề nghiệp thì có thể sẽ có những đánh giá
sai lệch một cách cố ý về hiệu quả tài chính dự án, dẫn đến kết quả thẩm định không
đáng tin cậy.
 Phương pháp và chỉ tiêu thẩm định
Phương pháp và chỉ tiêu thẩm định là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến việc ra quyết định dự án có hiệu quả hay không? Bởi cũng vẫn một dự án
đó với dữ liệu và số liệu đó, nhưng đối với chỉ tiêu nay thì dự án lại không hiệu quả,
đối với hệ thống chỉ tiêu khác lại có hiệu quả. Bởi vì phương pháp và chỉ tiêu nào
cũng có cái hạn chế và chỉ đúng trong những trường hợp nhất định mà thôi.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp thẩm định tài chính dự án khác nhau
nhưng việc lựa chọn phương pháp, chỉ tiêu thẩm định nào cho phù hợp với điều
kiện của từng dự án cũng rất quan trọng. Các phương pháp thẩm định tài chính hiện
đại không chỉ xem xét dự án trong trạng thái tính mà còn phân tích trạng thái động
của thị trường. Điều quan trọng là ngân hàng thương mại phải biết áp dụng một

cách đồng bộ các chỉ tiêu để vừa đảm bảo tính chính xác toàn diện, kết hợp được ưu
điểm của các chỉ tiêu phù hợp với điều kiện tình hình thực tế của các ngành vùng,
mỗi dự án cũng như điều kiện cụ thể của ngân hàng.
 Chất lượng thông tin
- Thông tin là nguyên vật liệu đầu vào của quá trình thẩm định để phân tích,
đánh giá dự án nên thông tin có tác động trực tiếp đến mức độ tin cậy của kết quả
thẩm định tài chính dự án hay chất lượng thẩm định tài chính dự án. Bản chất của
thẩm định tài chính là quá trình phân tích, so sánh và đánh giá giữa các chỉ tiêu kinh


24

tế-kỹ thuật trong dự án với các thông tin, tài liệu, số liệu mà người thẩm định đã thu
thập được. Bởi vậy, thông tin được thu thập phải có tính chất như sau:
- Thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời từ các nguồn đáng tin cậy thì các giả
định đưa ra trong thẩm định tài chính mới có căn cứ thuyết phục và sẽ làm tăng sự
chính xác của các phân tích, dự báo. Từ đó, sẽ tăng chất lượng kết quả thẩm định tài
chính dự án. Ngược lại, nếu thông tin thu thập không đầy đủ hoặc sử dụng các
nguồn thông tin có độ tin cậy thấp thì sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm trong kết
quả thẩm định.
- Số lượng nguồn cung cấp thông tin cũng là một trong những yếu tố làm
tăng mức độ tin cậy của thông tin. Trong thẩm định tài chính dự án, NHTM cần
được thu thập nhiều kênh thông tin khác nhau để có cơ sở kiểm chứng, đối chiếu, so
sánh và phát hiện ra những điểm sai sót, bất hợp lý trong các thông tin mà khách
hàng cung cấp. Thông thường, để kiểm chứng thông tin, Ngân hàng thường phải thu
thập thêm từ các kênh thông tin độc lập khác.
 Trang thiết bị, công nghệ phục vụ thẩm định .
Các trang thiết bị công nghệ đặc biệt là các phần mềm chuyên dụng phục vụ
quá trình thẩm định tiện ích, hiện đại thì sẽ góp phần làm tăng năng suất lao động,
đồng bộ qui trình thẩm định, tăng độ chính xác của các nội dung thẩm định, từ đó,

làm tăng chất lượng thẩm định và giảm thời gian thẩm định, chi phí thẩm định. Vì
vậy, cần đánh giá chất lượng thẩm định tài chính thông qua mức độ sử dụng các
phần mềm thẩm định. Vì vậy, nhóm chỉ tiêu này bao gồm như sau:
-

Xây dựng phần mềm chuyên dụng trong thẩm định.

-

Đầu tư trang thiết bị máy tính hiện đại tốc độ cao phục vụ công tác thẩm

định.
Để đánh giá chính xác về mức độ tin cậy của kết quả thẩm định dự án hoặc
nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án, ta phải sử dụng tổng hợp cả 5 nhóm
chỉ tiêu định tính trên.
Với vai trò là yếu tố tư liệu lao động phục vụ cho quá trình thẩm định, quá
thẩm định tài chính dự án sẽ được rút ngắn về thời gian, công sức, đồng thời tăng độ


25

chính xác trong phân tích, đánh giá hiệu quả tài chính nếu có sự trợ giúp của các
trang thiết bị và công nghệ hiện đại như máy tính, máy chuyên dụng, mạng internet,
kho thông tin điện tử. Với trang thiết bị hiện đại, việc thu thập và xử lý thông tin sẽ
được tiến hành một cách nhanh chóng, chính xác, các cơ hội đầu tư sẽ được nằm bắt
kịp thời. Đắc biệt là sự trợ giúp của các phần mềm phục vụ riêng cho thẩm định tài
chính dự án, các phần mềm phần tích thống kê, toán kinh tế sẽ giúp cho việc tính
toán, đánh giá và phân tích hiệu quả tài chính dự án một cách chính xác và nhanh
chóng.
 Tổ chức điều hành công tác thẩm định

Thẩm định tài chính dự án đầu tư là tập hợp của nhiều hoạt động có liên quan
chắt chẽ với nhau và các hoạt động khác. Kết quả thẩm định sẽ phụ thuộc rất nhiều
vào công tác tổ chức quản lý, điều hành và sự phối hợp nhịp nhàng của các bên có
liên quan trong quá trình thẩm định.
Việc thẩm định phải tuân theo một trình tự khoa học đã được tổ chức một cách
chẽ để đảm bảo phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận tham gia vào
quá trình thẩm định. Phải phân định rõ chức năng nhiệm vụ và quyền lợi của từng bộ
phần tham gia từ đó mới có thể đưa ra các chính sách hỗ trợ, điều chỉnh, chần chỉnh
đảm bảo sao cho các bộ phần phát huy được hết khả năng của mình.
Công tác thẩm định phải được tuân thủ theo một quá trình chuẩn trong đó
quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của từng cán bộ tham gia vào quá trình thẩm
định. Quy định phải cụ thể để đảm bảo sao cho với cùng một dự án trong cùng một
ngành, lĩnh vực thì dù là cán bộ nào thẩm định cũng phải tuân thủ theo đúng quy
trình như vậy. công tác thẩm định điều hành ảnh hưởng rất lớn tới kết quả thẩm
định, nếu công tác thẩm định điều hành tốt thì hiệu quả của việc thẩm định là tốt và
ngược lại.
1.3.2. Nhân tổ khách quan
 Môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế - xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng thẩm định tài
chính dự án, đặc biệt là môi trường kinh tế vĩ mô. Một nền kinh tế tăng trưởng ổn


×