Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần cao su đồng phú DORUCO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.5 KB, 88 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu của mọi nền kinh tế.
Ngày 7/11/2006 tại Geneva (Thụy Sỹ), Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Sự kiện trên
đã mở ra nhiều hơn các cơ hội giao thương với thế giới cho các doanh nghiệp Việt
Nam, tiếp theo đó cũng là những thách thức rất lớn trong cạnh tranh mà đòi hỏi
doanh nghiệp cần phải đủ sức vượt qua. Để có thể tồn tại và phát triển trong môi
trường đầy tính cạnh tranh đó, mỗi doanh nghiệp đều phải tự ý thức không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, phải huy động và sử dụng vốn với hiệu
quả cao nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính. Phân tích tài chính là
một công cụ đắc lực giúp cho các doanh nghiệp thấy rõ thực trạng hoạt động tài
chính và dự đoán tiềm năng tài chính trong tương lai, xác định đầy đủ và đúng đắn
nguyên nhân và giải pháp hữu hiệu để ổn định và củng cố hoạt động tài chính của
doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được rất nhiều các đối tượng
quan tâm như các nhà đầu tư, ngân hàng, các nhà quản lý doanh nghiệp, cơ quan
thuế, các cơ quan quản lý Nhà nước, người lao động... Các đối tượng quan tâm đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới những góc độ khác nhau. Phân tích tài
chính giúp cho tất cả các đối tượng này có thông tin phù hợp với mục đích của
mình, trên cơ sở đó họ có thể đưa ra các quyết định hợp lý trong kinh doanh.
Việt Nam là một trong những quốc gia có sản lượng khai thác cao su tự nhiên
nhiều nhất thế giới. Vì thế, cao su là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của nước ta. Cây cao su có vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp, vừa là cây lấy
mủ nguyên liệu, lấy gỗ, vừa góp phần bảo vệ đất, chống xói mòn. Phát triển cao su
ở Việt Nam có nhiều lợi thế: nhiều vùng có điều kiện khí hậu, đất đai thích hợp cho
trồng cao su, nguồn nhân lực dồi dào, giá thành sản xuất thấp so với nhiều nước
khu vực, vị trí địa lý của Việt Nam khá thuận lợi gần các thị trường tiêu thụ lớn như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Phát triển cây cao su là một trong những vấn
đề chủ đạo được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Do vậy, ngày 3/6/2009 Chính phủ đã


ban hành Quyết định 750/QĐ-TTg về Quy hoạch phát triển cao su đến năm 2015 và
tầm nhìn đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu đến năm 2015, cả nước sẽ có 800.000


2
ha cao su và sản lượng mủ đạt 1,2 triệu tấn. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt
2 tỷ USD.
Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp cao su Việt Nam có
những điều kiện thuận lợi trong hợp tác kinh tế nhưng cũng phải đối mặt với nhiều
khó khăn thách thức. Để đứng vững, phát triển và thực hiện thắng lợi chủ trương
của Nhà nước, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam cần phấn đấu không
ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, lớn mạnh về quy mô và có uy tín
về chất lượng. Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú là đơn vị trực thuộc Tập đoàn
Công nghiệp Cao su Việt Nam, là một trong những lá cờ đầu trong ngành cao su
trên tất cả các mặt công tác. Công ty có nhiệm vụ chủ yếu là trồng, khai thác và chế
biến mủ cao su, vì vậy nhu cầu về vốn là rất lớn. Công ty đã niêm yết và chính thức
giao dịch cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
11 năm 2007, mã giao dịch là DPR và hiện có 43 triệu cổ phiếu với mệnh giá
10.000 đồng/cổ phiếu. Do đó, công tác quản lý tài chính doanh nghiệp được Công
ty đặc biệt quan tâm, thông tin tài chính minh bạch sẽ giúp các nhà đầu tư an tâm,
giúp cho nhà quản lý điều hành hoạt động của doanh nghiệp với hiệu quả cao nhất.
Trên thực tế, công tác phân tích tài chính đã được thực hiện tại Công ty cổ phần
Cao su Đồng Phú nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quản lý, nội
dung phân tích còn sơ sài, chưa phát huy được vai trò là một công cụ tài chính quan
trọng trong doanh nghiệp. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài “Hoàn
thiện phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú DORUCO”.

2. Tổng quan những nghiên cứu về tình hình tài chính
Các vấn đề về phân tích tài chính trong các doanh nghiệp nói chung đã được
nhiều tác giả quan tâm, đề cập đến trong các sách báo, tạp chí, công trình nghiên

cứu từ cuối những năm 80. Các tài liệu này có thể được chia làm hai loại, loại thứ
nhất gồm các công trình chuyên về phân tích tài chính và loại thứ hai gồm các
công trình trong đó phân tích tài chính chỉ là một phần bên cạnh nhiều chủ đề khác.
Các công trình chuyên về nghiên cứu phân tích tài chính đã đề cập đến các
vấn đề cơ bản của phân tích như hệ thống chỉ tiêu phân tích, phương pháp, cơ sở dữ
liệu và tổ chức công tác phân tích. TS Nguyễn Viết Lợi (năm 2003) trong luận án
“Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho


3
phân tích tài chính doanh nghiệp ở Việt Nam” đã nghiên cứu về cơ sở dữ liệu
phục vụ cho phân tích. PGS.TS Nguyễn Năng Phúc, PGS.TS Nghiêm Văn Lợi,
PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang (năm 2006) trong tác phẩm “Phân tích tài chính
công ty cổ phần” đã trình bày hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong các công
ty cổ phần cùng các phương pháp được áp dụng và quy trình phân tích; PGS.TS
Nguyễn Năng Phúc (2008) biên soạn giáo trình “Phân tích báo cáo tài chính”.
Ngoài ra còn rất nhiều các nghiên cứu khác như: tác giả Nguyễn Đình Hà (2002)
với đề tài “Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình tài chính của Tổng Công ty
Hàng không Việt Nam”; Đỗ Quỳnh Trang (năm 2006) nghiên cứu về “Phân tích
tình hình tài chính nhằm nâng cao hiệu quả tài chính và năng lực đấu thầu tại
Tổng Công ty Công trình giao thông I”; Nguyễn Thị Hằng (năm 2006) nghiên cứu
về “Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Dược Việt Nam”;
Lê Việt Anh (2007) nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính tại
các doanh nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh Hải Dương”;… Các tác giả nước ngoài
cũng đi sâu nghiên cứu về vấn đề này như: Clyde P. Stickney và Paul R. Brown
(1999) nghiên cứu về trình bày báo cáo tài chính và phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp; Tác giả Josette Peyrard (năm 1994) trong cuốn sách “Quản lý tài
chính doanh nghiệp” đã đề cập đến phân tích tài chính doanh nghiệp trên các khía
cạnh như nội dung phân tích, cơ sở dữ liệu và phương pháp phân tích.
Các công trình trong đó có đề cập đến phân tích tài chính bên cạnh nhiều chủ

đề khác bao gồm nhiều loại như giáo trình trong các trường đại học, các cuốn sách
viết về phương pháp lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính hay các cuốn
viết về kế toán, kiểm toán và phân tích ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Trong
cuốn “Phân tích kinh doanh” (năm 2009), PGS.TS Nguyễn Văn Công đã đề cập
đến nội dung phân tích tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh. PGS.TS
Nguyễn Văn Công, PGS.TS Nguyễn Năng Phúc, TS. Trần Quý Liên trong tác
phẩm “Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính” (năm 2002) bên cạnh các
vấn đề về nội dung, cách thức lập báo cáo tài chính đã đề cập đến nội dung,
phương pháp phân tích và các chỉ tiêu được sử dụng trong phân tích báo cáo tài
chính…
Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về phân tích tình hình tài
chính doanh nghiệp đã được công bố dù đã tập trung vào nhiều ngành, nhiều lĩnh


4
vực nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về tình hình tài chính trong các công
ty cao su – một ngành sản xuất và xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam. Chính vì vậy,
luận văn đã tập trung nghiên cứu để đánh giá thực trạng tài chính của một công
ty có quy mô và lợi nhuận đạt được tương đối lớn trong Tập đoàn Công nghiệp
cao su Việt Nam và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính
trong doanh nghiệp này.

3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của luận văn
- Tổng hợp và hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về phân tích tài chính
trong các doanh nghiệp cao su ở Việt Nam.
- Xem xét và đánh giá thực trạng tình hình tài chính tại Công ty cổ phần cao
su Đồng Phú, qua đó nhận biết các ưu điểm và các nhược điểm của hệ thống.
- Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính của doanh
nghiệp, một số chỉ tiêu đánh giá tình tình tài chính cũng như các điều kiện cơ bản
để áp dụng các chỉ tiêu này tại Công ty cổ phần Cao su Đồng Phú nói chung và

trong toàn Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam nói riêng.

4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn phân tích và đánh giá thực trạng tình hình tài chính tại Công ty Cổ
phần Cao su Đồng Phú thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn:
phương pháp phỏng vấn, thu thập thông tin, tổng hợp, so sánh, phân tích tình
huống.

6. Giới thiệu bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính trong các doanh
nghiệp
Chương 2: Thực trạng phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần Cao
su Đồng Phú - DORUCO
Chương 3: Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần Cao
su Đồng Phú – DORUCO.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Tài chính doanh nghiệp và tình hình tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Bản chất tài chính và vai trò của tài chính doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có vai trò vô cùng quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Nghiên cứu về tài chính doanh nghiệp để phục
vụ cho hoạt động quản trị đã thúc đẩy sự hình thành lý luận về tài chính doanh
nghiệp. Từ những nghiên cứu ban đầu đã và đang được hoàn thiện và phát triển. Đã
có nhiều khái niệm được đưa ra về tài chính doanh nghiệp, tuy nhiên những khái
niệm này về cơ bản được chia thành hai quan điểm như sau:
* Thứ nhất: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống những quan hệ kinh tế dưới
hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp và
góp phần đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp [9, tr. 157], [13, tr. 12], [21, tr.
86], [25, tr. 5].
Nếu xét trên phạm vi hoạt động, các quan hệ tài chính doanh nghiệp bao gồm:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước: đó là những quan hệ về
cấp phát vốn và thu hồi vốn đối với các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp
thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước như nộp các khoản thuế, lệ phí
theo quy định đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Các quan hệ này tuân thủ các
quy định của Nhà nước.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường (thị trường vốn, thị
trường hàng hóa, thị trường sức lao động…). Đó là các quan hệ trong mua bán
hàng hóa dịch vụ, trao đổi các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh
và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, các quan hệ cung ứng, đầu tư vốn cho


6
doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: đây là các quan hệ về phân
phối vốn, phân phối thu nhập trong nội bộ doanh nghiệp (như các quan hệ về điều
chuyển vốn giữa các bộ phận, chi nhánh của doanh nghiệp, quan hệ về thanh toán
tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ nhân viên của doanh nghiệp, chi trả cổ tức cho

các cổ đông).
Xét theo nội dung kinh tế, các quan hệ tài chính doanh nghiệp được chia
thành các nhóm sau:
- Các quan hệ tài chính về khai thác, thu hút vốn: bao gồm những quan hệ về
vay vốn, nhận góp vốn dưới nhiều hình thức như vay ngân hàng, phát hành trái
phiếu, cổ phiếu, nhận vốn góp liên doanh… Thông qua các quan hệ này, vốn kinh
doanh của doanh nghiệp được tạo lập.
- Các quan hệ tài chính về đầu tư, sử dụng vốn kinh doanh: bao gồm những
quan hệ trong phân phối vốn của doanh nghiệp để hình thành cơ cấu vốn kinh
doanh phù hợp và sử dụng chúng nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh.
Những quan hệ này hầu hết xảy ra trong nội bộ doanh nghiệp. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp cũng có thể đầu tư vốn ra bên ngoài như mua cổ phiếu của công ty
khác, góp vốn liên doanh… Đây cũng là một kênh đầu tư quan trọng mà các
doanh nghiệp có thể sử dụng nhằm thu lợi nhuận.
- Các quan hệ tài chính về phân phối thu nhập và lợi nhuận: bao gồm các
quan hệ với nhiều đối tượng phân phối khác nhau như Nhà nước, ngân hàng, cổ
đông, các doanh nghiệp góp vốn liên doanh, quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp…
Mối quan hệ với Nhà nước được thể hiện trong việc nộp thuế, quan hệ với ngân
hàng trong việc thanh toán lãi tiền vay, quan hệ với các cổ đông, các doanh nghiệp
góp vốn trong thanh toán cổ tức, lãi liên doanh, quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
thể hiện trong bù đắp chi phí của các yếu tố đầu vào, phân phối các quỹ của doanh
nghiệp.
* Thứ hai: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch
giá trị, các luồng vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập
hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của các doanh nghiệp, nhằm


7
đạt tới mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ của pháp luật [3, tr. 6], [26, tr. 75]. Sự
vận động của các nguồn tài chính đều được nảy sinh và gắn liền với các khâu

của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự vận động này được hoà
nhập vào chu trình kinh tế của nền kinh tế, đó là sự vận động chuyển hoá từ các
nguồn tài chính thành các quỹ, hoặc vốn kinh doanh của doanh nghiệp và ngược
lại.
Từ hai quan điểm trên đây, theo tác giả thì hai quan điểm trên đã có sự khác
biệt nhất định. Quan điểm thứ nhất cho rằng tài chính doanh nghiệp là hệ thống
các quan hệ kinh tế trong doanh nghiệp và quan điểm thứ hai cho rằng tài chính
doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động của
những nguồn tài chính. Tuy nhiên, bản chất của hai quan điểm trên đều phản ánh
những luồng dịch chuyển giá trị hay phản ánh sự chuyển hoá, vận động của các
nguồn lực tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đều
góp phần giúp doanh nghiệp đạt được những mục tiêu nhất định. Từ phân tích trên,
theo ý kiến của tác giả thì tài chính doanh nghiệp được đặc trưng bởi quá trình
hình thành, phân phối và sử dụng nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá
trình trên được gọi là các quan hệ tài chính của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, các vai trò này được thể hiện cụ thể như sau: [8, tr. 99-101],
[21, tr. 91-95], [26, tr.80-86]:
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ khai thác, thu hút vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể hoạt động được, doanh nghiệp cần có
vốn. Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp bao gồm cả vốn dài hạn và ngắn hạn. Vai
trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện qua cả quá trình từ xác định chính xác
nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh đến lựa chọn và tiến hành huy động vốn
với các hình thức phù hợp. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
có thể huy động vốn với nhiều hình thức như đi vay ngân hàng, vay các cá nhân và
tổ chức khác, phát hành trái phiếu, cổ phiếu, liên doanh liên kết… Tài chính
doanh nghiệp lựa chọn hình thức huy động vốn với hiệu quả cao đảm bảo cho



8
doanh nghiệp hoạt động liên tục với chi phí huy động vốn tiết kiệm nhất.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ trong việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm
và có hiệu quả.
Việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả là một trong những điều kiện quan
trọng nhất cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng
vốn. Để xác định vốn nên sử dụng như thế nào, tài chính doanh nghiệp có vai trò
quan trọng thông qua đánh giá và lựa chọn phương án đầu tư, trên cơ sở phân tích
khả năng sinh lãi và mức độ rủi ro của phương án, từ đó góp phần chọn ra phương
án đầu tư tối ưu. Cũng trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu tài chính có thể đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn, cơ cấu phân phối vốn, chỉ ra những điểm bất hợp lý cần
khắc phục, giúp doanh nghiệp có biện pháp điều chỉnh, sử dụng vốn tốt hơn.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ để kiểm soát các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp phản ánh tổng hợp hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp thể hiện vai
trò kiểm soát chủ yếu thông qua việc phân tích, đánh giá hệ thống các chỉ tiêu tài
chính. Thông qua các chỉ tiêu như hệ số thanh toán, hệ số sinh lãi, hiệu quả sử
dụng vốn, cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu phân phối sử dụng vốn… nhà quản lý có
thể đánh giá được thực trạng các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Trên cơ
sở đó, người quản lý có thể kịp thời phát hiện các điểm yếu, những vấn đề tồn tại
vướng mắc và nguyên nhân của nó để có biện pháp khắc phục, điều chỉnh quá
trình sản xuất kinh doanh nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất
kinh doanh.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có quan hệ với nhiều chủ
thể khác nhau như ngân hàng, các cổ đông, các đơn vị góp vốn liên doanh, các
khách hàng và nhà cung cấp… Tài chính doanh nghiệp thể hiện vai trò thúc đẩy
phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở các chức năng của nó được vận dụng một



9
cách tổng hợp nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể trên. Như vậy, vai trò này
được phát huy như thế nào còn phụ thuộc vào khả năng và điều kiện vận dụng của
người quản lý tài chính. Nếu người quản lý tài chính có khả năng vận dụng tốt các
chức năng của tài chính doanh nghiệp thể hiện qua việc huy động vốn, quản lý
phân phối sử dụng vốn, phân phối thu nhập một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao,
phù hợp với điều kiện kinh doanh và cơ chế quản lý của nhà nước thì tài chính
doanh nghiệp sẽ thể hiện được vai trò trợ giúp đắc lực trong việc phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh. Cụ thể hơn, người quản lý tài chính có thể sử dụng các
công cụ tài chính để xác định phương án đầu tư, xác định lãi suất trái phiếu, cổ tức,
xác định cơ cấu tài sản, tiền lương, tiền thưởng… để thu hút vốn với chi phí tiết
kiệm nhất, sử dụng vốn một cách hiệu quả, kích thích tăng năng suất lao động…
nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh.
Từ những nội dung phân tích trên có thể thấy rằng, vai trò của tài chính doanh
nghiệp sẽ trở lên tích cực hay không sẽ phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan và
chủ quan. Nhân tố chủ quan phụ thuộc vào khả năng, trình độ quản lý của người
quản lý tài chính trong việc ra các quyết định quản trị tài chính doanh nghiệp. Nhân
tố khách quan phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh…
1.1.2. Mối quan hệ giữa tài chính và tình hình tài chính doanh nghiệp
Qua hai khái niệm về tài chính tại mục 1.1.1, có thể thấy rằng bản chất của tài
chính đều phản ánh những luồng dịch chuyển giá trị hay phản ánh sự chuyển hoá,
vận động của các nguồn lực tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, góp phần đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp (mục tiêu lợi
nhuận, chi phí, thị phần, xã hội…).
Trong mỗi một doanh nghiệp, hoạt động tài chính là một trong những nội
dung cơ bản của hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hoạt động tài chính có nội dung
là giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh
được thể hiện qua hình thức tiền tệ và có liên quan đến việc thay đổi cấu trúc tài

chính của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp thể hiện thực trạng tài chính của doanh
nghiệp tại một thời điểm. Tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay không sẽ


10
phản ánh được toàn bộ hoạt động mà doanh nghiệp đang thực hiện. Thông qua tình
hình tài chính, các đối tượng quan tâm sẽ biết được xu thế vận động của tình hình
tài chính và thực trạng tài chính của doanh nghiệp (về khả năng thanh toán, tình
hình sử dụng nguồn vốn, mức độ độc lập về mặt tài chính…).
Tình hình tài chính của doanh nghiệp như một bức tranh tổng thể phản ánh kết
quả các hoạt động mà doanh nghiệp đang tiến hành (hoạt động sản xuất kinh doanh,
hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư). Kết quả từ hoạt động sản xuất kinh doanh,
hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cao sẽ giúp tình hình tài
chính của doanh nghiệp ổn định, lành mạnh, giá trị thực một đồng vốn góp sẽ cao,
cấu trúc tài chính phù hợp, hiệu quả tài chính tốt và ngược lại. Từ đó có thể đánh
giá được kết quả toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong
thời điểm nhất định.
Như vậy, tình hình tài chính của doanh nghiệp phản ánh trung thực và rõ nét
hiệu quả toàn bộ các hoạt động mà doanh nghiệp đã và đang thực hiện. Kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng dồi dào, các khoản
nợ vay “xấu” không còn tồn tại, vốn chủ sở hữu tăng cả về quy mô lẫn tỷ trọng…
Tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh, bền vững sẽ giúp luồng chuyển dịch
giá trị, các luồng vận động của những nguồn tài chính trong doanh nghiệp là cao.
Việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của các doanh
nghiệp sẽ được thực hiện một cách thuận lợi và ngày càng phát triển. Kết quả của
hoạt động tài chính tốt sẽ góp phần làm lành mạnh tình hình tài chính trong doanh
nghiệp và ngược lại, tình hình tài chính doanh nghiệp có khả quan, lành mạnh mới
thúc đẩy, khuyến khích và nâng cao hiệu quả tài chính.


1.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính trong các doanh nghiệp
1.2.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính
Đánh giá khái quát tình hình tài chính là bước đầu tiên trong quá trình phân
tích tình hình tài chính nhằm có những nhận xét chung nhất về xác định thực trạng
và sức mạnh tài chính của doanh nghiệp, biết được mức độ độc lập về mặt tài chính
cũng như những khó khăn về tài chính mà doanh nghiệp đang phải đương đầu (đặc


11
biệt là khả năng thanh toán).
Để công tác đánh giá khái quát tình hình tài chính một có hiệu quả nhất, yêu
cầu đặt ra là phải chính xác và toàn diện. Có đánh giá chính xác thực trạng tài chính
của doanh nghiệp mới giúp các nhà quản lý đưa ra các quyết định hiệu quả, phù hợp
với tình trạng hiện tại của doanh nghiệp và định hướng phát triển trong tương lai,
đồng thời giúp các nhà quản lý có những bước đi phù hợp để nâng cao năng lực tài
chính, năng lực kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương
trường.
Khi đánh giá khái quát tình hình tài chính, các nhà phân tích chỉ dừng lại ở
một số nội dung mang tính khái quát, phản ánh những nét chung nhất thực trạng
hoạt động tài chính của doanh nghiệp như: tình hình huy động vốn, mức độ độc lập
tài chính, khả năng thanh toán và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
hệ thống chỉ tiêu sử dụng để đánh giá khái quát tình hình tài chính cũng hết sức đơn
giản, tiện lợi, dễ tính toán. Khi tính toán và đưa ra những đánh giá, các nhà phân
tích cần sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau đây:
(1) Tổng số nguồn vốn: Thông qua việc nhìn nhận, so sánh những biến đổi
trực tiếp trên Báo cáo tài chính, các nhà phân tích sẽ biết được tổng số nguồn vốn
cuối năm so với đầu năm và so với các năm trước liền kề tăng hay giảm. Đây là một
trong những chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng tổ chức, huy động vốn
trong năm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do vốn của doanh nghiệp tăng, giảm do

nhiều nguyên nhân khác nhau nên khi phân tích, cần kết hợp với việc xem xét cơ
cấu nguồn vốn và sự biến động của nguồn vốn để có nhận xét phù hợp.
(2) Hệ số tự tài trợ: Hệ số tự tài trợ là chỉ tiêu cơ bản nhất phản ánh khả năng
tự bảo đảm và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho
biết, trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn VCSH chiếm mấy phần. Trị
số của chỉ tiêu càng lớn, chứng tỏ khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính càng cao,
mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng tăng và ngược lại. Hệ số tài
trợ được xác định theo công thức:
Hệ số tài trợ =

Vốn chủ sở hữu

(1.1)


12

Tổng số nguồn vốn
Nguồn: [6]
Khi đánh giá, các nhà phân tích cần tính ra trị số của chỉ tiêu “Hệ số tài trợ” ở
kỳ phân tích và kỳ gốc. Từ đó tiến hành so sánh sự biến động của các chỉ tiêu trên
theo thời gian để có nhận định chính xác về xu hướng biến động của mức độ độc
lập tài chính và khi so sánh với trị số bình quân ngành, bình quân khu vực hay với
doanh nghiệp khác để xác định chính xác vị trí hay mức độ độc lập tài chính của
doanh nghiệp hiện tại ở mức nào. Nếu trị số của chỉ tiêu “Hệ số tài trợ” ở mức thấp,
để biết được nhưng doanh nghiệp hội tụ đủ các điều kiện cần thiết để phát triển
trong tương lai hay không các nhà phân tích có thể xem xét, bổ sung các chỉ tiêu
như “Hệ số tự tài trợ tài sản dài hạn” và “Hệ số tự tài trợ tài sản cố định”.
(3) Hệ số tự tài trợ tài sản dài hạn: Hệ số tự tài trợ tài sản dài hạn phản ánh
khả năng trang trải tài sản dài hạn bằng vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này càng cao (lớn

hơn 1) chứng tỏ vốn chủ sở hữu tài trợ cho tài sản dài hạn càng lớn và ngược lại.
Khi đó mức độ an toàn và tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng cao, doanh
nghiệp sẽ ít gặp khó khăn trong thanh toán các khoản nợ dài hạn đến hạn. Tuy
nhiên, nếu vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhiều, một mặt sẽ giúp doanh nghiệp
tự bảo đảm về mặt tài chính nhưng một mặt sẽ dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém do
vốn đầu tư chủ yếu vào tài sản dài hạn, ít sử dụng vào kinh doanh quay vòng để
sinh lợi.
Hệ số tự tài trợ
tài sản dài hạn
Nguồn: [6]

=

Vốn chủ sở hữu
Tài sản dài hạn

(1.2)

(4) Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Khả năng thanh toán tổng quát của
doanh nghiệp được xác đinh theo công thức:
Hệ số khả năng thanh
toán tổng quát
Nguồn: [6]

=

Tổng số tài sản
Tổng số nợ phải trả

(1.3)



13

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp,
thể hiện mối tương quan giữa tổng tài sản mà doanh nghiệp có thể sử dụng để trả
nợ và tổng số nợ phải trả. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng thanh toán
tổng quát của doanh nghiệp cũng càng lớn. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này càng nhỏ
thì
doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán. Thông thường trên thực tế trị số
chỉ tiêu Hệ số khả năng thanh toán tổng quát ≥ 2 thì doanh nghiệp mới đảm bảo
vững chắc khả năng thanh toán và các chủ nợ mới có khả năng thu hồi được nợ khi
đáo hạn.
(5) Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn: Hệ số này được xác đinh theo
công thức:
Hệ số khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn

=

Tài sản ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn

(1.4)

Nguồn: [6]
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn được dùng để đánh giá khả năng
thanh toán tạm thời các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu
trị số của chỉ tiêu này càng ≥ 1, doanh nghiệp có đủ và thừa khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường hoặc khả quan. Ngược lại,

trị số này càng < 1 thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng
thấp. Thông thường trị số chỉ tiêu "Hệ số khả năng thanh toán tổng quát" ≥ 2 thì
doanh nghiệp mới hoàn toàn đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
(6) Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Chỉ tiêu này cho biết với giá trị còn lại
của tài sản ngắn hạn (sau khi đã loại trừ giá trị hàng tồn kho là bộ phận có khả năng
chuyển đổi thành tiền chậm nhất trong toàn bộ tài sản ngắn hạn) thì doanh nghiệp
có đủ khả năng trang trải toàn bộ nợ ngắn hạn hay không. Chỉ tiêu này được tính
như sau:
Hệ số khả năng
thanh toán nhanh
Nguồn: [6]

=

Tài sản ngắn hạn - Hàng tồn kho
Tổng số nợ ngắn hạn

(1.5)


14
Trị số của chỉ tiêu Hệ số khả năng thanh toán nhanh càng lớn > 1 thì doanh
nghiệp luôn đảm bảo và có thừa khả năng thanh toán nhanh và ngược lại. Tuy
nhiên, trên thực tế khi trị số của chỉ tiêu này ≥ 2, doanh nghiệp mới hoàn toàn đảm
bảo khả năng thanh toán nhanh nợ ngắn hạn.
(7) Hệ số khả năng thanh toán tức thời: Hệ số này cho biết với lượng tiền và
tương đương tiền hiện có, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn (nhất là nợ ngắn hạn đến hạn) hay không. Đây là chỉ tiêu phản ánh chính
xác nhất vì nó loại bỏ được tính không chắc chắn của các khoản phải thu cũng như
khả năng chuyển đổi thành tiền chậm của nguồn dự trữ. Chỉ tiêu này được xác định

theo công thức:
Hệ số khả năng
thanh toán tức thời

=

Tiền và tương đương tiền
Tổng số nợ ngắn hạn

(1.6)

Nguồn: [6]
Hệ số khả năng thanh toán tức thời (với các khoản nợ phải trả trong vòng 3
tháng) càng lớn thì khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp càng cao. Tuy
nhiên, nếu hệ số này quá cao thì cũng không tốt vì nếu tử số lớn có nghĩa là doanh
nghiệp duy trì lượng vốn bằng tiền quá cao. Điều này sẽ làm giảm tốc độ luân
chuyển vốn của doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Nhưng nếu hệ số
này quá thấp thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán các
khoản nợ. Vì thế, khi tình hình thanh toán công nợ không thể trì hoãn được, doanh
nghiệp rất có thể phải bán gấp hàng hoá để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán.
(8) Đánh giá khái quát khả năng sinh lợi:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu lớn nhất của doanh nghiệp đó
chính là khả năng sinh lợi. Khả năng sinh lợi của doanh nghiệp phản ánh số lợi
nhuận mà doanh nghiệp thu được tính trên một đơn vị chi phí hay một đơn vị yếu tố
đầu vào.
Khả năng sinh lời của doanh nghiệp được đánh giá trên nhiều góc độ khác
nhau với nhiều chỉ tiêu khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi luận văn, tác giả lựa
chọn những chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất đánh giá khái quát khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp và được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến hiện nay trong hoạt động



15
phân tích tài chính của mình. Đó là chỉ tiêu Sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (gọi tắt
là ROE), Sức sinh lợi của tổng tài sản (gọi tắt là ROA) và chỉ tiêu sức sinh lợi của
doanh thu (gọi tắt là ROS).
Sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE) là chỉ tiêu phản ánh khái quát nhất
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, cho biết một đơn vị vốn chủ sở hữu đem
lại mấy đơn vị lợi nhuận sau thuế. Trị số của ROE càng cao, càng cho thấy hiệu quả
sử dụng vốn chủ sở hữu càng cao, càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Chỉ tiêu này được
xác định theo công thức:
Sức sinh lợi của vốn
chủ sở hữu

=

Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân

(1.7)

Nguồn: [6]
Sức sinh lợi của doanh thu (ROS) được sử dụng như một chỉ tiêu bổ sung
đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bên cạnh chỉ tiêu ROE.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị doanh thu thuần đem lại mấy đơn vị lợi nhuận sau
thuế. ROS được xác định như sau:
Sức sinh lợi của
doanh thu thuần
Nguồn: [6]

=


Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần

(1.8)

Sức sinh lợi của tài sản (ROA) cho biết một đơn vị tài sản được sử dụng
trong quá trình kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Trị số
của chỉ tiêu càng cao, hiệu quả sử dụng tài sản càng lớn. Chỉ tiêu này còn phản ánh
hiệu quả sử dụng tài sản, trình độ quản lý tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này
được xác định theo công thức:
Sức sinh lợi của tổng

=

Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân

tài sản
Nguồn: [6]
1.2.2. Phân tích cấu trúc tài chính

(1.9)

Phân tích cấu trúc tài chính là việc phân tích tình hình huy động, sử dụng vốn
và mối quan hệ giữa tình hình huy động với tình hình sử dụng vốn của doanh
nghiệp. Từ đó, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể nắm bắt được tình hình phân bổ


16

tài sản và các nguồn tài trợ tài sản, xác định được nguyên nhân cũng như các dấu
hiệu ảnh hưởng đến cân bằng tài chính doanh nghiệp.
Những phân tích và đánh giá về các chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính của
doanh nghiệp sẽ là căn cứ quan trọng để các nhà quản lý ra các quyết định điều
chỉnh chính sách huy động và sử dụng vốn của mình, đảm bảo cho doanh nghiệp có
được cấu trúc tài chính lành mạnh, hiệu quả và tránh được những rủi ro.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, song song với huy động vốn phục vụ cho
nhu cầu của mình, các doanh nghiệp còn phải sử dụng số vốn đã huy động một cách
hợp lý, có hiệu quả nhằm tiết kiệm được chi phí huy động vốn ở mức thấp nhất.
Điều này thể hiện ở việc đầu tư số vốn đã huy động vào lĩnh vực kinh doanh hay bộ
phận tài sản nào. Vì thế, phân tích tình hình sử dụng vốn bao giờ cũng được thực
hiện trước hết bằng cách phân tích cơ cấu tài sản.
Khi hành phân tích cơ cấu tài sản, trước hết các nhà phân tích phải xem xét tỷ
trọng của từng bộ phận tài sản trong tổng số tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này
được xác định như sau:
Tỷ trọng của từng bộ phận tài
sản chiếm trong tổng số tài
sản

Giá trị của từng bộ phận tài sản
=

Tổng số tài sản

x 100

(1.10)

Nguồn: [6]
Công thức trên cho ta thấy trong tổng số tài sản thì giá trị của từng bộ phận

tài sản chiếm tỷ trọng bao nhiêu. Muốn xác định được mức độ biến động của chỉ
tiêu này thì trước hết cần phải tính toán các chỉ tiêu này ở kỳ phân tích và kỳ gốc.
Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tiến hành so sánh để xác định mức độ biến động
của chúng. Ngoài ra các nhà phân tích nên kết hợp cả việc so sánh sự biến động
giữa kỳ phân tích với kỳ gốc (cả về số tuyệt đối và số tương đối) trên tổng số tài sản
cũng như theo từng loại tài sản để biết được chính xác tình hình sử dụng vốn, nắm
được các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến
động về cơ cấu tài sản, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá.
Cụ thể, khi phân tích cơ cấu tài sản các nhà phân tích nên đi sâu xem xét tình
hình biến động của từng bộ phận tài sản ở hai chỉ tiêu là: Tỷ trọng tài sản dài hạn


17
trong tổng tài sản (còn gọi là tỷ suất đầu tư tổng quát) và Tỷ trọng tài sản cố định
trong tổng số tài sản (còn gọi là tỷ suất đầu tư tài sản cố định). Qua đó, có thể đánh
giá chính xác hơn tình hình đầu tư và cơ cấu tài sản của doanh nghiệp.
Cũng giống như phân tích cơ cấu tài sản, khi phân tích cơ cấu nguồn vốn, các
nhà phân tích tính toán tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số
nguồn vốn và xu hướng biến động của chúng theo thời gian. Sau đó xác định mức
độ biến động của các chỉ tiêu này giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc đồng thời cũng
tiến hành so sánh mức độ biến động của từng bộ phận nguồn vốn và tổng nguồn vốn
ở các kỳ để xác định xu hướng biến động. Từ đó, các nhà quản lý nắm được cơ cấu
vốn huy động, nắm được các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân
tố đến sự biến động về cơ cấu nguồn vốn để rút ra những nhận xét, đánh giá.
Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn được xác
định như sau:
Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn
vốn chiếm trong tổng nguồn vốn

=


Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn
Tổng số nguồn vốn

x 100

(1.11)

Nguồn: [6]
Sau khi tiến hành so sánh, phân tích tình hình biến động của các chỉ tiêu phản
ánh cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn, đồng thời xác định và đánh giá mức độ hợp
lý của cơ cấu đó đối với hoạt động của doanh nghiệp, để đánh giá chính sách huy
động và sử dụng vốn của doanh nghiệp đã thực sự hợp lý hay chưa, các nhà phân
tích cần đi sâu phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn thông qua việc tính
toán và so sánh các chỉ tiêu sau đây:
Hệ số nợ trên tài sản: Là chỉ tiêu này phản ánh mức độ tài trợ tài sản của
doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Trị số của chỉ tiêu càng cao chứng tỏ mức độ độc
lập về tài chính của doanh nghiệp càng thấp, mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp
vào chủ nợ càng lớn. Hệ số nợ trên tài sản được tính như sau:
Hệ số nợ
trên tài sản
Nguồn: [6]

=

Nợ phải trả
Tài sản

(1.12)



18
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Ngoài ý nghĩa đo lường khả năng thanh
toán tổng quát của doanh nghiệp như trình bày ở công thức (1.3), chỉ tiêu này còn
cho biết mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bằng nợ phải trả. Trị số của chỉ tiêu
càng lớn, chứng tỏ khoản nợ phải trả dùng tài trợ tài sản của doanh nghiệp càng
nhỏ, tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu là chủ yếu và ngược
lại.
Hệ số tài sản trên vốn chủ sở hữu: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đầu tư vào
tài sản của vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này lớn hơn 1 và càng cao thì chứng tỏ mức độ
độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng giảm dần và ngược lại. Chỉ tiêu này
được tính như sau:
Hệ số tài sản trên
vốn chủ sở hữu

=

Tài sản
Vốn chủ sở hữu

(1.13)

Nguồn: [6]
1.2.3. Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh
Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh chính là việc xem
xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Mối quan hệ này phản ánh cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình bảo đảm vốn của doanh nghiệp được xem xét theo hai
quan điểm luân chuyển vốn và theo tính ổn định của nguồn tài trợ. Tuy nhiên, trong
phạm vi luận văn tác giả chỉ xem xét trên góc độ tính ổn định của nguồn tài trợ tài

sản. Theo quan điểm này thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi hai
nguồn đó là nguồn tài trợ thường xuyên và nguồn tài trợ tạm thời. Nguồn tài trợ
thường xuyên là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp được sử dụng thường xuyên và lâu
dài (bao gồm: vốn chủ sở hữu và vốn vay, vốn thanh toán dài hạn, trung hạn).
Nguồn tài trợ tạm thời là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp có thể sử dụng tạm thời
vào hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn bao gồm các khoản nợ
ngắn hạn, các khoản chiếm dụng của người bán, người mua, người lao động…
Có thể khái quát cân bằng tài chính của doanh nghiệp theo góc độ ổn định
nguồn tài trợ qua sơ đồ dưới đây:


19
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ khái quát cân bằng tài chính

Tài - Phải thu dài hạn
sản dài - Tài sản cố định
hạn
- Bất động sản đầu tư
- Đầu tư tài chính dài
hạn
- Tài sản dài hạn khác
Tổng
Tài - Tiền và tương đương
số tài
sản tiền
sản
ngắn - Đầu tư tài chính ngắn
hạn hạn
- Phải thu ngắn hạn
- Hàng tồn kho

- Tài sản ngắn hạn khác

Nguồn vốn chủ sở hữu
- Vay dài hạn
- Nợ dài hạn
- Vay trung hạn
- Nợ trung hạn

Nguồn
tài trợ
thường
xuyên

- Vay ngắn hạn
Nguồn Tổng số
tài trợ nguồn
- Nợ ngắn hạn
tạm thời tài trợ
- Chiếm dụng bất hợp
pháp

(Nguồn: Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính – NXB Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2008)

Từ sơ đồ trên và biến đổi cân bằng tài chính ta được đẳng thức:
Tài sản
ngắn hạn

-

Nguồn tài

trợ tạm thời

=

Nguồn tài trợ
thường xuyên

-

Tài sản
dài hạn

(1.14)

Nguồn: [19]
Vế trái của đẳng thức trên chính là chỉ tiêu vốn hoạt động thuần. Đây là chỉ
tiêu phản ánh số vốn của doanh nghiệp được sử dụng để duy trì những hoạt động
bình thường, diễn ra thường xuyên tại doanh nghiệp.
Vốn hoạt động thuần có thể tính theo 2 cách:
(1):
(2):

Vốn hoạt động thuần = Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn (1.15)
Vốn hoạt động
Nguồn tài trợ
Tài sản dài
=
(1.16)
thuần
thường xuyên

hạn
Nguồn: [19]
Từ cách xác định trên, ta có thể đánh giá về nguồn tài trợ thường xuyên trong

doanh nghiệp, từ đó rút ra những nhận xét về mức độ cân bằng tài chính của doanh
nghiệp.
1.2.4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán


20
Tình hình thanh toán của doanh nghiệp thể hiện qua việc thu hồi các khoản nợ
phải thu và việc chi trả các khoản nợ phải trả trong mỗi doanh nghiệp. Do đó, các
nhà phân tích cần xem xét các khoản nợ phải thu người và khoản nợ phải trả người
bán. Khi phân tích tình hình thanh toán, các nhà phân tích thường tính ra và so sánh
giữa kỳ phân tích và kỳ gốc các chỉ tiêu phản ánh các khoản phải thu và phải trả của
doanh nghiệp để thấy được sự biến động qua các thời kỳ, nhằm cung cấp thông tin
một cách chính xác và đầy đủ nhất cho các nhà quản trị. Các chỉ tiêu dùng để phân
tích gồm:
- Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả: Đây là chỉ tiêu
phản ánh quan hệ giữa các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn và các khoản
doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn
100% tức là số vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng lớn hơn số vốn mà doanh
nghiệp đi chiếm dụng và ngược lại. Công thức tính như sau:
Tỉ lệ các khoản nợ phải thu

=

Nợ phải thu
Nợ phải trả


x 100 (1.17)
so với các khoản nợ phải trả
Nguồn: [6]
- Số vòng quay các khoản phải thu: Là chỉ tiêu phản ánh trong kỳ kinh doanh,
các khoản phải thu ngắn hạn quay được mấy vòng. Chỉ tiêu này được tính theo công
thức:
Số vòng quay
các khoản phải thu
Nguồn: [6]

=

Tổng số tiền hàng bán chịu
Số dư bình quân các khoản phải thu

(1.18)

Chỉ tiêu này cho biết mức độ hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả
của việc thu hồi nợ. Nếu số vòng quay của các khoản phải thu lớn, chứng tỏ hoạt
động thu hồi nợ của doanh nghiệp là hiệu quả, kịp thời, ít bị chiếm dụng vốn.

- Thời gian thu tiền bình quân: Chỉ tiêu này phản ánh thời gian bình quân thu
được các khoản phải thu. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Thời gian thu =

Thời gian của kỳ phân tích

(1.19)



21
tiền bình quân

Số vòng quay các khoản phải thu

Nguồn: [6]
Nếu thời gian thu tiền dài nghĩa là tốc độ thu hồi tiền hàng chậm, doanh
nghiệp bị chiếm dụng vốn nhiều hơn và ngược lại.
- Số vòng quay các khoản phải trả: phản ánh trong kỳ kinh doanh, các khoản
phải trả ngắn hạn quay được bao nhiêu. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tổng số tiền chậm trả
Số vòng quay các khoản
=
phải trả ngắn hạn
Số dư bình quân các khoản phải trả NH

(1.20)

Nguồn: [6]
Chỉ tiêu này cho thấy mức độ hợp lý của số dư các khoản phải trả người bán
và hiệu quả của việc thanh toán nợ. Nếu chỉ tiêu này có trị số lớn nghĩa là doanh
nghiệp thanh toán tiền hàng kịp thời, ít đi chiếm dụng vốn. Nếu số vòng quay các
khoản phải trả quá cao cũng có thể ảnh hưởng không tốt đến kết quả kinh doanh
trong kỳ của doanh nghiệp vì doanh nghiệp phải huy động mọi nguồn vốn để trả nợ.
- Thời gian thanh toán (hay thời gian quay vòng các khoản phải trả ngắn hạn):
Đây là chỉ tiêu phản ánh thời gian bình quân mà doanh nghiệp thanh toán tiền cho
chủ nợ trong kỳ và được tính như sau:
Thời gian thanh toán

=


Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay các khoản phải trả

(1.21)

Nguồn: [6]
Thời gian thanh toán tiền hàng càng dài, chứng tỏ tốc độ thanh toán tiền càng
chậm, doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác nhiều hơn và
ngược lại.
Bên cạnh việc tính toán và so sánh các chỉ tiêu trên đây, để theo dõi tình hình
thanh toán các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của doanh
nghiệp một cách chặt chẽ, các nhà phân tích cần phải tiến hành so sánh các khoản
nợ phải thu, nợ phải trả giữa cuối năm với đầu năm trên tổng số cũng như trên từng
khoản nợ phải thu, nợ phải trả và số tiền nợ quá hạn cả về số tương đối và số tuyệt
đối trên từng chỉ tiêu và dựa vào tình hình biến động cụ thể của từng chỉ tiêu để rút


22
ra nhận xét, đánh giá.
Trong phân tích tài chính, việc phân tích khả năng thanh toán của doanh
nghiệp cũng hết sức quan trọng. Bởi khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho
thấy năng lực tài chính trước mắt cũng như lâu dài của doanh nghiệp. Khả năng
thanh toán của doanh nghiệp tốt nghĩa là năng lực tài chính của doanh nghiệp cao,
tình hình tài chính lành mạnh và ngược lại.
Khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ngoài việc tính toán và so
sánh một số chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, các nhà phân tích sử dụng chỉ
tiêu Hệ số khả năng thanh toán sau đây:
Hệ số khả năng
thanh toán

Nguồn: [6]

=

Các khoản có thể dùng thanh toán
Các khoản phải thanh toán

(1.22)

Hệ số này được xác định cho từng giai đoạn ngắn hay dài tùy vào nhu cầu
thông tin của doanh nghiệp. Các khoản có thể dùng thanh toán có thể lớn hơn tổng
tài sản vì trong tương lai doanh nghiệp có thể vay thêm để trả nợ. Các khoản phải
thanh toán bao gồm các khoản nợ quá hạn và đến hạn. Hệ số này dùng để xác định
cho hiện tại và tương lai nhưng không dùng cho quá khứ.
1.2.5. Phân tích hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn vật lực, tài chính của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất, với
chi phí thấp nhất [19, tr.235]. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những
biện pháp cực kỳ quan trọng của các doanh nghiệp để thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng cao và phát triển một cách bền vững. Vì vậy, phân tích hiệu quả kinh doanh
là một trong những nội dung cơ bản của phân tích tài chính. Trên thực tế, có nhiều
cách tiếp cận để phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đi
sâu phân tích các hình thức biểu hiện của hiệu quả kinh doanh, các nhà phân tích sử
dụng một số chỉ tiêu cơ bản và đặc trưng nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp (ví dụ như các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh của tài sản, hiệu
quả kinh doanh vốn chủ sở hữu và hiệu quả kinh doanh của chi phí).


23
Chẳng hạn, khi phân tích hiệu quả kinh doanh của tài sản ta dùng các chỉ tiêu

sau:
- Số vòng quay của tài sản: Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh, tài sản
của doanh nghiệp quay được mấy vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu năng hoạt
động của tài sản càng cao và ngược lại.
Công thức tính:
Số vòng quay
của tài sản
Nguồn: [19]

=

Tổng doanh thu thuần trong kỳ
Tổng tài sản bình quân trong kỳ

(1.23)

- Sức sinh lợi của tài sản (ROA): Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản bình
quân đưa vào kinh doanh đem lại mấy đơn vị lợi nhuận sau thuế. Sức sinh lợi của
tài sản càng lớn, hiệu quả hoạt động càng cao dẫn đến hiệu quả kinh doanh càng cao
và ngược lại.
Công thức tính: Công thức (1.9)
Bên cạnh đó, khi phân tích hiệu quả sử dụng VCSH các nhà phân tích thường
sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Số vòng quay VCSH: Chỉ tiêu này cho biết, trong kỳ kinh doanh VCSH của
doanh nghiệp quay được mấy vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu năng hoạt động
của VCSH càng cao và ngược lại. Công thức tính:
Số vòng quay của
VCSH
Nguồn: [19]


=

Doanh thu thuần
VCSH bình quân

(1.24)

- Sức sinh lời của VCSH (ROE): Chỉ tiêu này cho biết, một đơn vị VCSH bình
quân đưa vào kinh doanh đem lại mấy đơn vị lợi nhuận sau thuế. Sức sinh lợi của
VCSH càng lớn, hiệu quả hoạt động càng cao, do vậy hiệu quả kinh doanh càng cao
và ngược lại.
Công thức tính: Công thức (1.7)
Ngoài ra, khi phân tích hiệu quả kinh doanh, các nhà phân tích thường tính
đến hiệu quả kinh doanh của chi phí thông qua chỉ tiêu Sức sinh lợi của chi phí hoạt
động (gọi tắt là ROOE). Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị chi phí hoạt động phát


24
sinh trong kỳ đem lại mấy đơn vị lợi nhuận sau thuế. Trị số ROOE càng lớn, hiệu
quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
Công thức tính:
Sức sinh lợi của chi
phí hoạt động
Nguồn: [19]

Lợi nhuận sau thuế
Chi phí hoạt động

=


(1.25)

1.2.6. Phân tích rủi ro tài chính
Rủi ro tài chính là sự bất trắc, sự không ổn định có thể đo lường được, có thể
đưa đến những tổn thất, mất mát thiệt hại hoặc làm mất đi những cơ hội sinh lời.
Đây là các rủi ro mà doanh nghiệp phải chịu khi sử dụng các khoản nợ (gắn liền với
hoạt động tài chính và mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp).
Khi phân tích rủi ro tài chính, người ta thường xem xét rủi ro thanh toán nợ và
ảnh hưởng của cơ cấu nợ đến khả năng sinh lợi trên VCSH của doanh nghiệp.
Rủi ro thanh toán nợ là một bộ phận cấu thành rủi ro tài chính. Rủi ro thanh
toán nếu không khắc phục kịp thời sẽ dễ dẫn doanh nghiệp đến phá sản. Bởi vậy,
khi phân tích rủi ro tài chính, các nhà phân tích sử dụng các chỉ tiêu phản ánh khả
năng thanh toán (khả năng thanh toán tổng quát, khả năng thanh nhanh, khả năng
thanh toán tức thời…), trong đó chú trọng nhất đến chỉ tiêu “Khả năng thành toán
nợ đến hạn và nợ ngắn hạn”. Dựa vào trị số của các chỉ tiêu phản ánh khả năng
thanh toán cũng như mức độ biến động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà
phân tích sẽ đưa ra mức độ cảnh báo về rủi ro tài chính có thể xảy ra.
Công thức tính khả năng thành toán nợ đến hạn và nợ ngắn hạn:
Hệ số khả năng thanh toán nợ
đến hạn và quá hạn

=

Tiền và các khoản tương đương tiền
Tổng nợ ngắn hạn

(1.26)

Nguồn: [6]
Chỉ tiêu này cho biết khả năng trả nợ đến hạn và quá hạn của doanh nghiệp.

Nếu trị số của chỉ tiêu này càng cao (càng lớn hơn 1) thì doanh nghiệp hoàn toàn
đảm bảo được khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ đến hạn. Ngược lại, nếu trị
số của chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp không bảo đảm khả năng thanh
toán nợ đến hạn, quá hạn và nguy cơ phá sản đang rình rập.


25
1.2.7. Dự báo các chỉ tiêu tài chính
Để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, đáp ứng
được yêu cầu và hiệu quả đặt ra, các nhà quản trị doanh nghiệp luôn luôn phải dự
báo được xu hướng các tình huống xảy ra đối với doanh nghiệp trong tương lai.
Thông qua việc xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển, các nhà quản trị doanh
nghiệp sẽ có những cách thức, hành động để đối phó với những thách thức có thể
xảy đến với doanh nghiệp nhằm hạn chế được những tổn thất nếu có có thể xảy ra.
Một trong những nội dung mà doanh nghiệp phải dự báo đó chính là dự báo tình
hình tài chính. Đây là một vấn đề rất quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp.
Khi dự báo được chính xác tình hình tài chính sẽ giúp doanh nghiệp thấy được triển
vọng tài chính trong tương lai cũng như thấy được những khó khăn gặp phải, giúp
doanh nghiệp chủ động giải quyết được những vấn đề có thể phát sinh liên quan đến
tình hình tài chính với cách thức tốt nhất, tránh được những rủi ro có thể xảy đến.
Để dự báo các chỉ tiêu tài chính, các nhà phân tích sử dụng hệ thống các chỉ
tiêu tài chính qua việc tính toán cụ thể, dựa trên các thông tin trung thực và tin cậy.
Trước hết cần chọn các khoản mục trên các báo cáo tài chính có khả năng thay đổi
khi doanh thu thuần thay đổi. Việc lựa chọn này được dựa vào mối quan hệ giữa
doanh thu thuần với từng khoản mục. Trên cơ sở đó, sẽ dự báo trị số của từng chỉ
tiêu trong thời gian tới. Qui trình dự báo tiến hành như sau:
* Phân loại các chỉ tiêu tài chính trong mối quan hệ với doanh thu thuần tiêu
thụ:
Trong mối quan hệ với doanh thu thuần tiêu thụ, các chỉ tiêu tài chính được
chia làm 2 nhóm chủ yếu sau đây :

- Nhóm 1 là những chỉ tiêu cùng chiều, biến động cùng chiều với doanh thu
thuần tiêu thụ và thường chiếm một tỉ lệ nhất định so với doanh thu thuần tiêu thụ.
- Nhóm 2 là những chỉ tiêu không thay đổi hoặc thay đổi không rõ ràng khi
doanh thu thuần thay đổi hoặc những chỉ tiêu được xác định trên cơ sở các chỉ tiêu
nhóm 1.
* Xác định trị số dự báo của các chỉ tiêu:
- Đối với nhóm chỉ tiêu thứ nhất, trị số dự báo được xác định như sau:


×