Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

thị trường tiền tệ Việt Nam – thực trạng và giải pháp.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.72 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền với
tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù thị trường tiền tệ
Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết
cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng
cân đối, điều hòa nguồn vốn giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm
bảo khả năng thanh toán, hoạt động an toàn và hiệu quả. Thông qua các hoạt động trên thị
trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ nhằm
thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã
góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi
sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh tế
quốc tế.
Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển thị trường tiền tệ các nước trên thế giới, thị trường
tiền tệ Việt Nam vẫn còn non trẻ và nhiều bất cập, cần đẩy nhanh hoàn thiện để phát triển.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X xác định phát triển thị trường tài
chính có vai trò quan trọng trong việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Do đó việc
đánh giá đúng thực trạng các kết quả đạt được, các hạn chế của thị trường tiền tệ Việt Nam
trong thời gian qua và đề ra mục tiêu, định hướng, giải pháp phát triển thị trường trong
những năm tới có ý nghĩa rất lớn để tiếp tục hoàn thiện thị trường tiền tệ, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm học viên cao học lớp ngày 3 – khóa 17, chọn đề
tài: “Thị trường tiền tệ Việt Nam – thực trạng và giải pháp” làm chủ đề nghiên cứu của
nhóm.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
- Đánh giá thực trạng những kết quả đạt được và những hạn chế trong quá
trình hình thành và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong 15 năm qua
(7/1993 -5/2008);
- Xác định nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém của thị trường tiền tệ
Việt Nam hiện nay;


Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp Nhóm 5
- Đưa ra mục tiêu, định hướng và giải pháp thực hiện phát triển thị trường
tiền tệ Việt Nam từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2015.
Phương pháp nghiên cứu, thu thập dữ liệu:
Nhóm sử dụng phương pháp phân tích định tính dựa trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp
thu thập từ tài liệu tạp chí chuyên ngành và báo cáo thống kê chuyên ngành ngân hàng.
Cấu trúc bài viết: ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý thuyết: Phần này nêu và phân tích một số khái niệm cơ bản về thị
trường tiền tệ;
Phần 2: Thực trạng thị trường tiền tệ Việt Nam: Phần này tập trung đánh giá những kết
quả đạt được và tồn tại, hạn chế trong quá trình hình thành và phát triển thị trường tiền tệ
Việt Nam giai đoạn 7/1993 – 5/2008. Trong đó, tập trung vào các ngiệp vụ thị trường chủ
yếu: thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường đấu thầu trái phiếu chính phủ.
Phần 3: Mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam từ nay
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2015: Phần này đưa ra các mục tiêu, định hướng và giải
pháp phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam cần hoàn thiện đến năm 2010 và định hướng
phát triển đến năm 2015.
Những người tham gia bài viết này gồm:
1. Trần Văn Phước
2. Lê Quốc Khánh
3. Trần Văn Thanh
4. Lê Quốc Thành
5. Nguyễn Xuân Tân
6. Nguyễn Văn Hương
7. Lê Thị Thanh Huyền
8. Nguyễn Chí Linh
9. Phạm Yến Vy
10. Phachantha Aphawhone
GVHD: Vũ Thị Minh Hằng Trang 2
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp Nhóm 5

P hần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm thị trường tiền tệ
- “Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ hạn
dưới một năm, là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế” (Sử Đình Thành và
Vũ Thị Minh Hằng, 2006: 488).
- Ở nước ta, thị trường tiền tệ mới hình thành, công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ
còn ít nên luật pháp cho phép các giấy tờ có giá dài hạn được phép giao dịch trên thị trường
tiền tệ. Theo điều 9, luật sửa đổi một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước (2003) định
nghĩa: “Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán ngắn hạn các giấy tờ
có giá, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và
các giấy tờ có giá khác”.
2. Các loại thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ được phân loại căn cứ vào cách thức tổ chức hoặc loại công cụ.
2.1. Phân loại theo cơ cấu tổ chức:
Thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường tiền tệ cổ điển: là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng
(TCTD) đặt dưới sự quản lý của ngân hàng trung ương (NHTW). Hàng ngày, tại đây hình
thành lãi suất chỉ đạo thị trường tiền tệ, như: lãi suất LIBOR trên thị trường tiền tệ London
(London Inter Banking Offered rate), lãi suất PIBOR trên thị trường tiền tệ Paris (Paris Inter
Banking Offered rate), SIBOR (thị trường tiền tệ Singapore)…
- Thị trường tiền tệ mới: đây là thị trường các trái phiếu ngắn hạn, cơ cấu của nó gồm 2
cấp:
+ Thị trường tiền tệ sơ cấp: là thị trường tiền tệ chuyên phát hành các loại trái phiếu
ngắn hạn lần đầu.
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp: là thị trường tiền tệ tổ chức mua bán lại các trái phiếu
đã phát hành ở thị trường sơ cấp.
+ Thị trường mở (Openmarket operation): là thị trường mua bán các loại chứng
khoán nhà nước ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ,... nhằm điều tiết
cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Tức thông qua thị trường mở, NHTW có thể làm cho
“tiền dự trữ” của các ngân hàng thương mại (viết tắt NHTM) tăng lên hoặc giảm xuống, từ

đó tác động đến khả năng cung cấp tín dụng của NHTM làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền
tệ của nền kinh tế.
GVHD: Vũ Thị Minh Hằng Trang 3
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp Nhóm 5
2.2. Phân loại theo đối tượng tham gia: Thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM (hay thị trường liên ngân hàng –
Interbank): Thị trường này dưới sự điều hành của NHTW nhằm mục đích điều tiết vốn
trong hệ thống NHTM đồng thời tạo điều kiện cho NHTW thực hiện vai trò là người cho
vay cuối cùng.
- Thị trường các công nợ ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, kỳ phiếu ngân
hàng, chứng chỉ tiền gửi, các khế ước cho vay . .. bao gồm cả thị trường phát hành và thị
trường lưu thông, thị trường này biểu hiện cho sự phát triển thị trường tiền tệ.
- Thị trường hối đoái: là thị trường giao dịch các loại ngọai tệ và các phương tiện thanh
tóan có giá trị ngoại tệ, là một bộ phận quan trọng trong kết cấu thị trường tiền tệ. Thị
trường ngọai hối mang đặc trưng là tính quốc tế cao, hoạt động của nó đáp ứng những nhu
cầu về thương mại, đầu tư ngắn hạn trên bình diện quốc tế, đặc biệt là tạo điều kiện can
thiệp của NHTW nhằm đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia.
Công cụ hoạt động thị trường hối đoái, gồm: hợp đồng giao ngay (Spot), hợp đồng hoán
đổi (Swap), hợp đồng kỳ hạn (Forward), hợp đồng quyền chọn (Option)…. nhờ đó đáp ứng
được phần lớn nhu cầu ngoại tệ cho các đơn vị, tổ chức và làm cho thị trường ngoại hối trở
nên nhộn nhịp hơn.
3. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
- Trong quá trình phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng là hình thức
sơ khai của thị trường tiền tệ hoạt động với mục đích cân đối, điều hòa vốn giữa các NHTM
với các TCTD nhằm khai thông khả năng thanh toán cho các TCTD. Vì vậy, nếu xét theo
chiều ngang, thị trường tiền tệ biểu hiện quan hệ điều tiết vốn giữa các NHTM, các TCTD.
Còn nếu xét theo chiều dọc, thị trường tiền tệ biểu hiện mối quan hệ giữa NHTW và NHTM
qua con đường tái chiết khấu, trong đó lãi suất tái chiết khấu là một công cụ linh hoạt để
NHTW điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
Ngày nay, quy mô họat động của thị trường tiền tệ được mở rộng về phạm vi điều tiết

vốn, theo đó các chủ thể tham gia trên thị trường đa dạng hơn.
Các chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ bao gồm:
- Chủ thể cung ứng nguồn vốn như: NHTW, NHTM, các TCTD khác… Việc đầu tư
nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường này có độ rủi ro thấp, do trong thời gian ngắn giá cả
chứng khoán biến động không đáng kể.
- Chủ thể có nhu cầu về vốn như: NHTM, các đơn vị kinh tế khác, kho bạc nhà nước...
Thông qua thị trường tiền tệ, các chủ thể này có thể thu hút được nguồn vốn ngắn hạn dễ
dàng và chi phí thấp.
GVHD: Vũ Thị Minh Hằng Trang 4
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp Nhóm 5
- Chủ thể trung gian môi giới, vừa đi vay và vừa cho vay như: NHTM, Công ty chuyên
môi giới.
4. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ
4.1. Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn
Nghiệp vụ này diễn ra chủ yếu giữa các NHTM, xuất phát từ họat động kinh doanh tiền
tệ, tại một thời điểm nhất định một số NHTM tạm thời thừa vốn trong khi đó một số NHTM
khác rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm thời. Do đó để đảm bảo cho khả năng thanh toán,
quan hệ điều tiết vốn giữa các NHTM diễn ra thông qua các hình thức sau:
- Cho vay bằng tiền mặt: Khi NHTM thiếu hụt vốn tạm thời, có thể đi vay tại một
NHTM khác đang thừa vốn tạm thời tại thời điểm đó để đảm bảo khả năng thanh toán. Giao
dịch liên ngân hàng chủ yếu dưới hình thức tín chấp hoặc đảm bảo bằng số dư tiền gửi đối
ứng tại ngân hàng cho vay…; Thời hạn cho vay rất ngắn: hàng ngày (qua đêm), định kỳ 1
tuần, 2 tuần, tháng…
- Cho vay dưới hình thức cầm cố hoặc chiết khấu các chứng từ có giá: Khi có nhu cầu
lớn về vốn, các NHTM đã vay các TCTD khác nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì
NHTW có thể hỗ trợ bằng các nghiệp vụ sau:
+ Tái chiết khấu chứng từ có giá: NHTW sẽ nhận chiết khấu lại những chứng từ có
giá mà trước đây NHTM đã chiết khấu cho khách hàng.
+ Bảo chứng lại: NHTW sẽ cho NHTM vay vốn trên cơ sở cầm cố các chứng từ có
giá mà trước đây NHTM đã nhận cầm cố từ khách hàng.

4.2. Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn
Công cụ chủ yếu của nghiệp vụ này là các loại trái phiếu ngắn hạn được phát hành từ thị
trường tiền tệ sơ cấp và bán lại ở thị trường thứ cấp.
Nghiệp vụ này phát sinh trong trường hợp một số chủ thể kinh tế cần bổ sung vốn bằng
tiền của mình nên phát hành một lượng trái phiếu ngắn hạn ra thị trường, trong khi một số
chủ thế khác đang muốn sinh lợi cho khoản vốn nhàn rỗi của mình bằng con đường kinh
doanh trên thị trường tiền tệ, họ sẽ mua bán trái phiếu ngắn hạn. Ở nghiệp vụ này, ngoài trái
phiếu ngắn hạn thì còn có kỳ phiếu thương mại, khế ước nợ, kỳ phiếu ngân hàng, các lọai
thư tín dụng…. Và đặc biệt là họat động của thị trường mở - thực hiện việc mua bán ngắn
hạn dưới 1 năm các giấy tờ có giá trị như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Thông qua nghiệp
vụ này, NHTW điều tiết cung cầu về tiền tệ: tùy theo mục tiêu từng thời kỳ mà NHTW bơm
tiền hay rút bớt tiền ra khỏi lưu thông.
GVHD: Vũ Thị Minh Hằng Trang 5
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp Nhóm 5
Phần 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
Do sự bất ổn định trên thị trường tiền tệ thế giới vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008
mà cụ thể nhất là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ do giá nhà đất sụt giảm làm cho
đồng USD mất ổn định mà đỉnh điểm của sự mất giá đồng USD là ngày 15/04/2008 tỉ giá
EUR/USD=1,6000 đi kèm với việc đồng USD mất giá là giá dầu thô và vàng liên tục lập
những kỷ lục mới, có lúc vàng tiến đến 1031USD/ounces và dầu đã lập kỷ lục với mức
135USD/thùng đã làm cho lạm phát tăng cao trên toàn thế giới.Mặt khác trong thế giới
ngày nay sự đan xen và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là không tránh khỏi đã gây
nên những xáo trộn trên thị trường hối đoái của các nước trong đó có Việt Nam.
- Song song với nguyên nhân trên còn có nguyên nhân là do sự yếu kém xuất phát từ
nội tại của nền kinh tế trong điều hành chính sách vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách
tiền tệ mà cụ thể là việc điều hành chính sách tỉ giá có lúc tỉ giá do NHNN công bố xuống
15.700 VND ăn 1 USD và trên thị trường tự do là VND/USD=15.500 trong tháng 02/2008
nhưng đến ngày 27/05/2008 thì mọi chuyện hoàn toàn ngược lại tỉ giá chính thức do ngân
hàng nhà nước công bố là VND/USD16.212 nhưng trên thị trường tự do
VND/USD=17.550.

- Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng do nhập siêu trong 5 tháng
đầu năm 2008 quá cao 14,4tỉ USD(do có lúc doanh nghiệp xuất khẩu không bán được USD)
cộng với tâm lý của người dân khi lạm phát tăng cao(15,96%) nên đổ xô đi mua USD tích
trữ làm cho thị trường ngoại tệ biến đổi khó lường trong thời gian qua trong khi đó trên thị
trường quốc tế EUR/USD =1,579 tức đồng USD đang mất giá.
1. Thị trường liên ngân hàng
- Thị trường nội tệ liên ngân hàng ra đời theo Chỉ thị 07/CT-NH1 ngày 07/10/1992 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho phép các TCTD được thực hiện cho vay và
đi vay lẫn nhau và chính thức hoạt động từ tháng 7/1993. Theo Quyết định số 114/QĐ-
NH14 ngày 21/6/1993 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân
hàng và Quyết định số 190/QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc bổ sung, sửa đổi Quy chế
tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng, thị trường nội tệ liên ngân hàng được
hình thành dưới hình thức là một thị trường tập trung có tổ chức qua Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) và gắn liền với các trung tâm thanh toán bù trừ (Thành phố Hồ Chí Minh và thành
phố Hà Nội) số lượng thành viên tham gia và doanh số hoạt động rất hạn chế; trong đó,
những thành viên là NHTM Nhà nước có khả năng chi phối trên cả giác độ huy động vốn
GVHD: Vũ Thị Minh Hằng Trang 6
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp Nhóm 5
và cho vay vốn do có lợi thế về tài chính và uy tín. Từ năm 1997, hoạt động của thị trường
diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thực hiện thông
qua NHNN. Các Ngân hàng thỏa thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như
điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức độ tín nhiệm và có sự tham gia tích cực của
NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đến nay, phần
lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm bằng
số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí một số ngân hàng đã thực hiện quan
hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền lẫn nhau.
* Kết quả đạt được
- Số lượng thành viên và doanh số hoạt động trên thị trường liên ngân hàng đã tăng
đáng kể, phương thức giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều
thực hiện qua mạng, thời hạn của các giao dịch khá linh hoạt (qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1

tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng).
Hiện nay, gần 30 NHTM đã thực hiện giao dịch vốn liên ngân hàng (gửi tiền/cho vay và
nhận tiền gửi/đi vay) thông qua hệ thống của Hãng Reuters. Hãng Reuters đã xây dựng
được trang lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam (VNIBOR)
trên cơ sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng.
- “ Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng từ năm 2002 đến nay, theo đánh
giá của các chuyên gia ngân hàng thì doanh số giao dịch tăng khoảng 20% mỗi năm” (Đoàn
Phương Thảo). Kết quả trên đã chứng minh thị trường nội tệ liên ngân hàng đã thực hiện
được vai trò điều tiết vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam giữa các ngân hàng, làm tăng hiệu
quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD an toàn, hiệu quả.
- Bên cạnh phát triển thị trường liên ngân hàng, nghiệp vụ tái cấp vốn đã được NHNN
từng bước đổi mới, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ, thực hiện vai
trò là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế:
+ “Đến nay, tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các
hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Các
hình thức cho vay theo chỉ định của Chính phủ trước đây (từng chiếm tỷ trọng lớn trong cho
vay tái cấp vốn) đã giảm mạnh qua các năm” (Phùng Khắc Kế, 2006).
+ Cơ sở pháp lý cho các hoạt động nghiệp vụ tái cấp vốn hoàn thiện; thủ tục, quy
trình nghiệp vụ tái cấp vốn được cải tiến theo hướng tinh giản và thuận lợi:
Năm 2003, Luật sửa đổi một số điều của luật NHNN đã cho phép giấy tờ có giá dài
hạn như các loại trái phiếu của Chính phủ được sử dụng trong các giao dịch giữa NHNN và
GVHD: Vũ Thị Minh Hằng Trang 7
Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và Giải pháp Nhóm 5
các ngân hàng; NHNN ban hành đầy đủ các quy chế nghiệp vụ tái cấp vốn. Thời gian xử lý
đề nghị xin vay giảm xuống còn 2 ngày (trước đây 5 ngày).
+ Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ngày càng được điều hành linh hoạt, phù
hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 2003 đến nay, lãi suất tái
cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu được điều chỉnh dần để hình thành khung lãi suất định
hướng lãi suất thị trường. Cùng với việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu để trở thành lãi suất
sàn, NHNN đã thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu cho từng ngân hàng. Qua đó, nghiệp

vụ chiết khấu được điều hành như một kênh thường xuyên với giá rẻ từ NHNN. Trong khi
đó nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá áp dụng lãi suất tái cấp vốn là
mức lãi suất trần để NHNN từng bước thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị
trường.
0.0%
2.0%
4.0%
6.0%
8.0%
10.0%
12.0%
14.0%
08/03 01/05 04/05 12/05 01/08 05/08
LSTCV
LSCK
+ Hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp
thời nhu cầu thanh khoản của các NHTM, nhất là vào các thời điểm cuối năm và gần Tết
Nguyên đán.
* Những bất cập, tồn tại và hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng thị trường liên ngân hàng vẫn
còn nhiều bất cập, hạn chế cần hoàn thiện. Đó là:
- Số lượng các thành viên tham gia và quy mô giao dịch còn hạn chế và phần lớn là
để giải quyết nhu cầu về khả năng thanh toán: Trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã hình
thành nhóm các ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND chủ yếu là các NHTM Nhà
GVHD: Vũ Thị Minh Hằng Trang 8

×