Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

LV Thạc sỹ_tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn – hà nội chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.2 KB, 92 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác.


LỜI CẢM ƠN

Lời cảm ơn gửi tới toàn thể cán bộ, giảng viên trong Khoa Tài chính Ngân
hàng, Viện sau đại học trường Đại học kinh tế Quốc Dân, trong thời gian qua đã
hướng dẫn bổ sung cho tôi những kỹ năng và kiến thức cần có của một Thạc sĩ kinh
tế; từ nền tảng này, tôi có thể hoàn thiện các kỹ năng sống và làm việc để phục vụ
tốt hơn cho công việc cũng như cho cuộc sống, tạo tiền đề cho tôi có thể phát triển
kiến thức hơn nữa trong tương lai!
Lời cảm ơn gửi tới toàn bộ ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội, trong thời gian qua đã tạo
điều kiện cho tôi có thời gian học tập nghiên cứu hoàn thành kiến thức và hỗ trợ tôi
trong việc làm luận văn tốt nghiệp. Tôi tin rằng những nghiên cứu trong bài luận
văn của mình sẽ phần nào giúp chi nhánh có cái nhìn tổng quan và hệ thống hơn về
hoạt động huy động tiền gửi của chi nhánh, từ đó góp phần vào sự phát triển chi
nhánh và SHB!
Lời cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ: ….- Giảng viên trong khoa Tài chính Ngân
hàng trường đại học kinh tế Quốc Dân – người hướng dẫn trực tiếp để tôi có thể
hoàn thành luận văn thạc sĩ!
Lời cảm ơn tới hội đồng giám khảo bảo về luận văn đã lắng nghe và hướng
dẫn tôi hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình!
Trân trọng!


MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

NHTW

NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

NHNN

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC

PGD

PHÒNG GIAO DỊCH

SHB

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN –
HÀ NỘI

TCTD


TỔ CHỨC TÍN DỤNG

TCKT

TỔ CHỨC KINH TẾ

TMCP

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN


DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC SƠ ĐỒ

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Bảng 2.2 Tình hình dư Nợ cho vay của SHB chi nhánh Hà Nội quy đổi 41
Ðơn vị: tỷ đồng.........................................................................................41


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là một loại hình tổ chức vô cùng quan trọng đối với một nền kinh
tế. Hệ thống ngân hàng với hàng nghìn chi nhánh có thể tác động đến sự phát triển
của mọi lĩnh vực và của toàn bộ nền kinh tế thế giới. Những năm gần đây, trước bài
học từ những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, nhiều quốc gia nhận thức được

rằng khi ngân hàng ngừng cấp vốn cho những đơn xin vay khi có mức rủi ro cao thì
nền kinh tế gần như “ngừng hoạt động” – giá cổ phiếu, bất động sản giảm trầm
trọng, số lượng thất nghiệp tăng nhanh và ảnh hưởng đến sự hưng thịnh của quốc
gia.
Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển, sự phát triển
đó được nhận thấy trên tất cả các phương diện của đời sống kinh tế xã hội, có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế của Việt Nam: chiến lược và định hướng phát triển của
cả nền kinh tế. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh
tế, ngành Ngân hàng tại Việt Nam cũng phát triển không ngừng với vai trò “đầu
tầu”, là động lực và có trách nhiệm thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Với một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở Việt Nam cũng mang
những đặc điểm và “trọng trách” riêng so với hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở
các quốc gia khác. Các ngân hàng ở Việt Nam hoạt động không chỉ vì mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận đơn thuần, mà thông qua hoạt động của hệ thống các ngân hàng,
chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước có thể điều tiết hoạt động của cả một nền kinh tế,
do vậy mọi hoạt động kinh doanh của các ngân hàng đều được kiểm soát một cách
chặt chẽ.
Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó
khăn người ta càng nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động ngành ngân hàng
với vai trò trung gian thúc đẩy sự hoạt động của nền kinh tế. Với các nghiệp vụ
chính là huy động vốn và tái cấp vốn của mình, hệ thống các ngân hàng thương mại


2

Việt Nam đang phát triển không ngừng và đóng góp vào quá trình phát triển đất
nước, khôi phục nền kinh tế Việt Nam. Nếu như hoạt động cho vay của Ngân hàng
đảm bảo cho quá trình tái phân phối vốn cho nền kinh tế thì hoạt động huy động
tiền gửi đảm bảo nguồn đầu vào cho hoạt động cho vay.

Hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng Việt Nam hiện nay diễn ra
rất khó khăn, một phần bởi những chính sách kinh tế thắt chặt của Nhà Nước khiến
tốc độ chu chuyển tiền tệ giảm mạnh, một phần do những biến động kinh tế thời
gian qua khiến cho tâm lý người dân Việt không yên tâm khi gửi tiền vào ngân
hàng.
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội (SHB
Hà Nội) ra đời và phát triển trong giai đoạn khó khăn chung của hệ thống ngân
hàng, hoạt động huy động vốn của chi nhánh cũng gặp phải sự cạnh tranh lớn của
các ngân hàng khác, thách thức lớn nhất đối với SHB Hà Nội ngay từ khi thành lập
là huy động được nguồn tiền gửi với chi phí hợp lý, độ ổn định cao… đảm bảo cho
hoạt động của chi nhánh. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề này trên phương
diện lý thuyết và tính cấp thiết của thực tế tôi đã lựa chọn đề tài “Tăng cường huy
động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà
Nội”.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận chung về huy động tiền gửi của Ngân
hàng, luận văn đã phân tích thực trạng huy động tiền gửi của Ngân hàng thương mại
cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội, từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại chi nhánh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau, gồm có : Vốn tự có của ngân hàng; Vốn Nợ. Trong Vốn Nợ của ngân hàng có
vốn huy động từ tiền gửi, vốn đi vay. Luận văn dừng lại ở việc nghiên cứu hoạt
động huy động tiền gửi của SHB chi nhánh Hà Nội.


3


Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích thực trạng huy động tiền gửi
của SHB chi nhánh Hà Nội giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, bằng phương pháp thống kê và so sánh
giữa các năm, các chỉ tiêu, để thấy được những kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt
động huy động tiền gửi. Bên cạnh đó, đề tàì còn sử dụng phương pháp phân tích tổng
hợp, đánh giá thực trạng phát triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết.

5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết thúc, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động tiền gửi của ngân hàng thương
mại
Chương 2: Thực trạng huy động tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà
Nội, Chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tại ngân hàng TMCP Sài
Gòn - Hà Nội, Chi nhánh Hà Nội


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát huy động Vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái quát Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức kinh tế có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, có nhiều định nghĩa về
ngân hàng và có nhiều nhầm lẫn về định nghĩa ngân hàng. Ngân hàng có thể được
định nghĩa qua chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, tuy nhiên những

chức năng này không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm
cả các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, công ty bảo hiểm
hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân
hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung
cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo
hiểm, đầu tư vào các quỹ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Ở Pháp, luật ban hành năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là một xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền của dân chúng dưới hình
thức ký thác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ chiết
khấu, tín dụng và tài chính.”
Năm 1942, luật của nước Anh định nghĩa: “ngân hàng bắt đầu bằng việc
nhận tiền từ khách hàng theo những ràng buộc đã được chi tiết hóa theo luật. Ngân
hàng đảm trách việc hoàn trả khi có yêu cầu hoặc khi đến hạn”.


5

Theo pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng thương mại là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Căn cứ vào các khái niệm trên thì hoạt động của Ngân hàng thương mại có
thể được nhận dạng thông qua một số đặc điểm sau:
* Thứ nhất: hoạt động của NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích
kiếm lời (bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân
hàng). Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy
động vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu
cầu về vốn, với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động dịch vụ Ngân hàng được
biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và
chứng khoán ... để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong

một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng
chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
* Thứ hai: hoạt động của NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều
kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do
pháp luật quy định (về vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được
phép hoạt động trên thị trường.
* Thứ ba: hoạt động của NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao
hơn nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc,
mang tính chất dây truyền đối với nền kinh tế. Trong hoạt động Ngân hàng, đặc
biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, các NHTM phải tiến hành huy động tiền gửi
của nhiều người khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc
NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra
khả năng rủi ro thanh khoản cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro
đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt
động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới thường được điều chỉnh


6

và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho
hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Một số cuộc điều tra về ngân hàng đưa ra kết quả gợi ý rằng các ngân hàng
đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ trong chức năng và hình thức hoạt động, đó
là do hiện nay có nhiều khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng, đó là:
- Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ NHTM cung cấp và
nhu cầu của khách hàng.
- Sự gia tăng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ
- Phi quản lý hoá trong lĩnh vực ngân hàng
- Sự gia tăng chi phí vốn
- Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất

- Cách mạng trong công nghệ ngân hàng

1.1.2 Huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề cốt lõi cho quá tình hình thành
và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong
kinh doanh. Nguồn vốn chính là các nguồn hình thành nên Vốn của ngân hàng, việc
tạo lập những nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngân
hàng là điều rất cần thiết.
Tuỳ thuộc vào nguồn hình thành và yêu cầu quản lý người ta chia nguồn
vốn của ngân hàng thành các loại vốn khác nhau, để phục vụ cho việc nghiên cứu
tôi chia Vốn của NHTM bao gồm:
-

Vốn tự có

-

Vốn huy động

-

Vốn đi vay

-

Các nguồn vốn khác

1.1.2.1 Vốn tự có
Vốn tự có của ngân hàng là vốn do chủ sở hữu góp và vốn được tạo ra trong
quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thuật ngữ “vốn chủ sở hữu” có

một ý nghĩa đặc biệt đối với ngân hàng và không thể thay thế trong hoạt động của


7

ngân hàng, cung cấp những nguồn lực ban đầu giúp ngân hàng thành lập, cung cấp
nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng, giúp ngân hàng chống lại rủi ro.
Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn
này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng,
yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Vốn điều lệ
Vốn điều lệ hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất sở
hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá
nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì vốn do ngân sách Nhà
nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông góp thông qua mua cổ phần
(hoặc cổ phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh
góp... Trường hợp của ngân hàng cổ phần, vốn có thể được hình thành từ cổ phần
thường và cổ phần ưu đãi.
Vốn điều lệ thường phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà Nước.
Các quy định thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà mỗi loại
hình ngân hàng cần phải có để bắt đầu kinh doanh ngân hàng. Ngân hàng Nhà
Nước, luật NHNN có quy định cụ thể về vốn pháp định cho từng loại ngân hàng
trong từng điều kiện cụ thể. Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể
bán cổ phiếu trên thị trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ đông thường
được hưởng cổ tức cao hay thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách
phân chia lợi nhuận của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động
Bao gồm cổ phần phát hành thêm (hoặc ngân sách cấp thêm) trong quá
trình hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quỹ ...
Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm: Ngân hàng có thể

phát hành thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi) hoặc xin cấp thêm vốn từ
ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro trong trường
hợp cần phải duy trì thị giá của cổ phiếu...
Huy động từ các loại quỹ: Nếu như lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ để


8

đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường đây chính là nguồn bổ
sung quan trọng nhất. Nguồn bổ sung này có thể lấy trực tiếp từ các quỹ như: Quỹ
dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp... Mặc dù vậy khó nhất là phải xác định được khi
nào thì được phép trích lập từ các quỹ trên để làm nguồn vốn bổ sung, tỉ lệ trích
lập ra sao cho hợp lý.
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng Vốn của ngân hàng, do
đặc trưng trong kinh doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của
NHNN Việt Nam tỷ lệ Vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20.
Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, song Vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng
trong cơ cấu nguồn vốn của các NHTM, đóng vai trò sống còn trong việc duy trì
các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài,
đó là:
- Vốn đóng vai trò tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang
trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập
trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại hoạt động bình thường.
- Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và
hoạt động trước khi ngân hàng có thê huy động được những khoản tiền gửi đầu
tiên.
- Quan trọng hơn cả là Vốn tạo niềm tin cho công chúng, là sự đảm bảo đối
với chủ nợ (gồm cả những người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình
thức dịch vụ mới, cho các chương trình và thiết bị mới.

Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi vốn
điều lệ của ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của
danh mục cho vay và đầu tư những tài sản rủi ro khác. Do vậy, “tấm đệm” dùng để
chống đỡ những thua lỗ cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô
hoạt động của ngân hàng.

1.1.2.2 Vốn huy động từ tiền gửi


9

Vốn huy động từ tiền gửi là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng thương mại. Với việc huy động tiền gửi, ngân hàng có được quyền sử
dụng nguồn vốn huy động này và có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng
hạn cho chủ tài khoản.
“Ngân hàng được nhận tiền gửi của các Tổ chức kinh tế, cá nhân và các Tổ
chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền tửi có kỳ hạn và
tiền gửi khác” - Điều 45 Luật các TCTD số 03/1997/QH10.
Vốn huy động từ tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của
ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt
ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Vốn huy động từ tiền gửi là cơ sở
chính của các khoản vay và do đó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát
triển trong ngân hàng. Khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng như
khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính hiệu quả trong
quản lý ngân hàng.

1.1.2.3 Vốn đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với các đối tượng trong nền
kinh tế (người dân, TCKT); với NHNN hoặc giữa các NHTM với nhau hay với
các TCTD khác.

Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi vay
để đảm bảo nhu cầu tức thời của mình: nhu cầu thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt
buộc... Các ngân hàng có thể vay ở:
Vay trên thị trường vốn: Phát hành giấy tờ có giá
Bản chất của nghiệp vụ này là ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ như
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu để huy động vốn thường nhằm mục đích
đã định. Ví dụ phát hành kỳ phiếu để có tiền cho vay khắc phục hậu quả bão lụt,
để cho vay thu mua nông sản, để đầu tư cho một dự án...
Trong phát hành giấy tờ có giá thì chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn
với mệnh giá quy định; trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu
nợ trên được ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích.
Huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ngân


10

hàng, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Vì vậy
khi thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào
đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn và phương
pháp huy động.
Vốn này chỉ được huy động trong thời gian nhất định, khi đã huy động đủ
khối lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ
phiếu, trái phiếu.
Vay Ngân hàng Nhà Nước (vay ngân hàng Trung Ương)
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ thanh toán...), NHTM thường
vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái
chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương
phiếu này đến tái chiết khấu tại NHNN.

NHNN điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ; tuỳ thuộc chính
sách tiền tệ từng thời kỳ mà NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm
soát nhất định.
Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất
lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của
NHNN trong từng thời kỳ. Còn trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
Đứng về phía NHTM, vay tại NHTW là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào
những khi NHTW hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền tệ nới lỏng
để kích thích đầu tư.
Trong trường hợp khi NHTM đến vay giữa lúc NHTW đang thắt chặt cung
ứng để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên cao với những
khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTW, các NHTM chỉ miễn cưỡng vay trong
tình huống thắt chặt ngặt nghèo, và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh. Khi đó các
khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong tổng tài sản nợ.


11

Tùy vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà NHTW có thể hạ hoặc nâng
lãi suất chiết khấu. Song dù sao đây cũng là nguồn “cứu trợ” cuối cùng đối với
hoạt động vốn của các NHTM.
Huy động vốn qua hình thức vay các Tổ chức tín dụng khác
Đó là nguồn các NHTM vay lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay, nhưng thực
chất nó là hình thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự hợp tác đôi bên
cùng có lợi. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu sẽ có thể sẵn lòng cho các
ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu
hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.
Như vậy nguồn vay mượn từ các TCTD khác để đáp ứng nhu cầu dự trữ và

chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp sẽ bổ sung hoặc thay thế cho nguồn
vay mượn từ NHNN.

1.1.2.4 Các nguồn vốn khác
Các nguồn vốn khác hình thành nên vốn của NHTM như: Nguồn uỷ thác,
nguồn trong thanh toán: Thanh toán L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi...
Vốn của Ngân hàng luôn được giám sát, điều chỉnh sát sao trong nhiều thập
kỷ qua. Chúng ta thấy rằng các ngân hàng luôn phải đáp ứng những yêu cầu tối
thiểu về vốn trong suốt quá trình hoạt động, nó ảnh hưởng đến: rủi ro thanh khoản,
rủi ro phá sản của ngân hàng, tạo và duy trì niềm tin của công chúng đối với ngân
hàng ...
Nguồn vốn của ngân hàng rất phong phú và được hình thành từ các nguồn
khác nhau, nhưng như giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, đề tài chỉ tập trung
vào nghiên cứu nguồn vồn chiếm một tỷ trọng lớn và quan trọng, ảnh hưởng lớn
đến hoạt động của ngân hàng: Nguồn vốn huy động từ tiền gửi của ngân hàng
thương mại.

1.2 Huy động tiền gửi của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Tiền gửi của Ngân hàng thương mại


12

Thuở sơ khai (thế kỉ XVI - XVII), những nghiệp vụ đầu tiên mà các ngân
hàng thực hiện là lưu giữ bảo đảm các vật có giá (như tài sản bằng vàng, bạc…) vì
trong giai đoạn này công chúng rất lo ngại về tình trạng mất mát tài sản do an ninh
hoặc chiến tranh. Những nhà buôn cảm thấy an toàn khi để tài sản của họ ở ngân
hàng hơn là mang theo bên mình trên những chuyến đi trên biển. Người chủ bảo
quản phải đảm bảo trả lại chính những đồng tiền mà họ được chuyển giao để bảo
quản. Tất nhiên trong những điều kiện như vậy, người bảo quản không thể tiến hành

các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhận bảo quản đó, và không thể thu lợi
nhuận để có thể trả lợi tức cho người gửi tiền, lợi nhuận đem lại cho họ là các khoản
phí cất trữ. Dần dần xã hội phát triển đã tạo điều kiện cho những người gửi tiền
không những không mất phí cất trữ, mà còn thu được lợi tức từ những tài sản gửi tại
ngân hàng, thời hạn bảo quản cũng kéo dài thêm. Chỉ khi đó mới xuất hiện khả
năng sử dụng số tiền vay mượn đó để cấp tín dụng thu lợi tức và trả lãi cho người
gửi tiền. Nếu như trước đó việc cấp tín dụng dựa vào vốn tự có của các chủ buôn,
thì bây giờ còn có thể sử dụng vốn vay mượn, đồng thời phải chú ý tới những điều
kiện gửi tiền. Thông thường người ta xem tiền gửi là các số tiền do khách hàng gửi
vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Hiểu như thế chưa trọn nghĩa,
bởi:
+ Đối với người gửi tiền, ý nghĩa tiền gửi phụ thuộc vào mục đích gửi của
họ. Có thể dễ dàng nhận ra hai trường hợp sau: Thứ nhất là khách hàng mở tài
khoản để hưởng các lợi ích từ các công cụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp cho
họ. Thứ hai là khách hàng gửi tiền vào để hưởng lãi như gửi vào tài khoản tiết kiệm
hoặc tài khoản định kỳ. Nhưng đổi lại, họ không thể sử dụng các công cụ thanh toán
của ngân hàng như séc chẳng hạn.
+ Đối với ngân hàng, cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các
ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những
nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi của khách hàng – một quỹ sinh lợi được
gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi
khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Như vậy các loại tiền gửi đã tạo thành


13

nguồn vốn cung cấp cho các nghiệp vụ sinh lợi trong các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Đối với NHTM, có hai nguồn tiền gửi chủ yếu là: tiền gửi của doanh
nghiệp và tiền gửi của dân cư.
Qua những điều trình bày ở trên, người ta nhận thấy có khó khăn trong việc

định nghĩa “tiền gửi”. Ở các nước phát triển, người ta định nghĩa “tiền gửi” trong
một bản luật, luật pháp Anh định nghĩa: “Được coi là tiền gửi, tiền mà ngân hàng
nhận được của khách hàng bất luận dưới danh từ nào, dù phải trả lãi hay không trả
lãi, với quyền sử dụng tiền đó cho hoạt động kinh doanh của mình và với bổn phận
làm nghiệp vụ ngân quỹ cho người ký gửi, nhất là phải trả trong giới hạn số tiền
nhận được, tất cả những lệnh phải trả tiền của ngườitiền gửi bằng séc, lệnh chuyển
khoản, thư tín dụng… hay bất cứ bằng cách nào khác; cũng thâu nhập vào khoản
tiền tiền gửi mọi số tiền mà ngân hàng thu hộ cho người gửi”. Hay tại Pháp: “Tiền
gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được
hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”. Tiền
gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng…
Như vậy, các khái niệm về tiền gửi theo quy định pháp lý nêu trên có mối liên
quan mật thiết với tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Người gửi tiền có thể
lựa chọn các loại hình tiền gửi theo mục đích của họ và được hưởng các dịch vụ do
ngân hàng cung cấp, được hưởng lãi suất. Đồng thời có nghĩa vụ để ngân hàng sử
dụng các số tiền gửi đó cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với cam kết thực
hiện việc hoàn trả vào ngày đáo hạn (đối với tài khoản có kì hạn) hoặc theo yêu cầu
của khách hàng (đối với tài khoản không kì hạn). Ngày nay, khách hàng có nhiều
lựa chọn gửi tiền và có thể làm cho tài sản bằng tiền sinh ra lãi theo các dự đoán và
tính toán khác nhau của chính họ.

1.2.2 Các hình thức huy động tiền gửi
Các NHTM khác nhau có các hình thức huy động tiền gửi khác nhau, tuy
nhiên các hình thức chính bao gồm:


14


Huy động Tiền gửi giao dịch:
Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi giao dịch lâu đời nhất mà ngân hàng
cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Tiền gửi
giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải hạch toán ngay lập tức cho các lệnh rút tiền hoặc
chuyển tiền của khách hàng - người được chỉ rõ là người được thụ hưởng. Tiền gửi
giao dịch bao gồm tiền gửi được hưởng lãi và tiền gửi không được hưởng lãi (hoặc
hưởng lãi rất thấp):
+ Tiền gửi thanh toán: Đó là khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử
dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các
khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an
toàn và thuận tiện.
Đối với tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường
được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản.
Tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có
thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất
định (thấu chi tài khoản). Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là
một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc
nào. Khi khách hàng gửi tiền vào tài khoản thanh toán này thường không được
hưởng lãi hoặc hưởng lãi suất rất thấp để đổi lại quyền được sử dụng các dịch vụ
tiện ích của ngân hàng.
+ Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý : Là các khoản tiền được ký gửi với mục
đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần thanh toán
khách hàng có thể đến ngân hàng để chi tiêu. Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu
của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử dụng tồn khoản chỉ
khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
Huy động Tiền gửi có kỳ hạn của Tổ chức kinh tế, cá nhân
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức xã hội có các hoạt động thu, chi tiền theo các
chu kỳ xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi. Tuy khoản tiền này
không tiện lợi và linh hoạt như tiền gửi thanh toán (do khi cần tiền phải đến ngân



15

hàng để lập lệnh thanh toán) nhưng bù lại tiền gửi có kỳ hạn lại có lãi suất cao hơn
tuỳ theo độ dài của kỳ hạn được ghi trên hợp đồng.
Khi gửi tiền vào NHTM theo tài khoản gửi có kỳ hạn, điều ngân hàng cần
biết trước tiên là gửi với thời gian bao lâu. Thông thường định kỳ có thể là 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm hoặc hơn nữa. Tại Việt Nam, các khoản tiền gửi có
kỳ hạn thường nằm trong khoảng 1 tháng đến 6 tháng. Nguyên nhân vì các doanh
nghiệp nước ta hầu hết thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn không lớn
và tốc độ quay vòng vốn khá nhanh. Do vậy, họ khó có thể gửi với kỳ hạn dài.
Hơn nữa nếu gửi tiền có kỳ hạn càng dài mặc dù được hưởng lãi suất cao hơn
nhưng khi có nhu cầu rút tiền đột xuất thì khoản lãi suất mà ngân hàng trả sẽ rất
thấp, do phải chịu lãi suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch huy động tiền
gửi của ngân hàng.
Lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường là cao hơn nhiều so
với tiền gửi không kỳ hạn. Lý do ở đây là, khi đã thống nhất với ngân hàng rằng
sẽ gửi tiền trong khoảng thời gian nào đó, có đến hơn 80% người gửi tiền đã giữ
được cam kết nói trên. Do vậy, NHTM hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi để cho
vay. Với khoản cho vay ổn định này, ngân hàng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn,
vì thế tiền thu lao ngân hàng trả cũng phải cao hơn để kích thích sự gửi tiền hơn
nữa.
Tóm lại, đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và ngân
hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích
luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Các NHTM
nhận 2 loại tiền gửi có kỳ hạn tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (tức khi muốn
rút ra phải báo trước).
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hoá

loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với mức lãi suất khác
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.


16

Huy động Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Trong cộng đồng dân cư luôn có những người có khoản tiền tạm thời nhàn
rỗi. Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của dân cư chưa sử dụng cho tiêu
dùng. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các
khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều
có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các
khoản tiền tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều
tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen
giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các
hình thức tiết kiệm đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Người gửi tiết kiệm sẽ
có sổ tiết kiệm xác định thời gian và hình thức trả lãi đã thoả thuận với ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư là nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong
nguồn vốn của ngân hàng và được các ngân hàng đặc biệt chú tâm huy động. Hiện
nay tiền gửi tiết kiệm là khu vực tiềm năng đồng thời là nơi cạnh tranh gay gắt
giữa các ngân hàng, để thu hút nguồn tiền này các ngân hàng luôn đưa ra các hình
thức huy động đa dạng như tiết kiệm bằng Việt nam đồng, bằng vàng và bằng
ngoại tệ, với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn và với nhiều kỳ hạn để người gửi có cơ
hội lựa chọn cho phù hợp, tiện ích nhất.
Huy động Tiền gửi của các Tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn tiền gửi thường có quy mô nhỏ, giữa các ngân hàng luôn có
tiền gửi của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là để đảm bảo thanh toán thuận
tiện, phục vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình do vậy nguồn tiền gửi này
thường không được các ngân hàng chú trọng phát triển.


1.2.3 Đặc điểm tiền gửi của Ngân hàng thương mại
Tiền gửi của NHTM có những đặc điểm chung sau:
- Tiền gửi phải được thanh toán khi có sự yêu cầu của khách hàng, ngay cả
khi đó là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn.
Hoạt động nhận tiền gửi được nhìn nhận như là một nghiệp vụ kinh doanh
của NHTM, với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng thông qua mở


17

cho khách hàng một tài khoản như tài khoản gửi định kì (tiền gửi có kỳ hạn), tài
khoản tiền gửi hoạt kỳ (tiền gửi không kỳ hạn) và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Giao
dịch nhận tiền gửi của ngân hàng được hiểu là cam kết song phương giữa NHTM
với khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi. Giai
đoạn đầu, nó chỉ đơn thuần là một hợp đồng dịch vụ gửi giữ tài sản, theo đó ngân
hàng đóng vai trò là bên nhận gửi giữ để được nhận thù lao. Về sau, do nhu cầu
khách quan của hoạt động kinh tế, giữa ngân hàng và khách hàng có thêm thoả
thuận ngân hàng có thể sử dụng chính số tiền này để đầu tư nhằm mục đích sinh lợi,
với điều kiện là phải hoàn trả cho người sử dụng tòan bộ số vốn đã sử dụng kèm
theo một khoản tiền lãi nhất định tuỳ thuộc vào thời gian mà ngân hàng giữ khoản
tiền đó. Giao dịch nhận tiền gửi đã được nhìn nhận là hành vi vay tiền từ công
chúng với cam kết đảm bảo an toàn cho số tiền gửi đó cùng với nghĩa vụ hoàn trả cả
lãi và gốc. Việc ngân hàng giữ các khoản tiền gửi này cho khách hàng không đơn
thuần là một nghiệp vụ giữ hộ tài sản hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận
thù lao (như giai đoạn khởi thuỷ) mà quan trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn
- nghiệp vụ đi vay của NHTM từ nền kinh tế. Do đó khi người gửi tiền yêu cầu
thanh toán thì ngân hàng buộc phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác
Thông thường chiếm hơn 70% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng
hàng năm của ngân hàng. Tiền gửi là cơ sở chính của cho vay và do đó là nguồn gốc

sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển
“Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng, là
khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán để phân biệt ngân hàng với các loại
hình kinh doanh khác, năng lực đội ngũ nhân viên ngân hàng cũng như của các nhà
quản lý ngân hàng trong việc thu hút tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ
doanh nghiệp, cá nhân, là thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng đối
với ngân hàng” (Peters.Rose, 2001)
- Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc.


18

Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ
đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay
phần còn lại theo quy định.
Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này - tỷ lệ do Ngân hàng Nhà nước
ban hành và có hiệu lực trong thời kỳ nhất định. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân
hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để
đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung
ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Chính vì thế chi phí tiền gửi cao hơn chi phí trả lãi cho tiền gửi. Hiện nay, hầu hết
các nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan
trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan trọng nhất
của ngân hàng. Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để có thể thu
hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng
phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu
nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường
cung cấp các dịch vụ tài chính càng làm cho vấn đề nêu trên trở nên phức tạp hơn
bởi vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm

thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay.
1.2.4 Vai trò của hoạt động huy động tiền gửi
Đối với các NHTM, như đã trình bày ở trên “tiền gửi là nền tảng cho sự
thịnh vượng và phát triển, là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp
chúng ta phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp, công ty tài chính
khác”. Tiền gửi là cơ sở chính cho các khoản cho vay của NHTM, là nguồn gốc xâu
xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng
phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng
thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Khả năng huy động tiền
gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan trọng đánh giá tính hiệu quả


19

trong quản lý ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn thu được một khoản lệ phí nhất
định khi khách hàng sử dụng thêm các dịch vụ tiện ích của ngân hàng.
Tài sản của ngân hàng được hình thành từ nguồn vốn trong đó tiền gửi chiếm
hơn 70% tổng nguồn vốn, với những ngân hàng lớn có khả năng quay vòng vòng
vốn nhanh, tỷ lệ này chiếm tới 75% - 80% tổng nguồn vốn của ngân hàng, và như
vậy tiền gửi là thành phần chính tạo nên tài sản của ngân hàng. Hoạt động sơ khai
đầu tiên để hình thành nên ngân hàng đó là hoạt động nhận tiền gửi, tài sản cất trữ
của khách hàng. Với hoạt động cơ bản là huy động vốn và cho vay, tài trợ thương
mại khác, có thể nói huy động tiền gửi là điều kiện cần và đủ để một ngân hàng có
thể hoạt động và kinh doanh.
Huy động tiền gửi với một chi phí hợp lý ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh
doanh của ngân hàng. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân
hàng tìm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Trong các nguồn vốn của ngân
hàng, nguồn từ tiền gửi của khách hàng có chi phí cạnh tranh hơn cả, khi nguồn tiền
gửi huy động không đủ, các ngân hàng buộc phải tính đến nguồn đi vay: vay
NHNN, vay TCTD khác… các khoản vay này chỉ mang tính “bù đắp nhất thời” cho

khả năng thanh khoản của ngân hàng. Với những quy định về tỷ lệ cho vay/ vốn huy
động khắt khe của NHNN các ngân hàng buộc phải tìm mọi cách huy động tiền gửi
của dân cư để đảm bảo khả năng cho vay của mình.
Đối với nền kinh tế hoạt động huy động tiền gửi của ngành Ngân hàng có vai
trò đặc biệt quan trọng. Với vai trò là “đầu vào” cho hoạt động của ngân hàng, tiền
gửi của ngân hàng là điều kiện cần và đủ để ngân hàng có thể hoạt động và đảm bảo
cho các chỉ số thanh khoản của ngân hàng.
Nhờ có hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng, việc tái cấp vốn cho
nền kinh tế mới được đảm bảo và thực hiện, vốn được chuyển từ những nơi chưa có
nhu cầu sử dụng đến nơi sản xuất kinh doanh thực sự có nhu cầu về vốn, tích tụ các
nguồn vốn nhàn rỗi nhỏ lẻ tạo nên những khoản đầu tư lớn mang tầm cỡ quốc gia…
Thông qua hoạt động huy động tiền gửi, với những quy định về tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn… NHNN, Chính phủ có thể gián tiếp


20

can thiệp, quản lý, điều tiết nền kinh tế vĩ mô theo đường lối, chính sách đã được
vạch ra hoặc ổn định thị trường tiền tệ với những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn khác
nhau.
Ngân hàng ra đời và phát triển từ những nhu cầu phát sinh của chính khách
hàng. Ban đầu đó chỉ là những nhu cầu đơn giản về cất trữ, bảo quản tiền, tài sản có
giá trị, sau đó là các nhu cầu về thanh toán, tín dụng. Đối với từng đối tượng khách
hàng hoạt động huy động tiền gửi có tầm quan trọng khác nhau:
- Các khách hàng doanh nghiệp, doanh nhân có nhu cầu kinh doanh, sử dụng
các dịch vụ của ngân hàng; thông qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung
ứng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh chóng và an toàn.
Những nghiệp vụ này nếu tự khách hàng đứng ra đảm trách sẽ tốn rất nhiều công
sức và thời gian. Về phía ngân hàng, qua nghiệp vụ này, cũng thu hút được một số
lượng tiền gửi của khách hàng trên tài khoản và một lệ phí nhất định.

- Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi tiền
tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một số séc để thuận tiện chi
trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh lời.
Trong nền kinh tế thị trường, một công dân muốn tích luỹ vốn trước hết có hai khả
năng lựa chọn: hoặc giữ đồng tiền tích luỹ được của mình trong két sắt, hoặc mua
cổ phần (của các công ty cổ phần) hay mua trái phiếu (của nhà nước và của công
ty). Cả hai khả năng này đều có rủi ro hoặc ít khả năng thanh toán. Do đó, họ phải
có cách lựa chọn thứ ba: gửi tiền vào ngân hàng để vừa gữ được vốn tích lũy của
mình tương đối an toàn, vừa thu được một khoản lợi tức nhất định.

1.3 Tăng cường huy động tiền gửi của Ngân hàng thương mại
Tăng cường huy động tiền gửi là việc tăng quy mô nguồn tiền gửi huy động
một cách ổn định và bền vững với cơ cấu huy động và chi phí huy động hợp lý từ
việc khai thác lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong công chúng, hộ gia đình, của các
tổ chức kinh tế để thực hiện bốn hoạt động cơ bản của NHTM, đó là :
- Huy động để đáp ứng dự trữ bắt buộc.
- Huy động để cho vay.


×